Hungary: Bartók Béla, người khổng lồ của âm nhạc thế giới

21 Tháng Tư 20216:49 SA(Xem: 3774)

VĂN HÓA ONLINE – VĂN NGHỆ - THỨ TƯ 21 APRIL 2021

Ý kiến-Bài vở vui lòng gởi về:  lykientrucvh@gmail.com


Hungary: Bartók Béla, người khổng lồ của âm nhạc thế giới


17/04/2021


image013Nhà soạn nhạc, nhà nghiên cứu âm nhạc dân tộc Đông Âu, Bartók Béla. Ảnh chụp năm 1927. © Domaine public CC0


Hoàng Nguyễn


Trong những ngày dịch bệnh hoành hành trên đất nước Hungary, mà vị thủ tướng nước này phải thốt lên than thở “chúng ta đang ở những thời khắc đen tối nhất trước bình minh”, ít ỏi du khách đặt chân tới thủ đô Budapest có thể thấy trên đường phố những áp-phích khổ lớn với dòng chữ “Mùa xuân Bartók” (Bartók tavasz).


Đây là sự quảng bá cho “Các tuần lễ Nghệ thuật Quốc tế” diễn ra từ mùng 2/4 tới 18/4/2021, điểm sáng văn hóa đáng kể duy nhất sau hơn 1 năm mà nước này phải bế quan tỏa cảng và đóng cửa với các biện pháp ngặt nghèo phòng chống đại dịch Covid-19. Đồng thời, nó nhắc nhớ tới một tên tuổi âm nhạc lớn của Hungary: Bartók Béla.


Đại nhạc sư này được giới am tường đánh giá là đã để lại dấu ấn và ảnh hưởng rất lớn đến nền âm nhạc Hungary, châu Âu và thế giới thế kỷ 20, một trong những danh nhân tầm quốc tế của nước Hung. Ngày 25/3, nước Hung kỷ niệm 140 năm ngày sinh của Bartók Béla, người mà ngay ở Paris cũng có tượng đài và công viên mang tên ông.


Sự nghiệp âm nhạc của Bartók Béla rất đa dạng: không chỉ là một nghệ sĩ dương cầm lớn, một trong những nhà soạn nhạc quan trọng nhất của thế kỷ trước, mà ông còn là nhà nghiên cứu âm nhạc dân tộc Đông Âu, người sáng lập ngành Dân tộc nhạc học với các công trình “chuẩn hóa” dân ca và do đó, gìn giữ được hồn cốt các dân tộc.

Khởi nguồn nghệ thuật

Bartók Béla chào đời năm 1881 tại một vùng đất đặc biệt nằm ở phía nam của Vương quốc Hungary, mà sau này Hiệp định hòa bình Trianon chấm dứt Đệ nhất Thế chiến đã chia cắt cho Serbia và Rumani. Đây là nơi luôn có sự chung sống của nhiều dân tộc như Serbia, Rumani, Đức, Bulgari và Hungary, nét đa văn hóa đó đã có ảnh hưởng không nhỏ tới tính cách và sự nghiệp của Bartók về sau này.


Được thừa hưởng nền tảng của cha mẹ là các trí thức am hiểu âm nhạc - cha ông chơi thạo nhiều nhạc cụ, sáng tác một số vở nhạc vũ và từng tổ chức một hiệp hội âm nhạc cùng rất nhiều buổi hòa nhạc tại địa phương, còn mẹ ông, một phụ nữ gốc Đức, là một nhạc công xuất sắc - nên Bartók cho rằng ông có được thiên hướng và tài năng trong âm nhạc là nhờ họ và bầu không khí tinh thần như vậy.


Được mẹ chăm lo, chiều chuộng nên thuở nhỏ, cậu bé Bartók tỏ ra rụt rè, ít tiếp xúc, và do bị nhiễm trùng khi chủng đậu mùa nên cho đến năm lên 5 tuổi, cậu luôn phải tới bác sĩ điều trị. Chậm biết đi, hơn 2 tuổi mới bắt đầu biết nói, nhưng từ năm 1 tuổi cậu đã rất để tâm tới nhạc và ra hiệu là thích loại nhạc nào. Một tuổi rưỡi, cậu nhận biết được giai điệu và khi lên bốn, đã chơi được một tay trên dương cầm.


