Hà Văn Thùy: Văn Hóa là định mệnh

20 Tháng Tư 20218:11 SA(Xem: 5015)

VĂN HÓA ONLINE – DIỄN ĐÀN THẢO LUẬN - THỨ BA 20 APRIL 2021

Ý kiến-Bài vở vui lòng gởi về:  lykientrucvh@gmail.com


VĂN HÓA LÀ ĐỊNH MỆNH

(Trao đổi với ông Nguyễn Hòa về văn hóa học)


 


image008


Hà Văn Thùy


Ông Nguyễn Hòa là nhà phê bình văn chương. Bỏ qua một số bài mang tính đao to búa lớn, tôi thấy ông là cây viết trực ngôn và sắc sảo, một phẩm chất quý trong tình trạng văn đàn nhạt nhẽo đương thời. Tuy nhiên, dường như văn hóa học không phải sở trường của ông nên khi sa vào đó, ông hơi bị lạng quạng. Bài “Đông và Tây- khác biệt về văn hóa và tư duy ”* thể hiện điều này.


  Xin trao đổi với ông đôi lời.


1. KHÔNG CÓ LỰA CHỌN, VĂN HÓA LÀ ĐỊNH MỆNH.


Ngay ở đầu bài, ông Nguyễn Hòa viết:
 “Tuy nhiên, do văn hóa là sự lựa chọn của mỗi cộng đồng người trong các điều kiện địa lý - kinh tế riêng nên ngay từ đầu, dù cùng một mẫu số chung, nhưng mỗi cộng đồng lại có các lựa chọn văn hóa khác nhau, với kiểu tư duy khác nhau khi tiếp cận thế giới, đẩy tới các kiểu quan niệm, các phương thức sinh tồn, các phong cách sống, các tập quán và thói quen... khác nhau.”


   Chỉ một câu trên đã bộc lộ sai lầm cơ bản về văn hóa học của tác giả. Biện chứng pháp marxit cho rằng vật chất quyết định ý thức. Như vậy, phương thức sinh tồn phải là cái có trước. Đó là những cái mà tự nhiên sẵn có, buộc con người muốn sống sót phải thích ứng với chúng. Và chính những hoạt động để đảm bảo cho cộng đồng không chỉ sống còn mà sống tốt nhất trong môi sinh cụ thể đã làm nên văn hóa. Vì vậy, văn hóa là tất yếu, là định mệnh. Nói cách khác, con người không có quyền lựa chọn văn hóa! 
   Quả thực tôi không hiểu cái gọi là “mẫu số chung” ở đây là gì, vì ngoài chủ thể là Con Người ra, mọi sự hoàn toàn khác nhau, giữa Đông và Tây chả có gì chung cả! Trước đây, khi chỉ nhìn lịch sử bằng con số phiếm định hàng nghìn năm, người ta khó mà hiểu được nguyên lý đơn giản này. Nhưng nay, khi lặn ngụp tới chiều sâu tận cùng của lịch sử, thì ra đó là sự hiển nhiên.
Cho tới khi tôi viết những dòng này, trên thế giới chưa mấy người biết rằng, 40.000 trước, những nhóm người Europid từ Trung Đông vượt qua eo Bosphorus vào châu Âu. Tại đây, họ gặp những người Australoid cũng vừa từ Đông Á tới. Hai nhóm Homo sapiens hòa huyết cho ra người Eurasian, tổ tiên người châu Âu ngày nay. Nhưng 5.000 năm sau, khí hậu chuyển lạnh dữ dội khiến cho người Neanderthal, di duệ cuối cùng của Người Đứng thẳng Homo erectus – loài tiền nhiệm của chúng ta, bị tuyệt diệt đồng thời đẩy những người Homo sapiens sống ở phía bắc lục địa Á-Âu và Bắc Mỹ rơi vào tình trạng tiềm sinh. Chỉ 10.000 năm cách nay, khi Thời kỳ Băng Hà chấm dứt, người châu Âu mới ra khỏi những hang băng. Môi sinh lúc này tốt hơn nhiều. Nhưng đối mặt với rừng thưa và đồng cỏ, câu hỏi lớn nảy sinh: làm thế nào để sống? Cố nhiên, họ tiếp tục săn bắt, hái lượm. Đất không nước tưới nên không thể trồng trọt vả lại họ cũng chưa hề biết gì về trồng trọt. Rồi thời gian cho câu trả lời: thuần hóa, chăn nuôi động vật ăn cỏ để có thịt ăn, sữa uống và da thú che thân. Hết cỏ gần phải dẫn mục súc đi xa, tự nhiên, phương thức sống du mục ra đời! Từ phương thức sống du mục sản sinh văn minh du mục. Đó chính là định mệnh! 
   Trong khi đó, 70.000 năm trước, người từ châu Phi men theo bờ biển Ấn Độ tới thềm lục địa Việt Nam. Lúc này đang Thời kỳ Băng Hà, phần lớn trái đất phủ băng, nước biển thấp hơn ngày nay 130 mét. Đông Nam Á khô và mát, là địa đàng cho động thực vật và con người phát triển. Do thức ăn phong phú, người Việt sống quần tụ và sinh sôi nhanh chóng, tràn xuống các đảo Đông Nam Á, sang Ấn Độ, lên chiếm lĩnh phần lục địa ngày nay gọi là Trung Quốc.


