VĂN HÓA ONLINE – ĐỊA LÝ NHÂN VĂN – THỨ HAI 12 JUNE 2023
Ý kiến/Bài vở vui lòng gởi về Email: lykientrucvh@gmail.com
Hạc vàng Vũ hán

NGUYỄN THỊ MẮT NÂU
Vũ Hán khi xưa có hạc vàng
Vần thơ Thôi Hiệu mênh mang giọt sầu
Dòng đời tuôn chảy về đâu
Ngày nay Vũ Hán thảm sầu thê lương
Dịch phổi lăn lóc đoạn trường
Còn đâu hoàng hạc tơ vương hôm nào.
Dịch Vũ Hán hoành hành, gieo rắc, lây lan, truyền nhiễm, gây chết chóc kinh hoàng
cho nhân loại liền suốt mấy năm (2019-2221, 2022).
Chưa kể còn biến thể.
Vũ Hán xưa và Vũ Hán nay
Hoang mang ngơ ngẩn suốt canh chày
Nhớ thơ Thôi Hiệu Lầu Hoàng Hạ
Nay chợt kinh hoàng với dịch lây
Thiên tai nhân họa vi sinh học
Nhân loại trầm luân một kiếp này
Vũ Hán ngày xưa:
Nguyên là thành Vũ Xương, có lầu Hoàng Hạc, có thơ Thôi Hiệu, có thơ Lý Bạch.
Và bầu trời Vũ Hán là bầu trời của Hạc Vàng thi thoại.
Theo Liệt Tiên Toàn truyện, của Vương Thế Trinh đời Minh, giai thoại Hạc Vàng
Vũ Hán như sau:
Thời đó có người mở quán bán rượu ở chân núi Hoàng Cốc, kiếm sống qua ngày.
Một hôm có người ăn mày rách rưới đến xin rượu uống. Người bán quán không giàu
nhưng tốt bụng, thấy ông lão đáng thưong, không coi thường, không khinh khi, mà mang
ra đãi ông một chén rượu lớn.
Lòng nhân hiền hậu đãi người
Nhân gian hiếm có, cuộc đời mấy khi
Thấy nghèo ai cũng khinh khi
Đằng này vui vẻ cho đi vui vầy.
Từ đấy ngày nào ông lão cũng đến xin rượu. Chủ quán vui, không hề khó chịu.
... Nhiều ngày tháng trôi qua.... Một hôm, người ăn mày đến từ biệt và nói với chủ
quán rằng
Suốt thời gian qua, ngày nào anh cũng cho lão rượu, ta nợ anh nhiều quá mà không
có tiền trả. Nay chẳng có gì đền đáp, chỉ có con hạc quí, tặng anh để tỏ lòng biết ơn"
...
Rồi ông lấy trong túi một mảnh vỏ cam, vẽ lên tường một con hạc bằng cái mảnh
vỏ cam ấy và dặn
Anh chỉ cần vỗ tay, con hạc sẽ bay ra nhảy múa, làm vui cho khách
Nói rồi ông vỗ tay hát lên một điệu hát, quả thật con hạc trên tường nhảy ra và
múa theo điệu nhạc
Mảnh vỏ trái cam vẽ hạc vàng
Trên khung tường nhỏ, trần gian đáp đền
Cuộc đời vay trả không quên
Vỗ tay Hạc múa rũ mềm không gian ...
Sau đó ông lão biến mất. Anh bán rượu y lời làm theo... vỗ tay, quả nhiên con hạc
vàng bật ra từ bức tường, nhảy múa
Tiếng đồn lan xa. Từ đấy khách kéo tới quán rất đông, chẳng bao lâu quán rượu phát
đạt, anh bán rượu trở nên giàu có ở đất Vũ Xương.
Vũ Xương vang bóng một thời
Tin đồn như sóng dập dồi vang xa
Hạc vàng nhảy múa tài hoa
Giúp người bán quán thật thà hiền lương.
Bẵng một thời gian dài, một ngày kia ông lão trở lại... chủ quán cảm ơn và ngỏ ý
muốn chu cấp cho ông, và nuôi ông suốt đời
Ông lão cười bảo:
Lý do ta quay lại không phải vì điều này, và ta cũng không cầu mong đền đáp
Quay lại không để lấy ơn
Cái duyên hạnh ngộ mây vờn trời xanh
Cuộc đời xao xác yến oanh
Có duyên có phận long lanh ngọt ngào
Là do duyên phận trên cao
Cho đi không nhận, trăng sao dịu dàng
Nói xong ông lão rút trong túi ra cây sáo, thổi một điệu nhạc êm đềm.
