DOC - COC - Tài liệu Hoàng Sa

24 Tháng Giêng 20243:10 CH(Xem: 360)

VĂN HÓA ONLINE – DOC-COC - THỨ TƯ 24 JAN 2024


DOC - COC - Tài liệu Hoàng Sa


VĂN HÓA ONLINE

24/1/2024


DOC là gì?


Ngày 04/11/2002, tại Hội nghị ASEAN lần thứ 8 tại Phnom Pênh thủ đô Cam Bốt, Trung Quốc và 10 nước ASEAN đã ký bản Tuyên bố về ứng xử của các bên ở biển South China Sea tiếng Anh: Declaration on Conduct of the Parties in the South China Sea - viết tắt là DOC).


Đây là văn kiện chính trị đầu tiên mà Trung Quốc và ASEAN đạt được.


image011Ngày 4/11/2002, tại Hội nghị ASEAN lần thứ 8 tại Phnom Penh ở Cam Bốt, 10 nước ASEAN và Trung Quốc đã ký thỏa ước DOC. (Ảnh: TTXVN)


Biển South China Sea, (Việt Nam gọi chung là Biển Đông) là biển nửa kín ở Thái Bình Dương rộng khoảng 3,5 triệu km2 – ăn sâu vào bán đảo Đông Dương, Biển Đông có hai bờ biển dài nhất là bờ biển Philippines và bờ biển Việt Nam.


Biển có hai vùng biển quan trọng hiện nay là Biển Đông Việt Nam và Biển Tây Philippines.


Dính liền với biển South China Sea sâu vào bờ biển Việt Nam ở mạn Tây-Bắc là Vịnh Bắc Việt. Vịnh rộng khoảng126.250 km2, có hai bờ duyên hải bao che là bờ biển Bắc Việt và bờ biển đảo Hải Nam của TQ.


Vịnh Bắc Việt là vùng biển rất kín đáo hiện do Việt Nam và Trung Quốc làm chủ.

image013

Biển South China Sea tuyến đường vận tải quốc tế từ eo Malacca-Singapore đến eo Ba Sĩ Cao Hùng Đài Loan và đảo Luzon Philippines; nó cũng là cửa ngõ của eo biển Taiwan-China từ Bắc xuống phía Nam và ngược lại.


40% dịch vụ hàng hóa của Trung Quốc đi qua vùng biển này và hàng ngàn thương thuyền di chuyển nhộn nhịp ngày đêm của Hoa Kỳ và Quốc tế, mỗi năm mang lại từ 3,5 đến 5 tỷ đô la.


Biển South China Sea được đánh giá là vùng biển có trữ lượng tài nguyên dầu khí và nguồn cá phong phú, gắn với lợi ích của các quốc gia ven biển là Trung Quốc, Philippines, Brunei, Malaysia, Indonesia và Việt Nam.


Trước những diễn biến phức tạp của khu vực Biển Đông cuối những năm 1980 và đầu những năm 1990, cả ASEAN và Trung Quốc đều nhận thấy cần thiết có một bộ quy tắc ứng xử để điều chỉnh hành vi của các bên liên quan tại Biển Đông. Trên cơ sở đó, sau khi ký DOC năm 2002, năm 2000, Trung Quốc tiếp tục khởi động tiến trình đàm phán về Bộ quy tắc ứng xử thực chất và hiệu quả ở South China Sea gọi tắt là COC nhưng cho đến nay vẫn “dậm chân tại chỗ”.


Một sự kiện mới có thể làm đảo lộn tiến trình COC của Trung Quốc đề xướng là Tổng thống Philippines Marcos Jr., đang đề nghị mở thêm hội nghị COC-2 gồm các nước phản đối lại COC đầu tiên do Trung Quốc đề xướng.


Nội dung DOC


Điều 1: Các bên tái khẳng định cam kết của mình đối với các mục tiêu và các nguyên tắc của Hiến chương Liên hiệp Quốc, Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển năm 1982 (UNCLOS) Hiệp Ước Hữu nghị và Hợp tác khu vực Đông Nam Á (TAC), năm nguyên tắc cùng tồn tại hòa bình (của Trung Quốc) và những nguyên tắc được thừa nhận phổ biến khác của Luật pháp Quốc tế được coi là quy tắc căn bản điều chỉnh mối quan hệ giữa nhà nước với nhà nước.


Điều 2: Các bên cam kết tìm kiếm những cách thức xây dựng lòng tin và sự tín nhiệm lẫn nhau hài hòa với những nguyên tắc nêu trên và trên căn bản bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau.


Điều 3: Các bên tái khẳng định sự tôn trọng và cam kết của mình đối với quyền tự do hoạt động hàng hải và bay trên vùng trời biển South China Sea như đã được quy định bởi các nguyên tắc được thừa nhận phổ biến trong luật pháp quốc tế, kể cả UNCLOS 1982.


Điều 4: Các bên liên quan chịu trách nhiệm giải quyết các tranh chấp về lãnh thổ và về quyền thực thi luật pháp bằng các phương tiện hòa bình mà không viện đến sự đe dọa hoặc sử dụng vũ lực, thông qua các cuộc tham vấn thân thiện và những cuộc đàm phán bởi các quốc gia có chủ quyền có liên quan trực tiếp, phù hợp với những nguyên tắc được thừa nhận phổ quát của luật pháp quốc tế, kể cả Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển năm 1982.