Theo hồi ức của người nhạc sĩ lớn sau này, lúc đó, cậu bé 4 tuổi đã thuộc được chừng 40 bản dân ca, và nếu ai nói từ đầu của bài là Bartók lập tức nhớ ngay được giai điệu. Nhạc dân tộc đã đi vào tâm thức của Bartók như thế, và đặt nền móng cho sự nghiệp sưu tầm, nghiên cứu và hệ thống hóa “dân nhạc” - cũng như việc đưa nhạc dân tộc vào những sáng tác để đời của ông trong những năm tháng sau.


Bartók Béla được cha dạy bài nhạc dương cầm đầu tiên vào sinh nhật 5 tuổi, và một tháng sau, cậu đã khiến cha ngạc nhiên với khả năng “chơi bốn tay” cùng cha. Năm lên 6, cậu có được ấn tượng lớn khi lần đầu nghe giao hưởng: theo lời kể của bà mẹ, “các vị khách vẫn tiếp tục ăn uống, nhưng cậu lập tức đặt thìa dĩa xuống bàn và chỉ tập trung nghe nhạc, và bất bình vì sao nhạc hay thế mà thiên hạ cứ ăn”.


Đó là một buổi hòa nhạc do hiệp hội âm nhạc mà cha cậu đứng đầu tổ chức, và chắc chắn là có vai trò ngoạn mục trong sự hình thành thẩm mỹ của Bartók. Lên 7 tuổi, cậu đã có “khiếu thẩm âm tuyệt vời”, vẫn theo lời người mẹ, và sau đó cậu đã bắt đầu sáng tác tặng mẹ. “Như dòng chảy của sông Danube vậy”, cậu nói, nhưng rồi không ngờ cuộc sống êm đềm ấy mau chóng kết thúc với sự ra đi của người cha.

Bậc thầy trong nghiên cứu nhạc học

Đang rất tiến bộ trong quá trình học hỏi, nhưng Bartók và cả gia đình đã gặp phải thay đổi lớn lao khi cha ông qua đời khi còn rất trẻ, năm 32 tuổi. Khi đó, Bartók mới lên 8, và mẹ ông phải bỏ dạy trong trường để nuôi dạy và rèn nhạc cho con. Cuộc sống gia đình gặp nhiều khó khăn: cuối năm đó, họ phải trả lại căn hộ công vụ của gia đình. Bắt đầu một thời kỳ mà họ phải sống tằn tiện, và cứ hàng năm lại đổi chỗ ở.


Bước ngoặt đến với chàng trai Bartók khi ông chuyển lên Bratislava, được coi là thành phố lớn so với các vùng quê mà ông từng sống, và khi đó là đô thị quan trọng của Vương quốc Hungary. Được thụ giáo một bậc thầy có tiếng, ông trở thành nghệ sĩ dương cầm triển vọng và trình diễn tốt các bản nhạc của Chopin, Liszt... Khi đó, ông quyết định không qua Vienna, mà lên Budapest theo người thầy của mình.


Năm 18 tuổi, Bartók thi đậu vào Nhạc viện Pest, “thánh địa” của âm nhạc cổ điển Hungary do “ông hoàng của nhạc lãng mạn” Liszt Ferenc sáng lập, và chỉ trong 2 năm, ông tốt nghiệp khoa Trình diễn và Sáng tác. Nhanh chóng, Bartók trở thành một danh cầm lưu diễn ở nhiều nơi, từ Budapest qua Vienna, nhưng sự nghiệp sáng tác của ông vẫn dậm chân ở mức mày mò, cho tới khi ông gặp dòng nhạc thôn quê.


Đó là năm 1904, khi Bartók bắt đầu những chuyến “điền dã” về các miền quê, và dần dần phát hiện ra nét đẹp và sự khác biệt giữa 2 thể loại “dân nhạc” và “nhạc thôn quê”. Một năm sau, ông khởi đầu thu thập và nghiên cứu một cách khoa học nền nhạc dân tộc. Năm 1906, ông được thụ giáo, học hỏi và hỗ trợ từ Kodály Zoltán, một “người khổng lồ” khác của nền nhạc Hungary, được xem như nhà bác học về nhạc học.