   Trong thời kỳ dài đằng đẵng săn bắn, hái lượm, tổ tiên ta luôn tìm cách cải thiện đời sống của mình. Nhưng làm gì khi đất hẹp, địa hình chia cắt? Dù 15.000 năm trước đã thuần hóa con gà, con chó sớm nhất trong lịch sử nhân loại và sau đó thuần hóa con heo đầu tiên nhưng không thể chăn nuôi lớn và càng không thể du mục!
Dựa vào thảm thực vật phong phú, tổ tiên ta bắt đầu thuần hóa bầu bí, các loại rau đậu rồi cây kê và lúa lốc (lúa nương, lúa khô) tự túc một phần lương thực. Khoảng 15.000 năm trước, khí hậu ấm hơn, mưa nhiều hơn, nước dâng lên, cây lúa nước ra đời. Sau từng ấy thời gian, “chồng cày vợ cấy”, “trông trời trông đất, trông mây”… văn hóa nông nghiệp hình thành. Hoàn toàn không phải lựa chọn mà là Định mệnh do môi trường sống quy định. Không cộng đồng nào chọn được văn hóa cho mình!


2. Nông nghiệp, du mục: hai phương thức sống tạo ra hai nền văn minh.


  Với việc phát hiện di chỉ trồng lúa nước 12.000 năm trước ở phia nam Dương Tử, ta có đủ cơ sở để tin rằng, nền nông nghiệp lúa nước từ xa xưa đã là phương thức sống chủ yếu của dân cư Việt. Nông nghiệp lúa nước là cuộc sống định cư, cố kết cộng đồng để chống lụt lội, giặc, cuớp. Nông nghiệp lúa nước buộc con người không chỉ bó bện với nhau mà còn gắn bó trong sự hài hòa với thiên nhiên.


Du mục là cuộc sống nguy hiểm, phải thường xuyên đối mặt với sự bất thường của thời tiết khắc nghiệt, thú dữ rình rập và sự cuớp phá của những bộ lạc hiếu chiến, nhất là trong thời kỳ hạn hán hay giá rét. Chính hoàn cảnh đã tạo ra phương thức sống tàn bạo dựa trên sự khai thác thiên nhiên và cướp bóc đồng loại. Trong hoàn cảnh như vậy, vai trò của người đàn ông trong gia đình, người chiến binh trong bộ lạc được đề cao. Từ đó dẫn tới chủ nghĩa cá nhân vị kỷ, đầu óc tôn sùng thủ lĩnh và chế độ nô lệ.
   Phương thức sống khác nhau tạo ra hai phương cách tư duy khác nhau giữa Đông và Tây. Làm thí nghiệm đặt vi điện cực vào những trung khu thần kinh khác nhau của người phương Đông và người phương Tây, người ta nhận ra rằng người phương Tây thiên về tư duy phân tích, còn phương Đông thiên về tư duy tổng hợp. Đó là hệ quả tất yếu của cuộc sống cạnh tranh khốc liệt khiến người du mục, tổ tiên người phương Tây, phải phân biệt thật nhanh những nhân tố khác biệt của môi trường để ứng phó. Trong khi đó, người phương Đông quan tâm phát hiện những mối liên quan giữa các yếu tố của môi trường để thích ứng một cách hài hòa.
  Người phương Tây gọi văn hóa là culture, với nghĩa nguyên thủy là trồng trọt. Như vậy, chính trồng trọt sản sinh ra văn hóa. Trong văn hóa học không có khái niệm văn hóa du mục mà chỉ có văn minh du mục. Điều này có nghĩa là phương thức sống du mục không làm nên văn hóa! Đó là sự thực.