Điều 5: Các bên chịu trách nhiệm thực hiện sự tự chế trong việc thi hành các hoạt động có thể gây phức tạp hoặc leo thang tranh chấp, ảnh hưởng tới hòa bình và sự ổn định, kiềm chế không tiến hành đưa người đến sinh sống trên những hòn đảo hiện không có người sinh sống, trên các ám tiêu, bãi cát ngầm, đảo nhỏ và những yếu tố khác và phải được xử lý những khác biệt của mình bằng phương pháp có tính xây dựng.


Trong khi chờ đợi sự dàn xếp hòa bình cho các tranh chấp về lãnh thổ và quyền thực thi pháp luật, các bên liên quan tiến hành tăng cường những nỗ lực nhằm tìm kiếm các phương cách xây dựng lòng tin và sự tín nhiệm lẫn nhau trong tinh thần hợp tác và hiểu biết, bao gồm:


  • Tổ chức các cuộc đối thoại và trao đổi quan điểm một cách thích đáng giữa các quan chức phụ trách quân sự và quốc phòng.
  • Bảo đảm đối xử công bằng và nhân đạo đối với tất cả mọi người đang gặp hiểm nguy hoặc tai họa.
  • Thông báo trên cơ sở tự nguyện cho các bên liên quan khác về mọi cuộc tập luyện quân sự liên kết/hỗn hợp sắp diễn ra.
  • Trao đổi trên cơ sở tự nguyện những thông tin liên quan.


Điều 6
: Trong khi chờ đợi một sự dàn xếp toàn diện và bền vững những tranh chấp, các bên liên quan có thể tìm kiếm hoặc tiến hành các hoạt động hợp tác. Những hoạt động này có thể bao gồm các điều sau đây:


  • Bảo vệ môi trường biển.
  • Nghiên cứu khoa học biển.
  • An toàn hàng hải và thông tin trên biển.
  • Hoạt động tìm kiếm cứu hộ.
  • Đấu tranh chống tội phạm xuyên quốc gia, kể cả nhưng không hạn chế trong hoạt động buôn lậu các loại thuốc cấm, hải tặc và cướp có vũ trang trên biển, hoạt động buôn bán trái phép vũ khí.


Thể thức, quy mô và địa điểm, đặc biệt là sự hợp tác song phương và đa phương, cần phải được thỏa thuận bởi các bên có liên quan trước khi triển khai thực hiện trong thực tế.


Điều 7: Các bên liên quan sẵn sàng tiếp tục các cuộc đối thoại và tham vấn về những vấn đề liên quan, thông qua các thể thức được các bên đồng ý, kể cả các cuộc tham vấn thường xuyên theo quy định của Tuyên bố này, vì mục tiêu khuyến khích sự minh bạch và láng giềng tốt, thiếp lập sự hợp tác và hiểu biết lẫn nhau một cách hài hòa, và tạo điều kiện thuận lợi cho một giải pháp hòa bình và tranh chấp giữa các bên.


Điều 8: Các bên có trách nhiệm tôn trọng những điều khoản của Tuyên bố này và hành động phù hợp với sự tôn trọng đó.


Điều 9: Các bên khuyến khích các nước khác tôn trọng các nguyên tắc bao hàm trong Tuyên bố này.


Điều 10: Các bên liên quan khẳng định rằng việc tiếp thu một bộ quy tắc về ứng xử trên South China Sea sẽ thúc đẩy mạnh mẽ hơn hòa bình và ổn định trong khu vực và nhất trí làm việc trên căn bản đồng thuận để tiến tới hoàn thành mục tiêu này.


THAM KHẢO:


- wikipedia


- https://special.nhandan.vn/doc_radoi/index.html


++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++


Tuyên bố chung Việt Nam - Trung Quốc 2023


Thứ tư, 13/12/2023, 16:01 (GMT+7


https://vnexpress.net/tuyen-bo-chung-viet-nam-trung-quoc-4688334.html


Việt Nam - Trung Quốc ra Tuyên bố chung về việc tiếp tục làm sâu sắc và nâng tầm quan hệ Đối tác hợp tác Chiến lược Toàn diện, xây dựng Cộng đồng chia sẻ tương lai có ý nghĩa chiến lược.


Toàn văn Tuyên bố chung Việt Nam - Trung Quốc


Tuyên bố chung gồm 5 phần, trong đó nhấn mạnh để tiếp tục làm sâu sắc và nâng tầm hơn nữa quan hệ Đối tác hợp tác Chiến lược Toàn diện, hai bên nhất trí xây dựng Cộng đồng chia sẻ tương lai Việt Nam - Trung Quốc có ý nghĩa chiến lược, nỗ lực vì hạnh phúc của nhân dân hai nước, vì sự nghiệp hòa bình và tiến bộ của nhân loại.


image015Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và Tổng Bí thư, Chủ tịch Tập Cận Bình trước buổi hội đàm ngày 12/12. Ảnh: Giang Ngọc


Phía Việt Nam ủng hộ việc xây dựng Cộng đồng chia sẻ tương lai nhân loại, Sáng kiến Phát triển toàn cầu, Sáng kiến An ninh toàn cầu và Sáng kiến Văn minh toàn cầu. Các sáng kiến nêu trên có mục tiêu đề ra là nhằm bảo vệ lợi ích chung của toàn nhân loại, vì sự nghiệp hòa bình, chính nghĩa và tiến bộ của nhân dân thế giới, đáp ứng mong muốn xây dựng thế giới tốt đẹp của nhân dân các nước.