Khi tiếng sáo cất lên, những đám mây trắng như bông trên thành Vũ Xương,
từ trên cao tít, là đà sa xuống đất, và từ đám mây trắng một con hạc vàng giang rộng
cánh bay về phía hai người.
Ông lão nhẹ nhàng cưỡi lưng hạc, vẫy tay từ biệt, ông theo cánh hạc bay về trời.
Chủ quán nhớ ơn hạnh ngộ, cho đây là tiên ông từ trời sai xuống. Và dốc toàn bộ
của cải, xây một ngôi lầu thật đẹp, nổi tiếng nhất Trung Hoa thời ấy.
Vì truyền thuyết này, từ đấy căn lầu kia, có tên Lầu Hoàng Hạc.
Giai thoại nhẹ nhàng như lá bay
Tiên ông xuống thế rượu nồng cay
Dăm ba chén rượu vui ngần ấy
Hoàng hạc tung mây thỏa mộng này
Và bài thơ Hoàng Hạc Lâu tức Lầu Hoàng Hạc, được nhà thơ Thôi Hiệu viết từ thời
ấy, nổi tiếng, và mang mang cảm xúc tới tận bây giờ.
Những người yêu thơ Đường, nhiều người biết bài thơ Hoàng Hạc Lâu:
Hạc vàng ai cưỡi đi đâu/ Mà nay Hoàng Hạc riêng lầu còn trơ
Hạc vàng đi mất từ xưa / Ngàn năm mây trắng bây giờ còn bay
Hán Dương sông tạnh cây bay/ Bãi xưa Anh Vũ xanh dày cỏ non
Quê hương khuất bóng hoàng hôn/ Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai.
Nghe câu thơ lòng buồn thương nhung nhớ
Hoàng Hạc về trời mâylơ lửng ở tầng cao
Xa quê khuất nẻo xôn xao
Nhìn qua khói sóng cồn cào nhớ nhung.
Bài thơ Hòang Hạc thì nhiều người biết, nhưng tiểu sử Thôi Hiệu thì ít tài liệu ghi
chép lại. Vì Thôi Hiệu không là một vị quan cao nên không xuất hiện trong Đường thư.
TRong Quốc Văn Học Sử, trong Quốc thi sử, trong Trung quốc Tác giả Tiểu truyện,
xuất bản ở đại lục, ở Hồng Kông và Đài Loan... đều không có tiểu sử của Thôi Hiệu.
Mãi sau trong đồ bản Trung Quốc văn học sử của Trịnh Chấn Đạt, Thuơng vụ Ấn
thư quán ở Hồng Kông mới tìm thấy một đoạn viết về Thôi Hiệu là:
Thôi Hiệu người Biện Châu, năm khai nguyên thứ 11 (723) thi đỗ tiến sĩ.
Làm quan đến chức Tư Huân Viên Ngoại Lang - Mất năm Thiên Bảo thứ 13 (754).
Tiểu sử vài dòng ngắn gọn thôi
Vì không quan chức nên đời bỏ quên
Công danh thiên hạ đề tên
Thường do bè phái mà nên chuyện đời
Đường thư rạng rỡ một thời
Cũng là như vậy, cuộc đời bể dâu.
Hồi trẻ Thôi Hiệu làm thơ phần nhiều dùng lời bóng bẩy diễm lệ.
Đến cưối đời cốt cách và phong thái của ông vẫn mạnh mẽ, rắn dỏi.
Khi lên chơi Vũ Xương, lên lầu Hoàng Hạc, trong lòng cảm khái mà làm bài thơ
trong đó có câu:
Hoàng Hạc nhất khứ bất phục phản / Bạch Vân thiên tái không du du
Để rồi Lý Bạch khi tới nơi, nhìn trước nhìn sau mới nóirằng:
Nhãn tiền hữu cảnh đạo bất đắc/ Thôi Hiệu đề thi tại Thượng đầu
(nghĩa là nhìn cảnh trước mắt mà không dám tả, vì đã có Thôi Hiệu đề thơ ở trên đầu.)
Và Lý Bạch thôi không làm thơ nữa.
Tức cảnh sinh tình muốn đề thơ
Nhưng ai đó đã làm thơ trước rồi
Nhân sinh tự cổ bao đời
Tâm tư lãng đãng cảnh trời phiêu du.
