Một thủy thủ Hải quân Việt Nam thường xuyên trong tư thế đứng nghiêm canh gác tượng đài xác định chủ quyền VN trên đảo Trường Sa. Ảnh Văn Hóa.
++++++++++++++++++++++
Hội Thảo 'Xu hướng gần đây ở Biển Đông và chính sách của Mỹ'
Vụ tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông đang rẽ sang một bước ngoặt nguy hiểm.
14.07.2014
Hội thảo Biển Đông thường niên thứ tư do Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế (CSIS) tổ chức vừa kết thúc hôm thứ Sáu 11 tháng 7 tại thủ đô Washington của Hoa Kỳ. Và như mọi năm, cuộc hội thảo quốc tế năm nay cũng quy tụ các học giả, chuyên gia hàng đầu và những nhà làm chính sách cấp cao của nhiều nước- kể cả nước chủ nhà, cùng với giới truyền thông và những người quan tâm tới tình hình Biển Đông. Hoài Hương của Ban Việt ngữ VOA có mặt trong ngày thứ nhì của cuộc hội thảo diễn ra tại trụ sở mới của CSIS ở Washington, và có bài tường trình sau đây.
Hội thảo Biển Đông với chủ đề: “Những Xu hướng gần đây ở Biển Đông và Chính sách của Hoa Kỳ” diễn ra trong bối cảnh cuộc tranh chấp chủ quyền Biển Đông đang rẽ sang một bước ngoặt nguy hiểm, khi hơn 100 tàu Trung Quốc hàng ngày dàn hàng đối đầu với tàu kiểm ngư và cảnh sát biển Việt Nam, uy hiếp ngư dân Việt Nam đang tiếp tục bám biển, chống việc Trung Quốc hạ đặt giàn khoan trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam. Một số chuyên gia nói những hành động của Trung Quốc đã khơi dậy những lo ngại về nguy cơ xảy ra xung đột quân sự.
Mở đầu hội thảo hôm thứ Năm, diễn giả chính, Chủ tịch Ủy Ban Tình báo Hạ viện Hoa Kỳ Mike Rogers đề cập tới mối đe dọa từ Trung Quốc khi nước này lấp biển, xây dựng thêm trên các bãi cạn hay đảo không người ở để tìm cách thay đổi hiện trạng trên Biển Đông. Ông đơn cử những hành động gây hấn mà ông cho là“tham lam, trắng trợn” của Trung Quốc hồi gần đây, hiếp đáp các nước láng giềng – trong đó có Việt Nam, trong khi thế giới đang bận tâm về những cuộc khủng hoảng tại các điểm nóng khác. Ông nói đã tới lúc Hoa Kỳ và các nước trong khu vực phải có biện pháp để răn đe Trung Quốc chớ tiếp tục theo đuổi ý đồ một cách ích kỷ, lấn ép và xâm phạm chủ quyền của các nước láng giềng nhỏ hơn.
Ông nói tình hình đã trở nên hết sức cấp bách. Ông nói:
“Chúng ta sẽ lừa dối chính mình nếu không nghĩ rằng mâm cơm đã được dọn sẵn, nồi canh đã bắt đầu sôi sục, khi nói tới những gì đang diễn ra ở Biển Đông. Các nước bạn đã nói với chúng ta từ nhiều tháng rồi, thậm chí nhiều năm rồi, về những thách thức sẽ đến từ Trung Quốc tại Biển Đông. Giờ đã tới lúc để lật thế cờ, thay đổi cuộc đối thoại với Trung Quốc. Đã tới lúc chúng ta nên nói rằng chúng ta có những đồng minh và nước bạn tốt có quan hệ với chúng ta từ lâu và là những thế lực trong khu vực, chúng ta có những bạn mới mà theo trông đợi sẽ thắt chặt quan hệ lâu dài, cả về thương mại lẫn quốc phòng.”
Tương tự như tại các cuộc hội thảo về tình hình Biển Đông trước đây của CSIS, các diễn giả Trung Quốc hầu như hoàn toàn bị cô lập khi họ lặp lại những lập luận cũ, khăng khăng đòi chủ quyền mà họ nói là “không thể tranh cãi” trên hầu hết Biển Đông, viện những cái gọi là “chứng cứ lịch sử”, đã bị các diễn giả khác lần lượt bác bỏ.