Phía Trung Quốc ủng hộ và đánh giá cao những thành tựu mà Việt Nam đạt được trong gần 40 năm đổi mới, 10 năm thực hiện "Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung sửa đổi năm 2011)", đặc biệt là những thành quả quan trọng, toàn diện kể từ sau Đại hội XIII Đảng Cộng sản Việt Nam đến nay, thúc đẩy sức mạnh tổng hợp và ảnh hưởng quốc tế của Việt Nam đạt tới tầm cao chưa từng có.


Phía Trung Quốc khẳng định ủng hộ Việt Nam phát triển phồn vinh, nhân dân hạnh phúc, xây dựng nền kinh tế lớn mạnh, độc lập, tự chủ, thúc đẩy đồng bộ sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế toàn diện, phát triển quan hệ đối ngoại rộng mở, hữu nghị, phát huy vai trò ngày càng quan trọng hơn cho hòa bình, ổn định, phát triển và phồn vinh của khu vực và thế giới.


Vào thời điểm chuyển giao thế kỷ, hai nước Việt Nam và Trung Quốc đã xác lập phương châm "láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai" và tinh thần "láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt". 15 năm kể từ khi hai nước thiết lập quan hệ Đối tác hợp tác Chiến lược Toàn diện vào năm 2008 đến nay, hợp tác trên các lĩnh vực đã đạt được tiến triển tích cực, toàn diện. Bước vào thời đại mới, quan hệ Việt Nam - Trung Quốc không ngừng mở rộng và đi vào chiều sâu.


image017Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng hội đàm Tổng bí thư, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình ngày 13/12. Ảnh: Giang Ngọc


Hướng tới tương lai, phía Trung Quốc nhấn mạnh kiên trì chính sách hữu nghị với Việt Nam, coi Việt Nam là hướng ưu tiên trong ngoại giao láng giềng. Phía Việt Nam khẳng định luôn coi quan hệ Việt Nam - Trung Quốc là ưu tiên hàng đầu trong chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa của Việt Nam. Đây là lựa chọn chiến lược của hai bên.


Hai bên nhấn mạnh, kiên định ủng hộ hai Đảng, hai nước và Nhân dân hai nước kiên trì tự chủ chiến lược, tự chủ lựa chọn con đường phát triển phù hợp với tình hình đất nước mình; kiên trì xử lý thỏa đáng và tích cực giải quyết bất đồng thông qua biện pháp hòa bình trên cơ sở hiểu biết lẫn nhau, tôn trọng lẫn nhau, phù hợp với luật pháp quốc tế, duy trì đà phát triển tốt đẹp của quan hệ Việt Nam - Trung Quốc, đóng góp tích cực hơn nữa cho hòa bình, ổn định và phát triển của khu vực và thế giới.


Trên cơ sở những nhận thức chung nêu trên, trong bối cảnh tình hình thế giới trải qua những diễn biến nhanh chóng, phức tạp, khó lường và chưa từng có tiền lệ, hai bên đồng ý kiên trì định hướng chính trị của Lãnh đạo cao nhất hai Đảng, hai nước, nhìn nhận và phát triển quan hệ Việt Nam - Trung Quốc từ tầm cao chiến lược và tầm nhìn lâu dài, tuân theo phương châm "16 chữ" và tinh thần "4 tốt", lấy dịp 15 năm thiết lập quan hệ Đối tác hợp tác chiến lược toàn diện làm thời cơ, xây dựng Cộng đồng chia sẻ tương lai Việt Nam - Trung Quốc có ý nghĩa chiến lược, nỗ lực vì hạnh phúc của nhân dân hai nước, vì sự nghiệp hòa bình và tiến bộ của nhân loại.


Hai bên nhất trí cho rằng phát triển quan hệ giữa các nước cần tuân theo Hiến chương Liên Hợp Quốc, luật pháp quốc tế và chuẩn mực cơ bản của quan hệ quốc tế, kiên trì tôn trọng lẫn nhau, bình đẳng, cùng có lợi, hợp tác cùng thắng, tôn trọng chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau, kiên trì giải quyết bất đồng thông qua biện pháp hòa bình.


image019Thủ tướng Phạm Minh Chính và Tổng bí thư, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình sáng 13/12. Ảnh: Giang Ngọc


Việt Nam - Trung Quốc đề ra 6 phương hướng hợp tác lớn trong thời gian tới, nhằm tiếp tục làm sâu sắc và nâng tầm quan hệ Đối tác hợp tác Chiến lược Toàn diện, thúc đẩy vững chắc việc xây dựng Cộng đồng chia sẻ tương lai, gồm:


Tin cậy chính trị cao hơn: Để tập trung nắm bắt phương hướng phát triển của quan hệ Việt Nam - Trung Quốc, hai bên nhất trí tăng cường trao đổi chiến lược, kiên trì đối xử bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau, củng cố hơn nữa tin cậy chính trị.