Thôi Hiệu là người thích đánh bạc, nghiện rượu.
Lấy vợ thì phải chọn vợ đẹp, hơi không vừa ý là bỏ, thay vợ đến ba bốn lần.
Ông khổ sở vì ngâm vịnh làm thơ, khi hết bệnh trở dậy, ngơ ngẩn xanh xao hốc hác.
Thơ Thôi Hiệu truyền đến nay, phần nhiều vẫn là thơ diễm lệ, như bài Trường Can
Quân gia trú hà xứ/ Thiếp trụ tại Hành Đường/ Đình thuyền tạm tương vấn/
Hoặc
Khủng thị đồng hương
(Nàng ở nơi nào vậy/ Nhà thiếp ở Hành Đường/ Dừng thuyền
tạm thăm hỏi/ Biết đâu chẳng đồng hương)
Hoàng Hạc Lâu được xây thời Tam quốc, các đời sau bị hủy đi, rồi xây lại.
Tuy nhiên theo Vương Tương Chi đời Bắc Tống viết trong Dư Địa Kỷ Thắng, thì ghi
chép sở dĩ được gọi là Hoàng Hạc Lâu vì cái tháp này nằm trong Hoàng Hộc Sơn.
Thời cổ đại, chữ Hộc còn có nghĩa là Hạc, cũng như ngỗng trời gọi là thiên nga, nên
sau này người ta dùng chữ Hạc thay cho chữ Hộc.
Giai thoại bao giờ cũng là mơ
Địa dư địa lý tỏa mây mờ
Lầu cũ hôm xưa còn đâu đó
Vọng nhớ người xưa lầu còn trơ
Quê hương xa tít mờ khói sóng
Chập chờn mây trắng mấy dòng thơ
Hạc hay Hộc cũng mang một nghĩa
Như ngỗng trời mà gọi thiên nga
Hán tự trau chuốt mượt mà
Văn chương chữ nghĩa kiêu xa gợi hình
Lầu Hoàng Hạc là một đài quan sát, được xây từ thời Tam Quốc, bên bờ sông
Trường Giang - Đài này tồn tại 50 năm, thì nước Ngô bị diệt.
Từ đấy không mang ý nghĩa quân sự nữa, nhưng vì xây trên một vị trí to lớn hùng
vĩ, nên trở thành địa điểm cho tao nhân mặc khách thăm viếng vãn cảnh, đồng thời
cũng là niềm tự hào của Vũ Hán.
Vũ Hán xa xưa rất tự hào
Núi non hùng vĩ đẹp biết bao
Bỗng chốc biến thành ra ổ dịch
Lan toả lây truyền khổ làm sao
Lầu Hoàng Hạc nguyên thủy được kiến trúc bằng gỗ chạm trổ, ba tầng.
Trải qua nhiều triều đại phong kiến, chịu nhiều chiến tranh hủy diệt, rồi lại trùng tu
Ngày nay được tái sinh với phong cách độc đáo, lộng lẫy hơn, với 5 tầng lầu, chiều
cao 51m 4. Lợp ngói vàng trộn đỏ.
Các tầng mái vểnh cong như đôi cánh hạc.
Mái lầu cong như đôi cánh hạc
Ngôi lầu buồn như vạc kêu sương
Chiến tranh, hủy điệt, tai ương
Tái sinh, tu bổ còn vương nơi này
Đứng ở tầng cao nhất, có thể ngắm cảnh trời bao la hùng vỹ, nhìn dòng sông Hán
Thủy, hợp lại thành hình chữ Nhân trong Hán tự
Chữ Nhân là hai nét như dấu sắc, dấu huyền chụm đầu vào nhau, chân dang rộng ra.
Các bài thơ về Hoàng Hạc Lâu, theo tài liệu của văn học Trung quốc có khoảng 300
bài, bài thơ Thôi Hiệu xuất sắc nhất, có giá trị vuợt thời gian và lưu truyền tới bây giờ...
Để ghi nhớ giai thoại Thôi Hiệu đề thơ, Lý Bạch gác bút, tức là không làm thơ nữa,
người ta xây một cái đình gác bút , để làm thắng cảnh cho du khách dừng chân.
Gác bút thôi chẳng đề thơ
Lưu linh đáy nước hững hờ gió trăng
Nhìn trăng mơ tưởng chị Hằn
Ôm trăng đáy nước cung hằng vỡ tan
Say sưa mơ tưởng cung hàn
Lý bạch tiên tửu tan hoang một đời.