Nhưng như vậy, phải chăng xã hội phương Tây không có văn hóa? Tôi từng băn khoăn: phương Tây quá văn minh nhưng hình như văn hóa nghèo nàn, đặc biệt hàm lượng minh triết thấp? Và rồi tôi tìm ra nguyên do của sự việc. Khảo cổ và di truyền học cho thấy, bảy ngàn năm trước, người nông dân Trung Đông đem lúa mì và nho tới, tạo ra bước ngoặt trong lịch sử châu Âu. Nhờ được cung cấp lương thực, những bộ lạc du mục hùng mạnh không còn theo chân đàn gia súc nữa mà dừng lại kiến tạo thành bang. Phân công lao động được đẩy mạnh, thủ công nghiệp rồi thương nghiệp ra đời… Khi đem nghề nông vào, chính người nông dân Trung Đông đã đem văn hóa tới châu Âu. Nhưng hàm lượng văn hóa không nhiều vì gen nông dân chỉ chiếm 20% trong huyết quản người châu Âu.


Đúng như câu nói nổi tiếng của Kipling: “Đông là Đông, Tây là Tây”, có thể nói rằng, về phương diện văn hóa, lịch sử đã chia Đông và Tây làm hai thế giới: Con người du mục - Homo sapiens nomadian và Con người nông nghiệp - Homo sapiens culturian.


Do không nắm được điều này nên ông Nguyễn Hòa đã nói rất hàm hồ: “Thật ra, xét về nguồn gốc thì phương Đông hay phương Tây đều có điểm xuất phát từ kinh tế - văn hóa nông nghiệp dưới hai hình thức chủ yếu là chăn nuôi và trồng trọt.” 
   Xin thưa, du mục không bao giờ là nông nghiệp. Một người có tiếng như ông Nguyễn Hòa không có quyền sai lầm trong tri thức vỡ lòng về văn hóa học như vậy!
 
Ông Nguyễn Hòa viết: “Kinh tế thương nghiệp, sự ra đời của các thành bang, ngay từ đầu đã làm cho văn hóa Hy Lạp - cái nôi của văn hóa phương Tây, đi theo khuynh hướng khác hẳn phương Đông.”


Thưa ông, thương nghiệp chỉ là hệ quả chứ không phải là nguyên nhân của sự khác biệt Đông Tây. Phải truy về gốc của nó, chính là phương thức sống du mục duy lý, duy lợi, cạnh tranh, lang bạt… đã thúc đẩy thương nghiệp. Hy Lạp vốn là quê hương của người nông dân từ phương Đông sang. Vài trăm năm trước Công nguyên, người du mục chiếm vùng đất trù phú này. Trên nền tảng của văn hóa nông nghiệp, người du mục xây dựng văn minh Hy Lạp mà đặc trưng của nó là xác lập vị trí thống trị của người đàn ông – thủ lĩnh, thay những nữ thần nông nghiệp bằng nam thần du mục. Và từ cuộc xâm lăng của Alexander Đại đế sang phương Đông, người Hy Lạp cướp bóc, chiếm đoạt những thư viện lớn của Ai Cập, biến Aristoteles thành nhà tư tưởng vĩ đại nhưng cũng là kẻ đạo văn lớn nhất mọi thời đại! 


Ông Nguyễn Hòa viết:
“Hàng nghìn năm trước, khi cư dân Trung Hoa, Ấn Độ... bắt đầu phác họa các đường nét đầu tiên của văn hóa dân tộc mình, hẳn họ không ý thức được tầm vóc vĩ đại của những gì do họ làm ra.”


Điều này không mới vì suốt thế kỷ XX người ta từng ca như thế. Nhưng đó là sự lầm lẫn khổng lồ, sự đánh tráo lớn nhất của lịch sử nhân loại. Nếu thực sự là trí thức – những đầu óc mẫn tiệp, đi trước dẫn đường cho dân tộc, sang thế kỷ này người ta sẽ không viết vậy! Ngày nay, có đủ cơ sở để chứng minh rằng, người Việt không những sinh ra người Trung Hoa mà còn cho người Hoa tiếng nói, chữ viết và cả nền văn hóa nông nghiệp vĩ đại. Nói cách khác, toàn bộ nền văn minh Trung Hoa được xây dựng trên sơ sở của văn minh nông nghiệp Việt tộc. Và trên đất Ấn Độ, người Việt Dravidan đã sáng tạo nền văn minh Indus vĩ đại mà trên đó, người Arian từ Ba Tư sang chiếm đoạt làm nên nền văn hóa Ấn ngày nay.