Hợp tác quốc phòng - an ninh thực chất hơn: Hợp tác quốc phòng - an ninh là một trong những trụ cột của quan hệ Việt Nam - Trung Quốc, có vai trò quan trọng trong việc củng cố tin cậy chiến lược giữa hai Đảng, hai nước. Để bảo vệ an ninh của nước mình, góp phần duy trì hòa bình, an ninh, ổn định của khu vực và thế giới, hai bên nhất trí tăng cường các cơ chế hợp tác về quốc phòng, công an, an ninh, tòa án tối cao, viện kiểm sát tối cao, nghiên cứu xây dựng cơ chế giao lưu giữa các cơ quan tư pháp tương ứng của hai nước.


Hợp tác thực chất sâu sắc hơn: Nhằm kiên trì hợp tác cùng thắng, phục vụ sự phát triển của hai nước, thúc đẩy kinh tế khu vực và thế giới phục hồi, tăng trưởng bền vững, hai bên sẽ tăng cường các cơ chế hợp tác tương ứng trong các lĩnh vực cơ sở hạ tầng, đầu tư ngành nghề, thương mại, nông nghiệp, tài chính tiền tệ; nghiên cứu xây dựng cơ chế hợp tác giữa các doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp có vốn nhà nước, cơ quan giao thông vận tải.


Nền tảng xã hội vững chắc hơn: Nhằm tăng cường hiểu biết và tình hữu nghị, thúc đẩy giao lưu và hiểu biết, gắn bó lẫn nhau giữa nhân dân hai nước, củng cố nền tảng xã hội của quan hệ hai Đảng, hai nước, hai bên sẽ tăng cường các cơ chế giao lưu giữa cơ quan tuyên giáo/tuyên truyền của hai Đảng, truyền thông chủ lực và các nhà xuất bản, giữa các cơ quan văn hóa, du lịch, thanh niên và địa phương; nghiên cứu xây dựng cơ chế hợp tác giữa các cơ quan giáo dục, y tế, y học cổ truyền, hàng không dân dụng.


Phối hợp đa phương chặt chẽ hơn: Để bảo vệ công bằng, chính nghĩa và lợi ích chung quốc tế, thúc đẩy hòa bình, ổn định và phát triển phồn vinh của khu vực, kiến tạo môi trường bên ngoài có lợi cho sự phát triển của mỗi nước và quan hệ Việt - Trung, hai bên nhất trí kiên trì phát huy chủ nghĩa đa phương, tăng cường phối hợp và hợp tác đa phương, cùng nhau bảo vệ hệ thống quốc tế lấy Liên Hợp Quốc làm hạt nhân và trật tự quốc tế dựa trên luật pháp quốc tế.


Bất đồng được kiểm soát và giải quyết tốt hơn: Hai bên đi sâu trao đổi ý kiến chân thành, thẳng thắn về vấn đề trên biển, nhấn mạnh cần kiểm soát tốt hơn và tích cực giải quyết bất đồng trên biển, duy trì hòa bình, ổn định ở Biển Đông và khu vực.


image021Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ và Tổng bí thư, Chủ tịch nước Trung Quốc Tập Cận Bình ngày 13/12. Ảnh: Giang Ngọc


Hai bên nhất trí cho rằng, chuyến thăm cấp Nhà nước tới Việt Nam của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Trung Quốc Tập Cận Bình đã thành công tốt đẹp, là dấu mốc quan trọng trong lịch sử quan hệ hai Đảng, hai nước, góp phần quan trọng vào phát huy tình hữu nghị truyền thống Việt Nam - Trung Quốc, nâng tầm quan hệ Việt Nam - Trung Quốc trong thời kỳ mới, thúc đẩy hòa bình, ổn định và phát triển của khu vực và thế giới.


++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++


Ngư dân Việt Nam tại ngư trường Hoàng Sa trước dân quân biển Trung Quốc


image023Nguồn hình ảnh, Getty Images. Một ngư dân tại đảo Lý Sơn, Quảng Ngãi vào năm 2022


  • Tác giả, Huyền Trân
  • Vai trò, BBC News Tiếng Việt
  • 22 tháng 1 2024


Chủ tịch Hội Nghề cá Việt Nam và tỉnh Đà Nẵng cho BBC News Tiếng Việt biết các ngư dân đang phải tránh xa vùng ngư trường Hoàng Sa vài chục hải lý để đảm bảo an toàn trước những tàu dân quân biển và tàu chấp pháp của Trung Quốc.


Ông Trần Văn Lĩnh, Chủ tịch Hội Nghề cá Đà Nẵng, cho biết trong khoảng hai đến ba năm trở lại đây, tần suất tấn công của ngư dân Trung Quốc với tàu bè ngư dân ở Đà Nẵng “có giảm mạnh về tần suất, số lần tấn công và quy mô”.


Cụ thể, các tàu đánh bắt xa bờ của ngư dân Đà Nẵng là những tàu lớn trên 17 mét, hoạt động đánh bắt quanh năm, kéo dài 15-20 ngày hoặc cho đến vài tháng.


Đà Nẵng có chưa đến 100 tàu như vậy và mỗi tàu thường có năm đến bảy người, theo ông Lĩnh, người đã gắn bó với bà con ngư dân trong bốn thập kỷ qua.