Lầu Hoàng Hạc tức Hoàng Hạc Lâu ở Vũ Hán, qua ngòi bút Nguyễn Du:
Hà xứ thần tiên kinh kỷ thì/ Do lưu tiên tích thử giang mi
Kim lai cổ vãng Lư sinh mộng/ Hạc khứ lâu không Thôi Hiệu thi
Hiên ngoại yên ba không diểu diểu/ Nhãn trung thảo thụ thượng y y
Truy tình vô hạn bằng thùy tố/ Minh nguyệt thanh phong dã bất tri.
Hoàng Hạc Lâu Quách Tấn dịch:
Nào thuở tiên đi mãi đến giờ
Dấu tiên bên bến đứng trơ vơ
Xưa qua nay lại Lư dồn mộng
Hạc khuất lầu không Hạo đề thơ
Thăm thẳm nước mây ngoài vạn dặm
Rờn rờn cây cỏ vẫn nghìn xưa
Nỗi lòng ấp ủ cùng ai tỏ
Gió mát trăng thanh luống hững hờ.
Hoàng Hạc Lâu của thi sĩ Vũ Hoàng Chương:
Đã bao giờ có hạc vàng đâu
Mà có người tiên để có lầu
Tưởng hạc vàng đi mây trắng ở/
Lầm Thôi Hiệu trước, Nguyễn Du sau
Hạc chưa thoát khỏi mê hồn kịch
Tiên vẫn nằm trong vạn cổ sầu
Trăng gió hão huyền như khói sóng
Nồi kê đã chín nghĩ mà đau.
Tuy nhiên năm 1981, lầu hoàng hạc trong thơ Thôi Hiệu đã bị người Trung quốc
đập bỏ và xây lại một cái lầu khác, cách vị trí cũ chừng hơn cây số, và không biết có còn
gọi là lầu Hoàng Hạc nữa hay không?
Và bây giờ thật mai mỉa và kinh hoàng, khi Vũ Hán lan tràn dịch Covid-19 chết
người....
Những người dân Trung quốc, các chuyên viên, các nhà khoa học, các bác sĩ, y tá,
rất nhiều đã chết vì trận chiến vi sinh học này.
Cả thế giới lên án dịch viêm Phổi Vũ Hán.
Các lò thiêu ở Vũ Hán và Hồ Bắc, Trung quốc, hoạt động 24/24 thiêu đốt thật
nhanh những thân xác con người để xóa đi dấu tích giết người trong nhân loại ....
Bầu trời Vũ Hán rợp trời bởi hàng tỉ con quạ đen tụ về trong hơi người, trong xác
chết vì Covid-19 kinh hoàng:
Quạ đen thay thế hạc vàng
Ngàn năm Vũ Hán mơ màng Vũ Xương
Oan oan tương báo đoạn trường
Xác người vùi lấp tai ương trùng trùng.
Vũ Hán ngày xưa với lầu hoàng hạc, mái cong như trong cổ tích, qua vần thơ Thôi
Hiệu đã làm vuơng vấn hồn thơ trong tâm tưởng những kẻ tha hương, nhất là ở hai câu
cuối tha thiết của Tản Đà:
Quê hương khuất bóng hoàng hôm
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai
Khói trên sông cho lòng ai ngơ ngẩn
Quê hương xa mờ khuất bóng hoàng hôn
Mây bay nhả khói lam buồn
Hạc bay đi mất sầu tuôn chạnh lòng.
Lơ lửng đâu đây dòng nhạc trôi rất nhẹ, vút lên không trung:
… Hoàng hạc bay, bay mãi bỏ trời mơ.... Về thành đô... ta nhớ người vô bờ...;
Để chạnh nhớ Thăng Long thành Hoài cổ của Bà Huyện Thanh Quan:
Tạo hóa gây chi cuộc hí trường
Đến nay thấm thoắt mấy hơi sương
Dấu xưa xe ngụa hồn thu thảo
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương
Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt
Nước còn cau mặt với tang thuong
Ngàn năm gương cũ soi kim cổ
Cảnh đấy người đây luống đoạn trường.
Soi lại cổ kim đầy dấu tích
Dấu tích điêu tàn thế sự hoang liêu
Nhân sinh thấp thoáng tiêu điều
Đêm đen vắng lạnh liêu xiêu lụi tàn.
Để ngẫm lại nhân gian đau khổ
Người hại người, tan tác, phù du
Dấu tích hôm xưa, một khúc âm thừa.
Nguyễn Thị Mắt Nâu