Ông Nguyễn Hòa viết:
“Tương tự như vậy, để không rơi vào cuộc tranh luận chưa có hồi kết về một nguồn gốc một số thành tựu văn hóa - văn minh của người Trung Hoa là có nguồn gốc Trung Hoa hay phương Nam, bài viết này chỉ đề cập tới một số quan niệm vũ trụ, nhân sinh của người Việt (như quan hệ âm - dương chẳng hạn) có thể thực chứng qua hàng nghìn năm lịch sử và ít nhiều vẫn còn hiện hữu trong cuộc sống hôm nay.”


Viết như vậy, ông Nguyễn Hòa tưởng chừng chui vào cố thủ trong một bunker để được an toàn. Nhưng con đà điểu vùi đầu trong cánh liệu có tránh được bão? Khi chưa phân định tới tận cùng của lịch sử - văn hóa thì mọi bình luận về nó là chưa đủ cơ sở! Chính do sự trốn chạy, không muốn biết tới tận cùng của văn hóa Việt, ông đã viết thế này:


“Sinh tồn ở khu vực gần gũi với các nền văn minh lớn ở phương Đông, từ hàng ngàn năm trước, nền văn hóa sơ khởi của người Việt đã chịu ảnh hưởng và phần nào có thể nói, đã tiếp thu nhiều thành tựu của văn minh Trung Hoa, Ấn Độ. Các đoàn thương nhân, các nhà tu hành... và các đạo quân xâm lược dẫu có để lại hình ảnh không đẹp đẽ trong quá khứ, thì họ cũng góp phần đưa tới một hiện tượng độc đáo là giúp cho cơ tầng văn hóa Việt bản địa phối kết với vô số thành tựu văn hóa bên ngoài, từ đó hình thành nên một văn hóa Việt mới, với một hệ thống khá ổn định về bản sắc.”
  Chung thói quen cố hữu của giới nghiên cứu xưa nay, khi chưa định hình văn hóa Việt là gì, ông Nguyễn Hòa đã vội vàng nói tới tác động ngoại lai của người lính viễn chinh, của thương nhân… làm nên văn hóa Việt?!
Ông Nguyễn Hòa viết:
“Cũng như các dân tộc ở phương Đông, trong quá khứ, người Việt tỏ ra thiếu khát vọng tìm kiếm cái mới, không thích lập kỷ lục... Họ không có hứng thú lặn xuống biển sâu, bay vào vũ trụ, không tự hỏi “hai vạn dặm dưới đáy biển” có gì.”


   Điều này có thể đúng với thời kỳ gần đây mà không đúng với toàn bộ tiến trình lịch sử của tộc Việt. Không thế nói như thế về một đại tộc từng từ Việt Nam tỏa ra khắp thế giới, sang phía tây góp máu huyết sinh ra tổ tiên người châu Âu, sang châu Mỹ để sinh ra người da đỏ, vượt trùng dương phiêu lưu về phía nam chiếm lĩnh Hawaii rồi chế tác rìu đá mài, trống đồng... Không chỉ thế, người Việt còn phát minh ra Âm Dương, Ngũ hành, Dịch lý… những tri thức sâu thẳm của nhân loại.


Càng sai lầm khi nói: “Họ không có hành động để chứng tỏ con người bình đẳng với tự nhiên, bởi chưa bao giờ trong ý thức xuất hiện ý niệm về điều đó.”


Thưa ông, hoàn toàn không như ông tưởng. Người Việt không chỉ dám bình đẳng với tự nhiên mà còn hơn thế. Trong quan niệm nhân sinh của người Việt là Nhân chủ - Thái hòa Tâm linh, thì yếu tố đầu tiên là Nhân chủ. Đó là trong tam tài Thiên - Địa – Nhân làm nên vũ trụ thì Con Người là chủ. Vâng, chủ cả Trời, cả Đất. Do vậy con người phải sống thái hòa, tức là hòa mục cao nhất, không chỉ với nhau mà còn với Trời với Đất. Muốn sống được như vậy, con người không thể là con người duy vật mà là con người tâm linh. Đó là nhân sinh quan, tức là phương thức sống thấm đẫm trong toàn bộ văn hóa Việt.


Có thể dẫn nhiều thêm những điều bất cập của tác giả bài viết nhưng tôi dừng ở đây, mong rồi một ngày ông sẽ ngộ ra.


   3.  Kết luận


Là tác giả của những bài viết trực ngôn và sắc sảo, ông Nguyễn Hòa tạo dựng được chỗ đứng riêng trên văn đàn. Vì vậy khi thấy ông bàn về đề tài to tát của văn hóa, tôi kỳ vọng học được những điều bổ ích. Tiếc rằng, đó là bài viết không chỉ cũ kỹ nhàm chán, không đem lại điều gì mới cho học thuật mà lại có những cái sai không nên có nơi một đầu óc mẫn tiệp.