“Mặc dù Việt Nam nói là chủ quyền của mình, nhưng khi tàu mình vô thì bị rượt đuổi như thường. Vì thế trong hai năm trở lại đây, tàu bị xua đuổi thì có, nhưng bị cướp cá, cướp lưới, hay sát thương ngư dân như trước đây thì không còn. Khu vực Trung Quốc xua đuổi cũng bị thu hẹp lại. Đây chỉ là tình hình đối với tàu Đà Nẵng thôi.”


“Thỉnh thoảng xảy ra ngư dân bị tàu Trung Quốc rượt đuổi, trước đây có khi kéo dài cả chục tiếng đồng hồ, chủ yếu Trung Quốc muốn khiến ngư dân sợ và bỏ chạy thôi,” ông Lĩnh cho biết.


Theo truyền thông nhà nước Việt Nam, gần đây vẫn còn trường hợp ngư dân Việt Nam bị tàu Trung Quốc tấn công, xịt vòi rồng khi đánh bắt ở ngư trường Hoàng Sa, cụ thể là tàu của ngư dân tỉnh Quảng Ngãi.


Ông Nguyễn Việt Thắng, Chủ tịch Hội nghề cá Việt Nam, cựu Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam, đánh giá sự tấn công của Trung Quốc nhằm vào ngư dân Việt Nam “nhìn chung vẫn cao”.


“Cả năm 2023, vẫn có tàu chấp pháp Trung Quốc ở Trường Sa, Hoàng Sa xua đuổi tàu ngư dân Việt Nam. Bà con bị cản phá, cản trở, rồi có trường hợp đâm va, lên tàu cướp tài sản…”


“Theo số lượng thống kê sơ lược [chưa đầy đủ] của hội thì mỗi tỉnh xảy ra vài chục vụ ngư dân Việt Nam bị tàu Trung Quốc cản phá trong năm 2023, nhìn chung vẫn cao,” ông Thắng nói.


Tránh vùng ‘nhạy cảm’


image025Nguồn hình ảnh, Getty Images. Tàu cảnh sát biển Trung Quốc phun vòi rồng vào tàu kiểm ngư của Việt Nam vào ngày 2/6/2014 sau khi giàn khoan HD 981 xuất hiện tại vùng biển Hoàng Sa


Về tình hình ngư dân Đà Nẵng ra khơi, ông Lĩnh cho biết hiện nay bà con được trang bị bản đồ, thiết bị vệ tinh, nhưng phải tránh những vùng bị xem là “nhạy cảm”.


“Bà con căn cứ theo bản đồ ngư trường mà Cục Thủy sản Việt Nam công bố và cả kinh nghiệm để ra khơi. Bản đồ chính phủ thì vẫn ghi Hoàng Sa là của Việt Nam, nhưng ngư dân thì đâu dám tới.”


“Các ngư dân Đà Nẵng cũng là người làm thuê thôi, ông chủ tàu thì không có đi, nên ngư dân cũng tránh những vùng bị cho là nhạy cảm.”


“Ngư dân thường tránh ngư trường Hoàng Sa khoảng 15 hải lý. Khi vào từ 15 hải lý trở xuống thì họ sẽ bị tàu Trung Quốc xua đuổi hoặc phát cảnh báo, nên ngư dân không tha thiết gì vào, vì chưa chắc có cá, mà cũng nguy hiểm nữa,” ông Lĩnh nói thêm.


Không những rủi ro bị tàu Trung Quốc tấn công hay xua đuổi, sinh kế của hàng ngàn ngư dân ở Việt Nam còn bị ảnh hưởng trước lệnh cấm đánh bắt cá thường niên của Trung Quốc tại vùng biển phía bắc vĩ tuyến 12 trở lên, từ ngày 1/5 đến 16/8 hàng năm.


image027Chụp lại video. 50 Hải chiến Hoàng Sa: Con gái tử sĩ VNCH nói gì


Lệnh cấm này đã được Bắc Kinh đơn phương ban bố từ năm 1999 đến nay. Bất chấp sự phản đối thường xuyên từ Việt Nam và các nước, Bắc Kinh vẫn không cho thấy bất kỳ sự nhượng bộ nào.


Hội Nghề cá Việt Nam, hiện đã đổi tên thành Hội Thủy sản Việt Nam từ tháng 10/2023, đã nhiều lần đề nghị cơ quan chức năng phải có biện pháp quyết liệt để "bảo vệ an toàn cho ngư dân Việt Nam khi sản xuất trên vùng biển thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán quốc gia".


Ông Lĩnh nói tâm tư của bà con ngư dân Đà Nẵng hiện nay là “không vững tâm vì phải vừa đánh bắt, vừa ngó chừng coi có bị tàu Trung Quốc rượt đuổi hay không, rồi còn phải đi theo đàn cá nữa”.


Ông cũng nhấn mạnh là chính quyền Việt Nam “luôn rất sẵn lòng hỗ trợ bà con về mặt kỹ thuật, kinh tế”. Còn về mặt an ninh, ông cho biết hội có ký hợp đồng với cảnh sát biển, hải quân để khi có nguy cấp thì có thể bảo vệ hoặc ngư dân thấy gì lạ thì báo cho họ.