Bartók đã bỏ ra hơn 10 năm để đi về các vùng quê của Đế chế Áo - Hung, sau đó, ông còn sang Thổ và Bắc Phi để tìm hiểu những nét đặc sắc trong nhạc dân tộc của các xứ sở này. Nhờ đó, về sau này, người nhạc sĩ đã có nguồn cảm hứng mới từ những âm hưởng dân gian phong phú, tạo nên một trường phái mang tên ông, với dáng dấp mới mẻ, hiện đại, khai phóng và tiên phong trong nền nhạc cổ điển Hung.


Trên cương vị nghiên cứu nhạc học, Bartók đã có một tác phẩm lớn, để đời mang tên “Nhạc dân tộc Hungary” (năm 1924), trong đó ông thu thập, phân tích và tái biên soạn các bản nhạc dân tộc Hung cho đời sau. Một công trình nghiên cứu lớn khác của ông, in năm 1934, với tựa đề “Dân nhạc Hungary và nhạc dân tộc các nước lân cận”, hay được nhắc tới và được coi là nghiên cứu cơ bản của môn Âm nhạc So sánh.

“Trường phái Bartók”

Năm 26 tuổi, Bartók được giữ cương vị giáo sư dương cầm tại Nhạc viện Hoàng gia Quốc gia Budapest, và thực sự khởi đầu sự nghiệp sáng tác. Tuy nhiên, các tác phẩm của ông vì tính mới lạ và khó cảm thụ, thoạt đầu không chiếm được cảm tình của giới phê bình và công chúng. Những sáng tác chịu ảnh hưởng “nhạc thôn quê” của ông ngày càng “lạ”, đặc trưng và cấp tiến, và tiến gần tới chủ nghĩa biểu hiện.


Không nản chí, Bartók vẫn theo đi con đường riêng, để dần dần định hình và tạo dựng “Trường phái Bartók Béla” trong thời gian giữa 2 cuộc Thế chiến, kết hợp và đồng hóa ảnh hưởng của các trường phái cổ điển, lãng mạn và biểu tượng với những tinh túy của nhạc dân tộc châu Âu, và cả những nét nhạc châu Phi và Ả Rập. Phong cách ấy của nhạc Bartók đã có tầm ảnh hưởng khá lớn đến nhạc đương đại thế giới.


Những tác phẩm của ông, dù là sáng tác cho sân khấu opera, nhạc balet, tứ tấu đàn dây, độc tấu dương cầm, concerto cho đàn violin hoặc cho dàn nhạc đều không dễ cảm nhận, dường như chỉ dành cho giới “sành nhạc”. Dầu vậy, “Lâu đài yêu râu xanh”, “Hoàng tử gỗ”, “Mandarin tuyệt vời”, “Cantata Profana” hay “Mikrokozmosz”... về sau này đều được giới phê bình đánh giá là những kiệt tác trong thể loại của chúng.


Là thành viên Viện Hàn lâm Khoa học Hungary, Bartók được coi là người đã đưa văn hóa âm nhạc Hung lên tầm thế giới và ở nửa đầu thế kỷ 20, trong số các nhà soạn nhạc lớn thì ông đã tìm được giải pháp hoàn thiện nhất, đầy đủ nhất và thuyết phục nhất trên phương diện ý tưởng và nghệ thuật, giữa những mâu thuẫn, mê lộ và cách trở của thời đại ông sống. Như một danh cầm, ông cũng có dịp lưu diễn ở 22 nước.


Trong những chuyến đi ấy, Paris đương nhiên là một chặng không thể thiếu với Bartók: năm 1905, ông tham dự Cuộc thi Dương cầm Rubinstein nhưng không đoạt giải. Tuy nhiên, nhạc của ông đã được giới nghệ sĩ trẻ Pháp để tâm và yêu thích: năm 1922, Bartók đã có dịp giới thiệu bản sonat thứ nhất dành cho vĩ cầm với sự hiện diện của các tên tuổi Ravel và Stravinsky. Năm 1931, ông được nhận huân chương Bắc đẩu Bội tinh của Pháp.