Sài Gòn, tháng Ba năm 2012


http://phunutoday.vn/xi-nhan/nghe-thuat-moi/201203/dong-va-Tay-khac-biet-ve-van-hoa-va-tu-duy-i-2139687/


(tiếp theo)

Cảm ơn ông Nguyễn Hòa đã trả lời tôi. Kể ra câu chuyện dừng lại cũng được rồi nhưng do “tơ vương” vẫn còn, tôi xin thưa tiếp đôi lời.


1. Tôi không đọc Nghệ thuật mới nên không biết nhan đề chính thức bài viết của ông Nguyễn Hòa. Nhưng khi được ông cho biết “Đông và Tây - từ khác nhau trong văn hóa đến khác biệt tư duy”, trong óc tôi bỗng thấy gợn gợn…


   Đúng như ta thấy trong xã hội người hiện nay, văn hóa hướng dẫn tư duy. Nhưng văn hóa là sản phẩm của hoạt động xã hội chỉ xuất hiện khi con người đạt tới mức tiến bộ nào đó, nên được hình thành muộn hơn. Vậy khi chưa có văn hóa thì cái gì dẫn dắt tư duy?


Theo tôi, sự thể có lẽ đã diễn ra như thế này:


   10.000 năm cách nay, khi băng tan, những cánh đồng băng biến thành rừng thưa xen lẫn cỏ xanh. Điều kiện sống tốt hơn trước nhiều nhưng cố nhiên, châu Âu, Sahara, Gôbi… vẫn săn bắn, hái lượm. Người phụ nữ vẫn làm chủ gia đình mẫu hệ. Rồi với sự cần mẫn và dịu dàng của Người Mẹ, chính người đàn bà đã thuần hóa con cừu con dê đầu tiên và chăn nuôi gia đình ra đời. Dần dà, thú hoang giảm đi, săn bắn khó khăn hơn, trong khi chăn nuôi gia đình mang lại thu nhập quan trọng. Địa vị người đàn bà lên cao cực điểm. Nhưng khi đàn gia súc đông thêm, bãi chăn thả trở nên cằn cỗi, đời sống bị đe dọa. Lúc này, người ta thấy cần “tổ chức lại” bộ lạc để có thể đưa đàn gia súc đi xa, tìm bãi chăn thả mới. Phương thức sống du mục ra đời. Du mục là cuộc sống khó khăn, nguy hiểm: khám phá vùng đất mới, chống lại thú dữ luôn rình rập. Trong tình trạng cạnh tranh khốc liệt, mỗi bộ lạc phải tự bảo vệ để chống lại những người láng giềng hùng mạnh đồng thời ra sức đánh phá các bộ lạc yếu để cướp mục súc, bãi chăn thả và bắt người làm nô lệ... Muốn sống còn, con người phải nhanh nhạy phát hiện những thay đổi dù nhỏ nhất của ngoại cảnh để ứng phó, “tiên hạ thủ vi cường.” Từ đó phương thức tư duy phân tích ra đời. Sau sự xuất hiện công cụ lao động thì đây là yếu tố quan trọng nhất để phân biệt con người với thú hoang. Đó cũng là bước chuyển vô cùng quan trọng trong lịch sử phương Tây mà chưa được chú ý nghiên cứu. Phải chăng điều này được phản ánh trong kinh Thánh: “Khởi thủy là lời”? Và cũng chính là cơ sở cho mệnh đề nổi tiếng của Descartes: “Tôi tư duy vậy thì tôi tồn tại”? Xin nhớ lúc này văn hóa chưa hình thành. Như vậy, phương thức tư duy phân tích trở nên yếu tố chủ đạo dẫn dắt cộng đồng du mục và tạo ra văn minh.


Trong điều kiện sống như vậy, bộ lạc cần những thủ lĩnh mưu trí, can trường, có uy quyền tuyệt đối cùng những chiến binh dũng mãnh, trung thành. Mặc nhiên, vai trò của thủ lĩnh, của chiến binh, của người đàn ông tăng lên, trong khi người phụ nữ vốn chân yếu tay mềm lúc này không đem lại nhiều lợi ích cho cộng đồng, ngày càng trở nên phụ thuộc, địa vị bị sút giảm. Nữ quyền chuyển sang cho nam giới rồi theo đó, mẫu hệ chuyển thành phụ hệ. Văn minh du mục hình thành với những đặc trưng: duy lợi, duy lý, tôn sùng thủ lĩnh, đề cao vai trò đàn ông, áp chế phu nữ, chế độ phụ hệ và phụ quyền, khai thác thiên nhiên, cướp bóc đồng loại và chế độ nô lệ…