“Làm nghề biển vừa phải chịu thiên tai với tần suất ngày một nhiều hơn, thời gian để trở về bờ cũng ngày càng dài hơn. Còn thêm nhân tai nữa, đó là sự xua đuổi của Trung Quốc một cách không thể lường trước được. Có thể thấy hoàn cảnh ngư dân ngày càng trở nên khó khăn hơn.”


“Cuộc sống mưu sinh buộc họ phải ra đi, không dám đi ra xa, ngư trường thu hẹp lại.


Ngư trường đến mùa khai thác thì Trung Quốc tràn xuống, dùng nhiều tàu, móc lưới nhỏ, đèn cực sáng, làm cho tài nguyên cạn kiệt.”


“Ngư dân không yên tâm vì không biết yên lành được bao nhiêu ngày, bao nhiêu năm.


Cảnh sát biển thì khi ngư dân báo thì chuyện cũng đã xảy ra rồi, lực lượng kiểm ngư thì làm sao lúc nào cũng có mặt cạnh ngư dân được”, ông Lĩnh nói thêm.


Về vấn đề này, ông Thắng cho biết Hội nghề cá Việt Nam “đã động viên bà con phải theo tổ đội, có tổ chức, thường xuyên giữ liên lạc với cơ quan chức năng như đồn biên phòng…”


“Ngư dân đánh cá thì hiện nay đều theo tổ đội, nghiệp đoàn đánh cá địa phương, trong hội có chủ tàu này kia. Bà con đều đa số không hoạt động đơn lẻ.”


“Khi có tổ chức tổ đội thì phải có ý thức bảo vệ nhau, để đảm bảo an toàn trên biển. Dù đi đánh cá theo tổ đội, nhưng cách nhau hàng chục hải lý nên khi chuyện xảy ra cũng đã xảy ra rồi,” ông Thắng chia sẻ.


50 năm Hải chiến Hoàng Sa: 'Vấn đề chủ quyền lãnh thổ không của riêng ai'

image028

Nhận diện dân quân biển Trung Quốc


Chủ tịch Hội Nghề cá Đà Nẵng cũng đề cập đến lực lượng dân quân biển rất đông đảo của Trung Quốc qua các câu chuyện được bà con ngư dân về kể lại.


“Lực lượng này đi có chiến dịch. Hết mùa cấm biển thì lao xuống vùng biển Việt Nam rất đông. Bà con ngư dân mình thấy mà sợ luôn, vì họ đi rất là đông, cả trăm, ngàn tàu và càn quét ngư trường của mình rất dữ dội.”


“Việt Nam không có tổ chức đánh cá như Trung Quốc, chẳng hạn có dân quân biển, cảnh sát biển đi kèm. Ngư dân phải tự lo, thường đi đánh bắt thành các tổ đội, cùng ngành nghề, đi gần nhau, có gì báo cho biên phòng, cảnh sát biển để tiếp ứng. Phần lớn bà con đi đông thì an tâm hơn.”


“Đây là điều mà ngư dân rất quan tâm vì Trung Quốc đánh bắt kiểu tận diệt vậy thì còn cá gì cho mình nữa. Tôi không kết luận được ý này có đúng hay không, nhưng theo tôi âm mưu của Trung Quốc còn là triệt tiêu luôn động lực đánh cá, ý chí của ngư dân mình,” ông Lĩnh nhận định.


Ông Lĩnh nói thêm là ông chỉ biết Việt Nam hiện chỉ có lực lượng tự vệ biển.


“Lực lượng này không có trang bị vũ khí gì, theo tôi biết. Do đó, ngư dân khi bị rượt đuổi thì phải thả bớt cá để nhẹ tàu hơn. Còn về dân quân biển Trung Quốc, tôi nghe bà con kể lại là có súng ống đầy đủ trên đó. Bà con cũng không có ảnh gì chụp về dân quân biển Trung Quốc.”


Ông Nguyễn Việt Thắng, Chủ tịch Hội Nghề cá Việt Nam, nói với BBC thêm về lực lượng này nhưng cho biết đây chỉ là câu chuyện từ ngư dân. Từ vai trò hội của ông thì không nhận được thông tin chính thức nào về lực lượng này.


“Bà con cũng phản ánh chuyện đội tàu dân quân trên biển của Trung Quốc. Theo một số thông tin thì ở Trung Quốc từ Quảng Đông, Quảng Tây trở xuống có 10 cảng, có các đội tàu này, lên đến hàng trăm chiếc, có mã lực lớn, chạy tốc độ cao, 16, 18, 20 hải lý/giờ.”


“Đội tàu này gọi là đội tàu xanh, được sơn xanh, chủ yếu dùng để cản trở ngư dân Việt Nam bắt cá tại các đảo bị Trung Quốc chiếm đóng, tôn tạo. Cho đến nay, chúng tôi chưa có thông tin chính thống về đội tàu này, chỉ bà con ngư dân chứng kiến trên biển và kể lại cho các hội thủy sản địa phương.”


“Nhiều trường hợp bà con phải tránh, hiện chưa có khuyến cáo chính thức và bà con báo với nhau tránh mà thôi. Bà con ngư dân cũng kể lại có những tàu dùng ánh sáng rất lớn, không phải đánh bắt cá vì mục đích kinh tế. Họ án ngữ khu vực rộng lớn. Những con tàu này sau vài ngày hiện diện trên vùng biển đó thì khi bà con ngư dân mình đi đến thì không còn cá nữa,” ông cho biết.