Với thời gian, Bartók trở thành một trong những tên tuổi đại diện của nền văn hóa Hung tại Pháp, và thuộc hàng những nhà soạn nhạc ngoại quốc được trình diễn nhiều nhất tại các khán phòng Pháp. “Allegro Barbaro”, tác phẩm lớn sáng tác năm 1911 dành cho đàn dương cầm của Bartók, được coi là một tác phẩm điển hình cho chủ nghĩa hiện đại Hungary trong 1 triển lãm lớn kéo dài gần 3 tháng ở Paris.

Nổi trôi theo dòng lịch sử

Bartók Béla là một “công dân thế giới” theo đúng nghĩa của từ này: học nhạc tại Hung, Tiệp, biểu diễn tại Đức, Áo, Anh, Pháp, Hà Lan, Liên Xô, Thổ Nhĩ Kỳ... và định cư ở Mỹ. Dầu vậy, trong những năm tháng “nhiễu nhương” của thời cuộc, không phải lúc nào Bartók Béla cũng được nhìn nhận đúng tầm vóc của ông: ngay ở quê hương, cũng có những tháng năm dài tên tuổi Bartók bị vùi dập và tưởng như đi vào quên lãng.


Chẳng những là một nhạc sĩ lớn, Bartók Béla còn là một nhà ái quốc với câu nói nổi tiếng : “Tôi chỉ có một mục đích: phục vụ dân tộc và tổ quốc Hung”. Khi chủ nghĩa phát-xít bắt đầu lan rộng ở châu Âu, ông đã cấm các kênh phát thanh Đức và Ý chơi nhạc của ông và dần dần, đoạn tuyệt các mối quan hệ âm nhạc liên quan đến Đức. Năm 1940, Bartók cùng vợ phải sang Mỹ lánh nạn Thế chiến - mà theo ông nghĩ chỉ là “tạm thời”.


Tuy nhiên, vì bệnh tình máu trắng quá nặng, Bartók từ trần tại Mỹ năm 1945, ngay sau khi nước Hung thoát khỏi ách phát-xít. Những năm đầu của chế độ cộng sản ở Hung, sự nghiệp âm nhạc của Bartók đã bị trù dập, việc Mỹ và các nước Phương Tây tôn trọng và đánh giá cao nhạc và những công trình nghiên cứu nhạc học của ông, đã khiến chính quyền Hung cho rằng ông “phục vụ chủ nghĩa đế quốc”.


Cùng những tài danh khác của nền âm nhạc Hungary như Kodály Zoltán, Seress Rezső (tác giả “Chủ nhật buồn”, được coi là bản nhạc tình buồn nhất thế kỷ 20), nhiều tác phẩm của Bartók đã bị cấm ở Hung trong một thời gian. Nhạc của ông còn bị coi là “khó hiểu”, “theo chủ nghĩa hình thức”, xa lạ với quần chúng và người yêu nhạc thời ấy. Tuy nhiên, lịch sử vốn công bằng và hậu thế đã trả lại vị thế xứng đáng cho Bartók Béla.


Cuộc Cách mạng mùa thu năm 1956 và ba thập niên của “nền độc tài mềm dẻo” của tổng bí thư Kádár János sau đó đã từng bước đem các tác phẩm của Bartók trở lại với công chúng. Tên ông được đặt cho đường phố ở Budapest, tượng ông được dựng tại London, Paris và Bruxelles: tại Bỉ, đây là pho tượng duy nhất của một danh nhân Hung! Một thời, hình Bartók được đưa lên đồng tiền mệnh giá 1.000 Forint của Hung.


Và sau 43 năm, vào mùa hạ 1988, tro cốt Bartók Béla đã được trở về với cố quốc, khi đó đang đứng trước ngưỡng cửa tự do, và ông được vinh danh như nhà soạn nhạc xuất chúng của Hung thế kỷ 20. Tại Paris, tượng của Bartók nằm ở một công viên nhỏ rợp bóng cây mang tên ông tại quận 15, gần tháp Eiffel, là nơi là giới yêu văn nghệ và Hung kiều thường lai vãng để tưởng nhớ người nghệ sĩ đi ra thế giới từ Đông Âu! (RFI)