   Khi thiết chế văn minh du mục ổn định, nó trở thành một tính trạng di truyền (di truyền học gọi là di truyền quần thể fenotipe) được truyền cho các thế hệ sau qua tập quán sống. Đó chính là điều mà ông Nguyễn Hòa cho rằng văn hóa dẫn tới tư duy. Điều này dễ nhận ra. Và do bằng lòng với nó nên người ta không tìm hiểu sâu hơn để biết rằng: ban đầu, chính là tư duy phản ứng trước ngoại cảnh đã làm nên văn hóa. Khi văn hóa định hình thì tư duy lùi vào tiềm thức, trở thành bản năng. Thí nghiệm khảo sát các trung khu thần kinh dẫn ở bài trước còn có phần kết: khi người phương Tây sống lâu năm ở phương Đông sẽ tập nhiễm thói quen tư duy tổng hợp và ngược lại.


2.  Ông Nguyễn Hòa lo “mai sau Hà Văn Thùy thành trò cười cho con cháu!” Cảm ơn nỗi lo của ông, nhưng quả là ông đã lo bò trắng răng. Tôi không lo con cháu cười bởi lẽ tai đã quen nghe tiếng cười của người hôm nay. Có người gọi tôi là “cuồng Việt”, lại có người cho rằng tôi điên (BBC and Hà Văn Thùy gone mad!). Người đương thời cười thay cho con cháu đấy!


Ông Nguyễn Hòa nói: “tôi thấy hình như các “tri thức” và luận chứng mà ông trình tấu lâu nay, vẫn chưa nhận được sự đồng thuận của giới nghiên cứu?” Quá đúng! Hơn tám năm, từ ngày công bố tiểu luận Tìm lại cội nguồn tổ tiên cội nguồn văn hóa trên BBC tiếng Việt đầu năm 2005, tới nay tôi đã có hơn trăm bài viết và ba cuốn sách, nhưng chưa hề nhận được cả sự đồng thuận cũng như bất thuận của giới nghiên cứu. Một sự im lăng đáng sợ!


  Lẽ thường tình, muốn đồng thuận, trước hết phải hiểu. Mà trước cái sự hiểu ấy phải là sự có muốn hiểu hay không? Đức Phật dạy, muốn ngộ đạo, phải gạt bỏ tạp niệm, tư kiến để tâm trí trống không như lòng trẻ thơ, như tờ giấy trắng. Gạt bỏ ngã chấp để trở về “không” đã khó. Nhưng gạt bỏ mình đi để rồi nhận được cái gì? Cay đắng thay, đó là sự sụp đổ: những công trình để đời, làm nên cân đai mũ mão vinh thân phì gia của nhiều người bỗng chốc trở thành hàng mã! Bắt con người tự giác phủ định mình là chuyện khó hơn tìm đường lên trời!


   Cho đến nay, có lẽ cũng ít người ngộ ra rằng, khoa học nhân văn Việt Nam được xây chủ yếu trên Đông phương học của Trường phái Viễn Đông Bác cổ. Cái Đông phương học made by France này lại xây dựng trên thuyết Đa nguồn gốc của loài người. Thuyết thịnh hành suốt thế kỷ XX cho rằng, loài người được sinh ra từ nhiều khu vực khác nhau. Tại châu Á, người Việt, Hoa, Mông, Mãn… được sinh ra từ chân núi Thiên Sơn, tây bắc Trung Quốc. Khi băng hà tan thì di cư về phía đông nam, vào Trung Quốc rồi xuống Đông Nam Á. Người di cư mang theo văn minh. Cố nhiên, Đông Nam Á là “vùng nước đọng của lịch sử”, là khu vực cuối cùng hưởng xái văn minh nhân loại! Trộn thuyết này với cổ thư Trung Hoa, học giả Pháp Aurousseau dạy rằng, khoảng năm 330 TCN, con cháu của Việt vương Câu Tiễn chay loạn xuống Việt Nam, sinh ra người Việt! Bằng khoa học ngữ văn tân tiến, Viện sĩ Maspéro phát hiện, tiếng Việt mượn 70% từ tiếng Trung Hoa! Các học giả tiên phong của chúng ta như Nguyễn Văn Tố, Trần Trọng Kim, Đào Duy Anh… nghe theo rồi truyền dạy cho con cháu! Kết quả là khoa học nhân văn nước Việt được dựng trên hệ quy chiếu con người từ Tây Bắc xuống!