Hạm đội TQ suýt bị Không quân VNCH bắn chìm sau Hải chiến Hoàng Sa


50 năm Hải chiến Hoàng Sa: 'Việt Nam Cộng Hòa đã bị hy sinh'


image030Nguồn hình ảnh, Getty Images. Hình ảnh cho thấy tàu của Trung Quốc mà Philippines cho là "dân quân biển Trung Quốc" gần đảo Thị Tứ trên Biển Đông vào ngày 1/12/2023


Dân quân biển Trung Quốc (People's Armed Forces Maritime Militia - PAFMM) từ lâu là một lực lượng giúp Quân đội Nhân dân Trung Quốc thực thi những tuyên bố chủ quyền trên Biển Đông. Thời điểm lực lượng này được biết đến rộng rãi là từ năm 1950, theo một nghiên cứu năm 2020 từ Rand Corporation.


Trong Hải chiến Hoàng Sa 1974, dân quân biển cũng đóng vai trò quan trọng giúp Trung Quốc đánh bại Việt Nam Cộng Hòa để chiếm toàn bộ quần đảo này.


Một nghiên cứu từ Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế (CSIS) của Hoa Kỳ năm 2021 chỉ rõ: “Nhờ khoảng cách thuận tiện của các tiền đồn Trung Quốc trên quần đảo Trường Sa, các tàu dân quân thường tham gia cùng lực lượng chấp pháp Trung Quốc để chống lại hoạt động đánh bắt và khai thác hydrocacbon (dầu khí) của các quốc gia Đông Nam Á có tranh chấp chủ quyền tại khu vực nằm trong yêu sách đường chín đoạn mơ hồ của Trung Quốc. Với lực lượng dân quân đóng vai bề ngoài là tàu đánh bắt thương mại, Bắc Kinh có quyền phủ nhận trách nhiệm trong khi sử dụng lực lượng này để gây áp lực lên các quốc gia tranh chấp khác với chi phí thấp.”


Giáo sư Alexander L Vuving từ Trung tâm Nghiên cứu An ninh châu Á - Thái Bình Dương (Daniel K. Inouye Asia-Pacific Center for Security Studies) thuộc Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ cho biết lực lượng này nằm trong chính sách ‘tằm ăn dâu’ (‘cắt lát salami’) của Trung Quốc.


Giáo Vuving cho rằng lực lượng này phục vụ cho mục đích của Trung Quốc là không có chiến tranh trên Biển Đông mà thay vào đó dần dần thiết lập những thực tế mới.


“Theo tôi nhận định thì cho đến nay, lợi ích của Trung Quốc là không có chiến tranh ở Biển Đông. Vì 40% lượng hàng hóa xuất nhập khẩu Trung Quốc đi qua con đường hàng hải trên Biển Đông. Hậu quả cuộc chiến tranh trên Biển Đông là khôn lường, không đơn thuần là xung đột Việt Nam và Trung Quốc hay Philippines và Trung Quốc. Đám lửa có thể bùng lên tới mức không ai kiểm soát được.”


“Do đó, chiến lược tốt nhất của Trung Quốc là ‘tằm ăn dâu’, tức là dần dần đẩy đuổi Việt Nam, Philippines… rồi biến thành điều gọi là ‘bình thường mới’, và dần dần ép các nước chấp nhận thực tế mới của Trung Quốc. Đây là chiến lược tương đối hữu hiệu của Trung Quốc.”


“Và trong chiến lược này, Trung Quốc đã sử dụng mọi lực lượng. Đi trên tuyến đầu là hải cảnh (cảnh sát biển), rồi dân quân biển, các loại tàu chấp pháp khác. Hải quân thì ở xa hơn, nằm ở các căn cứ.”


Việt Nam cũng có lực lượng dân quân tự vệ biển, thuộc lực lượng dân quân tự vệ Việt Nam. Lực lượng này được chia thành đại đội, hải đội, tiểu đoàn, hải đoàn.

image032

Theo luật pháp Việt Nam thì dân quân tự vệ biển “là lực lượng thuộc dân quân tự vệ nòng cốt được tổ chức ở cấp xã ven biển, xã đảo và cơ quan, tổ chức có phương tiện hoạt động trên biển để làm nhiệm vụ trên các vùng biển Việt Nam”.


Đánh giá về lực lượng dân quân biển Việt Nam, giáo sư Vuving nói:


“Việt Nam cũng nhìn rõ chiến lược đó của Trung Quốc, cũng sử dụng ‘toàn dân đánh giặc’, ‘chiến tranh nhân dân trên biển’, hải quân không bao giờ đi ra tuyến đầu. Ngoài ra, cho ngư dân ra đánh bắt cá, vừa mưu sinh, vừa bảo vệ chủ quyền. Đây là phương thức của Việt Nam để tránh đụng độ, sử dụng lực lượng phi quân sự để thực thi chủ quyền. Tóm lại, hai lực lượng quan trọng của Việt Nam là kiểm ngư và ngư dân.”