+++++++++++++++++++++++++++++++


The Best of Richard Clayderman: Hungarian sonata


https://www.youtube.com/watch?v=P_F-7x3UbEM
10 Tháng Tám 2014(Xem: 10621)
Trong số các bản tango nổi tiếng, bài A Media Luz được liệt vào danh sách 10 nhạc phẩm bất tử của Argentina. Đứng đầu danh sách này là La Cumparsita (tiếng Việt là Vũ nữ thân gầy). Kế theo sau là El Choclo (Quả Ngô, hiểu theo nghĩa Trái Cấm, tựa tiếng Việt là Tình như mũi tên). Bản tango thứ ba là A Media Luz, mà đặc điểm là bài hát không bị kiểm duyệt dù đề cập đến đề tài sex trong tango.
07 Tháng Tám 2014(Xem: 9416)
Làng nhạc Mêhicô không thiếu gì các giọng ca nữ chuyên hát nhạc bolero. Nhưng trên lãnh vực sáng tác, số phụ nữ chuyên viết theo thể điệu này có thể được đếm trên đầu ngón tay. Trên thế giới, hầu như ai cũng biết đến bài Besame Mucho. Nhưng người phụ nữ đầu tiên nổi tiếng nhờ sáng tác bolero không phải là bà Consuelo Velásquez, mà chính là tác giả María Grever.
31 Tháng Bảy 2014(Xem: 10941)
Trong khuya, mở nghe Quỳnh Giao "Tình Tự Mùa Xuân" của Từ Công Phụng do VCH gửi, nghe sao thấy bâng khuâng lạ thường! Giọng như mới đó mà nay người đã khuất nẻo nơi đâu? Chẳng hiểu sao giờ này VCH lại còn thực hiện PPS này? Phải chăng do những rung động thuần túy của một người vẫn luôn chuộng nghệ thuật, vẫn còn luyến thương giọng hát của một thưở, một thời thanh xuân đáng nhớ...
29 Tháng Bảy 2014(Xem: 9156)
Ca sỹ Khánh Ly đã bay từ Mỹ về Sài Gòn hôm 28/7 để chuẩn bị cho hai chương trình biểu diễn vào hai tối 02/08 ở Hà Nội và 08/08 ở Đà Nẵng. Đây là lần thứ hai trong vòng vài tháng bà trở lại Việt Nam. Ca sỹ nổi tiếng với các ca khúc của nhạc sỹ Trịnh Công Sơn lần đầu tiên về nước biểu diễn hồi tháng 5/2014 sau gần 40 năm sống ở Mỹ, làm dấy lên phản ứng trái ngược cả từ trong nước và cộng đồng hải ngoại.
25 Tháng Bảy 2014(Xem: 9876)
Nữ nghệ sĩ Quỳnh Giao vừa qua đời tại California, thọ 68 tuổi, sau một cơn bạo bệnh. Quỳnh Giao tên thật là Nguyễn Đoan Trang, sinh năm 1946 tại làng Vỹ Dạ, Huế, là con gái của nữ danh ca tân nhạc Minh Trang.
21 Tháng Bảy 2014(Xem: 8453)
Ông bắt đầu sự nghiệp vào những năm 1920 và trở thành một khuôn mặt và âm thanh quen thuộc của nhiều câu lạc bộ và quán rượu ở New Orleans.
29 Tháng Sáu 2014(Xem: 9044)
Chương trình RFI hôm nay được dành để nói về thể điệu bolero. Ngoài hai liên khúc mà RFI hoà âm lại gồm các bản nhạc nổi tiếng nhất, còn có Tristezas, nguyên là bản bolero đầu tiên được viết vào năm 1883.
22 Tháng Sáu 2014(Xem: 9836)
Câu thơ chẳng biết của ai mà ghi lại cũng chẳng biết có đúng không. Nhưng thực sự rất gần với hoàn cảnh của ông thầy dạy Triết, Nguyễn Xuân Hoàng. Anh Nguyễn Xuân Hoàng cũng là nhà văn tên tuổi trên văn đàn và báo giới. Tổng thư ký báo Văn, báo Người Việt, Viet Mercury và Viet tribune hiện nay tại San Jose.