Nhưng ngày 29 tháng 9 năm 1998, Giáo sư Y. Chu, nhà khoa học gốc Hoa của Đại học Texas Hoa Kỳ, sau nhiều năm làm việc cùng êkip 12 nhà khoa học khác, có sự tham gia của Đại học Bắc Kinh, Thanh Hoa trong Dự án Quan hệ di truyền của người Trung Quốc (Genetic Relation of Chinese Population), với số tiền 1.000.000 USD của Quỹ Phát triển khoa học tự nhiên Trung Quốc, công bố thông tin làm chấn động giới khoa học Mỹ:


“Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy, người hiện đại Homo sapiens xuất hiện 160 đến 200.000 năm trước tại quê hương duy nhất là Đông Phi.” “Công trình của chúng tôi cũng cho thấy, khoảng 60-70.000 năm trước, người tiền sử từ châu Phi men theo bờ biển Nam Á tới Việt Nam. Tại đây họ hòa huyết, tăng nhân số và khoảng 50.000 năm trước, di cư ra các hải đảo Đông Nam Á, sang Ấn Độ. Khoảng 40.000 năm trước đi lên Trung Hoa…”


Tiếp đó trong thập niên đầu của thế kỷ, xuất hiện nhiều nghiên cứu di truyền phục vụ Dự án lập Bản đồ gen người cho ra những kết quả ngày càng cụ thể hơn!


Bạn có tin hay không, tùy! Nhưng điều này thì không thể phản bác: di truyền học phát hiện, người Việt Nam có đa dạng sinh học cao nhất trong các sắc dân Đông Á. Có nghĩa là người Việt Nam cổ nhất trong dân cư Đông Á! Chưa nói tới các “rốn” khác nhưng Việt Nam chắc chắn là “rốn” gen!


Có thể nói là, từ năm 1998, một hệ quy chiếu mới cho khoa học nhân văn Đông Á được xác lập: Con người từ đất tổ châu Phi, đặt chân tới Việt Nam trước nhất rồi lan tỏa khắp Đông Á và cố nhiên, theo đó, văn minh phải xuất phát từ Việt Nam! Và tất yếu: hệ quy chiếu Đông phương học thống trị một trăm năm của người Pháp sụp đổ!


Nhận thức ra điều này là khó. Mà rũ bỏ nó để chấp nhận hệ quy chiếu mới càng khó hơn!


Tôi còn nhớ, khoảng tháng Năm năm 2005, ông Trần Quốc Vượng, vị giáo sư đứng hàng tứ trụ ngành sử Việt Nam tuyên bố bằng giọng đầy quyền uy trên BBC tiếng Việt: ”Tôi đã nói rồi, nói với ông Phạm Văn Đồng là, nước ta có một nghìn năm Bắc thuộc. Tính cách sao thì cũng một nghìn năm. Quan sang này, rồi lính tới này, chúng ta bị đồng hóa đứt đuôi!” Cũng trên đài phát thành danh tiếng ấy, lần khác ông nói: “Tôi khẳng định Việt Nam ủng hộ quan niệm Đa nguồn gốc của loài người!”


Như vậy, có nghĩa là trong thời đại internet, sau bảy năm, phát kiến có tầm quan trọng làm đảo lộn lịch sử phương Đông của nhóm Y. Chu chưa tới được với Giáo sư Vượng! Còn nhớ, cuối năm 2004, trước khi gửi cho BBC, tôi có gửi một phiên bản bài Tìm lại… cho ông Nguyễn Khoa Điềm, Trưởng Ban Văn hóa tư tưởng Trung ương, kèm theo đôi dòng: “Đây là những phát hiện mới và đáng tin cậy. Với tư cách nhà thơ, anh cần biết để có thêm cảm hứng sáng tác. Với vai trò người đứng đầu cơ quan văn hóa tư tưởng của quốc gia, anh càng cần biết để chỉ đạo công việc.” Nếu lúc đó, bằng động tác nhỏ của người đầy quyền năng, ông chuyển cho ngành Sử “nghiên cứu” hẳn sẽ cứu được giáo sư Vượng khỏi thất thố trước bạn bè quốc tế!


Không chỉ thế, từ năm 2006 tôi công bố phát hiện: “Tiếng Việt là chủ thể tạo nên ngôn ngữ Trung Hoa” và sau này trên mạng, nhiều người Việt trong và ngoài nước cung cấp thêm nhiều bằng chứng, thì tại các đại học lớn nhất nước Việt, người ta vẫn đang rao giảng luận thuyết Maspéro (tiếng Việt mượn 70% tiếng Hán) qua công trình “Nguồn gốc và quá trình hình thành cách đọc Hán Việt” của Giáo sư Nguyễn Tài Cẩn!