Lập trường của các diễn giả Trung Quốc không những không đổi, mà năm nay dường như còn cứng rắn hơn. Thế liệu sau 2 ngày hội thảo, các diễn giả có cảm thấy bi quan hơn về một giải pháp cho cuộc tranh chấp ở Biển Đông?
Trả lời Ban Việt ngữ-VOA, Tiến sĩ James Manicom, một nhà nghiên cứu thuộc Trung tâm Sáng kiến Cai trị Quốc tế -gọi tắt là CIGI- đến từ Canada nhận định:
“Tôi vừa lạc quan lại vừa bi quan. Một điều đáng chú ý là phần lớn hai buổi hội thảo đều tập trung vào cách làm thế nào có thể hối thúc Trung Quốc hãy thay đổi cách xử sự và ngưng những hành vi có tính khiêu khích, nhưng chúng ta cũng nên duy trì thái độ cởi mở, để tìm hiểu về những cách nhận thức của người Trung Quốc về các vấn đề khác nhau. Mặt khác, tôi cảm thấy lạc quan là vì chính phủ Mỹ, đặc biệt là chính quyền của Tổng Thống Obama, giờ đang coi vấn đề này một cách nghiêm túc, và đã đề nghị những phương án cụ thể để ứng phó. Tôi cũng thấy có một số dấu hiệu là chính phủ Mỹ giờ đây sẵn sàng bắt Trung Quốc phải trả những cái giá đắt hơn, ngoài chuyện Bắc Kinh bị mất uy tín trong khu vực và cả trên toàn cầu.”
Giáo sư Carl Thayer thuộc Học viện Quốc phòng Australia nói:
“Tôi thì không hẳn là lạc quan, nhưng tôi đã thấy sự xuất hiện của một chiến lược mới của Mỹ nghiêng nặng về các biện pháp pháp lý. Khuynh hướng đó đã trở nên rõ nét hơn, và điều đó đã trấn an mọi người bởi vì cho tới nay, người ta chỉ nghe những lời chỉ trích suông, chẳng hạn hành động của Trung Quốc có tính ”khiêu khích”, cách cư xử của Trung Quốc là “không thể chấp nhận được” nhưng ngoài ra, không thấy có bất cứ hành động cụ thể nào.”
Giáo sư Thayer nói lắng nghe vị diễn giả Trung Quốc, Giaó sư Chu Shulong của
Đại học Thanh Hoa, trình bày bài tham luận của ông, ông cảm thấy như phải bắt
đầu tất cả lại từ đầu.
“Chúng ta dã chẳng đi tới đâu cả. Đó là trường hợp người điếc nói chuyện
với người điếc! Tôi chưa thấy có bước nào đột phá. Trung Quốc vẫn khăng
khăng duy trì lập trường cứng rắn của họ, trong khi chiến thuật của Mỹ để buộc
Trung Quốc phải trả giá cao hơn cho lập trường của họ cần có thời gian mới phát
huy hiệu quả của nó.”
Được hỏi trong tình huống hiện nay, ông khuyên Việt Nam nên làm gì, Tiến sĩ James Manicom cho biết:
“Tôi khuyên Việt Nam nên theo đuổi các biện pháp pháp lý, không những tại các tòa án quốc tế mà cả các tòa án ở trong nước. Một điều mà họ có thể làm bây giờ là truy tố Tổng Công ty Dầu khí Trung Quốc ra trước các tòa án Việt Nam hay tòa án Trung Quốc về việc hoạt động mà không có giấy phép trong các vùng biển thuộc chủ quyền của Việt Nam. Đó là một cách để bắt Trung Quốc phải trả giá cao hơn. Ngoài ra đó còn là một động thái có tính biểu tượng.”