18 Tháng Sáu 2014(Xem: 9171)
Một sớm mai, đất trời Nam Cali vừa mới trải qua những ngày mưa dầm ảm đạm, thì bỗng nhiên, dĩa nhạc của nhạc sĩ Tôn Thất Minh xuất hiện và đã như một làn nắng ấm trong buổi bình minh làm tan đi những đám mây mù.
20 Tháng Năm 2014(Xem: 9359)
30 Tháng Ba 2014(Xem: 10329)
Vũ Đức Sao Biển: "Tôi sinh ra tại Quảng Nam, là con của một gia đình nghèo. Mười tám tuổi, tôi xách chiếc vali nhỏ đựng vài bộ áo quần, tấm bằng tú tài, cây đàn violon, hành phương Nam
10 Tháng Hai 2014(Xem: 10021)
Văn Hóa Magazine chuyển tải nguyên văn mục Nhân Văn Giai Phẩm trên http://www.nhatbaovanhoa.com,
16 Tháng Mười Hai 2013(Xem: 9016)
Một đạo diễn Mỹ từng ba lần đoạt giải thưởng Oscar danh giá mới tới Việt Nam để giúp đào tạo 30 nhà làm phim tài liệu trẻ của Việt Nam ở cả hai miền Nam và Bắc.
21 Tháng Mười Một 2013(Xem: 10706)
Phạm Duy không giống Massiaen, ông đi chu du khắp các lục địa để sưu tầm những nỗi lòng của người Việt xa quê hương. Bằng hình thức ẩn dụ ông mượn những loài chim trong ca dao, dân ca để hót lên những âm điệu hoài hương đó qua tổ khúc Bầy Chim Bỏ Xứ.
24 Tháng Mười 2013(Xem: 9135)
Trong số những bản nhạc Tây Ban Nha rất nổi tiếng, mà nhiều người La Tinh cứ nghĩ rằng nguyên tác là một bài ca Trung Mỹ, có bài Cantinero de Cuba, với giai điệu nồng thắm mặn mà, tiết tấu mềm mại lụa là. Tựa đề nguyên gốc khiến cho người ta tưởng lầm đây là một bản tình ca ra đời tại La Havana. Nhưng bài này được viết tại Sevilla, thủ phủ vùng Andalucia.
08 Tháng Mười 2013(Xem: 8807)
WASHINGTON D.C.: Ngoài những thành công nổi bật về lãnh vực y dược và tin học, giới trẻ thuộc thành phần người Việt tị nạn bắt đầu gặt hái thành qu? tốt đẹp về mặt nghệ thuật. Một cô bé 15 tuổi vừa đạt địa vị cao quý nhất về thơ dành cho học sinh trung học trên toàn quốc Hoa Kỳ, và được Đệ Nhất Phu Nhân tiếp đón tại Bạch Ốc.
01 Tháng Mười 2013(Xem: 14605)
Mới đây hai nhạc sĩ có tiếng của Việt Nam là Huy Tuấn và Quốc Trung khi được báo chí phỏng vấn về đề tài “nhạc sến” đã có những phát biểu làm dư luận ồn ào nếu không muốn nói là nổi giận.
23 Tháng Chín 2013(Xem: 10746)
Giới soạn nhạc La Tinh đã cống hiến cho đời nhiều tình khúc bất tử. Người Uruguay rất tự hào với nhạc phẩm La Cumparsita. Dân Panama xem bài Historia de Un Amor như một di sản văn hóa. Người Cuba đưa bản Quizas, Quizas đi vòng quanh thế giới. Còn Besame Mucho từng được chọn là giai điệu Mêhicô hay nhất mọi thời đại.
23 Tháng Chín 2013(Xem: 8876)
Trả lời trên đài phát thanh RTL vào sáng nay 10/09/2013, Johnny Hallyday thông báo đang chuẩn bị nhiều buổi biểu diễn tại Hà Nội và Hồng Kông để gây quỹ giúp trẻ em bị nhiễm HIV.
18 Tháng Chín 2013(Xem: 8593)
Nữ ca sĩ hải ngoại đã có cơ hội gặp gỡ người hâm mộ và yêu thích tiếng hát của cô trong đêm nhạc diễn ra vừa qua tại phòng trà Tiếng Xưa, TP.HCM.