Một vị lão thành, cũng dân tai mắt trong làng văn hóa Sài Gòn kể với tôi câu chuyện. Cụ hỏi một giáo sư sử học: “Người ta phát hiện những điều mới như vũ bão về sử Việt mà sao ngành sử mấy ông im tiếng thế?” “Mấy ông sử học ở Hà Nội chỉ ủng hộ chính thống.” Vị giáo sư trả lời. Không nín được, cụ già vặc lại: “Thế nào là chính thống? Aurousseau nó bảo mình là con cháu Việt Vương Câu Tiễn là chính thống sao? Maspéro nói tiếng Việt muợn 70% tiếng Tàu là chính thống sao?!” 
Đọc tôi trên mạng rồi cụ mời tôi tới nhà. “Anh thứ lỗi, lẽ ra tôi phải tới thăm anh, nhưng xin anh thông cảm, tôi chân chậm, mắt mờ.” Tôi biếu cụ cuốn Tìm cội nguồn qua di truyền học. Nhìn sách, cụ tần ngần: “Di truyền học, có lẽ khó lắm đây. Khoa học sâu thế này chắc gì tôi đã hiểu được!” Tôi động viên: “Cụ cứ đọc, rồi cụ hiểu được mà!” Ít lâu sau, cụ gọi cho tôi: “Tôi hiểu được anh ạ. Anh viết ngắn gọn, rõ ràng, những kiến thức di truyền anh đưa vào cũng chỉ thoáng qua, vừa đủ làm rõ vấn đề. Nhờ vậy tôi hiểu được!”


Một chị bạn thời thơ trẻ, giờ là nhà văn có tên tuổi, bảo tôi: “Tớ đọc cậu rồi. Nói thực tình cũng chẳng hiểu được bao nhiêu. Nhưng này, thế giới nó có công nhận cậu không vậy?” Tôi cười méo miệng. Vẫn biết “thế giới công nhận” là một tiêu chuẩn của chân lý. Nhưng chả lẽ ta chỉ biết học mà không có gì dạy lại cho thiên hạ? Tại sao những chuyện về dòng giống tổ tiên, về văn hóa của mình mà cũng chờ thế giới dạy? Một thế kỷ Đông phương học Pháp dẫn chúng ta lạc đường, xa gốc chưa đủ làm bài học sao?!


Một bạn đọc cao tuổi từ nước ngoài gửi điện thư: “Những tư liệu dùng trong sách của anh có cả ở trên mạng, ai cũng có thể tìm thấy. Nhưng nối kết chúng rồi đưa ra ý kiến riêng là điều chỉ có anh làm được. Nhiều điều anh viết, tôi không hiểu lắm nhưng vì thấy nó có lý, lại nhất quán nên tôi tin. Mong anh có sức khỏe và lòng kiên trì để làm việc có ích cho đất nước.”


Một người bạn khác, là giáo sư kinh tế. Ủng hộ việc tìm tòi của tôi nhưng bằng giọng hoạt kê, anh cũng thỉnh thoảng châm chọc “những ý tưởng điên rồ” của tôi. Mới đây, anh gọi cho tôi: “Lạ quá Thùy ạ, hôm qua, dự một hội nghị, bỗng tao nhận ra, càng ngày càng có nhiều thằng nói theo giọng của mày!”


Tôi cười thầm: tư tưởng linh thiêng lắm. Hạt tư tưởng chắc mẩy thế nào cũng tìm được đất tốt để nảy mầm, nhất là trong thời đại kết nốt toàn cầu này. Chợt nhớ câu nói nổi tiếng của Esope: “Cả Hy Lạp biết Esope là người tự do, trừ các vị nguyên lão trong đền Pantheon”!


Một ngày mai, bà mẹ dân quê Việt sẽ kể cho con cháu nghe câu chuyện cổ tích:


“Ngày xửa ngày xưa, người tiền sử từ châu Phi tới Việt Nam, sinh ra tổ tiên chúng ta. Rồi người Việt lan tỏa ra các đảo ngoài khơi Đông Nam Á, sang Ấn Độ, lên Trung Quốc, sang châu Mỹ thành ngươi da đỏ. Ở phía nam Hoàng Hà, người Việt hòa huyết với người Mông Cổ sinh ra người Hoa Hạ. Không chỉ nuôi người Hoa bằng sữa mà người mẹ Việt còn cho con cháu mình cả tiếng nói, chữ viết…”


Chỉ riêng các nhà thông thái sống trong tháp ngà hàn lâm thì chưa nghe!


      Sài Gòn, tháng Tư năm 2012

15 Tháng Mười Hai 2020(Xem: 6065)