Các diễn giả khác cũng bày tỏ sự thất vọng về thái độ không khoan nhượng của Bắc Kinh, khăng khăng muốn chiếm trọn Biển Đông bằng những bước tuần tự, chậm rãi nhưng chắc chắn, hoàn toàn bất chấp lợi ích quốc gia của các nước láng giềng. Trong tình hình không bên nào trong cuộc tranh chấp chủ quyền Biển Đông chịu lùi bước, nhiều diễn giả đã bày tỏ lo âu về nguy cơ một sự cố nhỏ có thể bị xé to thành xung đột quân sự. Họ nêu bật tầm quan trọng của việc thiết lập một cơ chế để tránh xung đột quân sự xảy ra.
Nỗi lo về nguy cơ xung đột quân sự xảy ra thể hiện rõ nét trong những bài tham luận cũng như trong những câu hỏi mà cử tọa đặt ra cho các diễn giả sau phần phát biểu. Nói chuyện với Ban Việt ngữ -VOA, Giám đốc Ban Á Châu Học của Đại học Delaware, Giáo sư Alice Ba nói rằng hai ngày hội thảo về những diễn tiến mới nhất tại Biển Đông đã để lại nơi bà một cảm giác bất an.
“Sau hai ngày hội thảo, tôi cảm thấy lo ngại. Mối lo chủ yếu của tôi có
liên quan tới tình trạng thiếu tin tưởng về mặt chiến lược giữa các bên chính
trong cuộc tranh chấp, và đặc biệt giữa Hoa Kỳ với Trung Quốc.”
Đánh giá về nguy cơ xảy ra xung đột quân sự, và liệu bà có cảm thấy bi quan về
những diễn tiến mới nhất ở Biển Đông, Giáo sư Alice Ba nhận định:
“Tôi nghĩ từ hồi nào tới giờ, mối quan tâm trong cuộc tranh chấp này vẫn là xung đột xảy ra vì một sự cố không có chủ ý. Không một nước nào sẽ được hưởng bất cứ lợi ích gì nếu xung đột xảy ra, kể cả Hoa Kỳ, Trung Quốc, hay các nước ASEAN. Vấn đề ở đây là một số quốc gia đang tìm cách đẩy lùi tối đa các giới hạn, và có nguy cơ xung đột xảy ra vì một tai nạn.”
Giáo sư Carl Thayer nói kể từ khi cuộc khủng hoảng giàn khoan bùng nổ, Quân đội Nhân dân Việt Nam đã được giữ trong doanh trại, cách xa nơi đang xảy ra các vụ đụng độ hàng ngày. Theo lời ông, các giới chức Việt Nam áp dụng một chính sách thụ động khi đối đầu với Trung Quốc. Hà Nội vẫn duy trì thái độ cực kỳ hòa hoãn trong cuộc tranh chấp với Trung Quốc. Việt Nam đề xuất và sau đó kêu gọi thiết lập đường dây nóng để giới chức cấp cao hai bên có thể thảo luận trực tiếp hầu ngăn tránh khủng hoảng leo thang.
Giáo sư Thayer kết luận rằng cuộc đối đầu giữa Việt Nam và Trung Quốc hiện nay đã biến thành một cuộc “chiến tranh tiêu hao”, trong đó Trung Quốc sử dụng số tàu nhiều áp đảo, có trọng tải lớn hơn, để đâm vào các tàu Việt Nam hầu gây hư hại đủ để buộc các tàu này rút ra khỏi địa điểm quanh giàn khoan. Nếu Trung Quốc rút giàn khoan ra khỏi vùng đặc quyền kinh tế Việt Nam vào ngày hay trước ngày 15 tháng Tám như đã tuyên bố khi loan báo kéo giàn khoan vào Biển Đông, thì có phần chắc hai bên sẽ rút lực lượng hải quân ra khỏi địa điểm này trước mùa bão từ tháng 9 tới tháng 10, đây có thể là một cơ hội để hai bên đàm phán trực tiếp với nhau.
Câu hỏi đặt ra ở đây là liệu việc Trung Quốc sử dụng giàn khoan 981 có phải là “một tình trạng bình thường mới” trong chính sách của Bắc Kinh đòi chủ quyền Biển Đông hay không, và liệu giàn khoan 981 hay các giàn khoan khác của Trung Quốc có sẽ xuất hiện hàng năm trong các vùng biển tranh chấp, kèm theo một đoàn tàu hộ tống, hay không./