“Dân quân biển Việt Nam không thể nào so với dân quân biển Trung Quốc về sức mạnh được. Việt Nam đang bảo vệ luật pháp quốc tế và cũng để bảo vệ cho mình, do đó là dân quân biển thì không trang bị vũ khí được, chỉ có vũ khí tự vệ ở mức độ nhất định thôi. Thế nhưng, Trung Quốc thì dân quân biển chỉ là vỏ bọc và được trang bị đầy đủ vì Bắc Kinh đang muốn phá vỡ luật pháp quốc tế để áp đặt luật lệ và ý chí của Trung Quốc liên quan đến vấn đề Biển Đông. Đây là sự khác biệt lớn nhất giữa Việt Nam và Trung Quốc”, chuyên gia về an ninh quốc tế nói với BBC.


image034image036Chụp lại video, 50 năm Hải chiến Hoàng Sa: Một lịch sử đầy xung đột


++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++


RFA: Chính phủ cần xây đài tưởng nhớ; VOA: Kiện: Trương Nhân Tuấn: “Bất lợi”; Cựu chiến binh HQ-10: “Vô ích”


RFA
18/1/2024


https://www.rfa.org/vietnamese/news/vietnamnews/independent-ngos-urge-vietnam-to-build-monument-for-paracels-01182024041602.html


image037Người dân Hà Nội tưởng niệm liệt sỹ Hoàng Sa trong ngày 19/01/2017. AFP


Các tổ chức xã hội dân sự (XHDS) độc lập yêu cầu chính quyền Việt Nam ghi sự kiện Trung Quốc cưỡng chiếm Hoàng Sa từ tay Việt Nam Cộng Hoà 50 năm trước vào lịch sử của dân tộc, đồng thời xây đài tưởng nhớ.


Tuyên bố về 50 năm ngày Hoàng Sa bị Trung Quốc cưỡng chiếm được các tổ chức như Câu Lạc bộ Lê Hiếu Đằng, Lập quyền dân, Diễn đàn Bauxite Việt Nam… công bố vào ngày 15/01, bốn ngày trước ngày tưởng niệm trận hải chiến Hoàng Sa, trong đó 74 quân nhân Việt Nam Cộng Hoà tử trận và bị Trung Quốc chiếm giữ quần đảo này từ đó tới nay.


Tuyên bố nhắc lại khi đó Hoàng Sa thuộc quyền quản lý của Chính phủ Việt Nam Cộng Hoà và Bắc Kinh đã lợi dụng cuộc nội chiến ở Việt Nam để sử dụng vũ lực chiếm đoạt quần đảo.


Theo tuyên bố, Trung Quốc là phía xâm lược còn các quân nhân của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) đã hy sinh trong trận chiến chống quân xâm lược. Do vậy, họ nên được vinh danh như những anh hùng của dân tộc và Việt Nam cần phải công nhận sự cống hiến xương máu của họ trong việc bảo vệ chủ quyền quốc gia.


Nhà nghiên cứu Nguyễn Khắc Mai, cựu Trưởng ban Nghiên cứu - Ban Dân vận Trung ương, nhắc lại quan điểm này trong cuộc phỏng vấn trả lời Đài Á Châu Tự Do (RFA) ngày 18/01:


Tất cả mọi người Việt Nam yêu nước hy sinh để bảo vệ chủ quyền đất nước của mình thì phải được tưởng nhớ phải được tôn vinh. 74 người chiến sĩ hy sinh ở Hoàng Sa cũng thế thôi, cũng trong tinh thần như vậy.”


image039Biểu tình chống Trung Quốc ở thành phố HCM ngày 10/6/2018 (AFP)


Trên các tờ báo Nhà nước những ngày gần đây rất ít tin về sự kiện 50 năm ngày mất Hoàng Sa, nếu có thì chỉ vài bài nói về việc chính quyền địa phương thăm hỏi những nhân chứng - là những quân dân cán chính VNCH từng làm việc trên quần đảo Hoàng Sa.


Nhà nước Việt Nam chưa bao giờ thừa nhận sự hy sinh của họ một cách chính thức và tổ chức tưởng niệm ngày này, ngược lại khi người dân tổ chức tưởng niệm trong nhiều năm trước đây thường bị sách nhiễu, đàn áp.


Ông Lê Thân- chủ nhiệm Câu Lạc bộ Lê Hiếu Đằng, cho rằng Hà Nội nên đối xử bình đẳng với tất cả những người đã ngã xuống trong mọi cuộc chiến bảo vệ chủ quyền quốc gia.


Nhà nước Việt Nam cần vinh danh những người lính tử trận ở Hoàng Sa và các liệt sỹ chống Trung Quốc ở biên giới phía Bắc, cũng như 64 liệt sỹ Gạc Ma- những người đã bị hải quân Trung Quốc sát hại khi cưỡng chiếm thực thể này ở quần đảo Trường Sa năm 1988.


Tuyên bố cũng kêu gọi Nhà nước cần truyền thông rộng rãi cho nhân dân, đặc biệt là các thanh thiếu niên luôn luôn ghi nhớ việc Bắc Kinh vi phạm luật pháp quốc tế trong vấn đề Hoàng Sa.


Trong tuyên bố này, các tổ chức và các nhân sỹ ký tên đề nghị chính quyền tiếp tục đấu tranh kiên quyết, bền bỉ bằng mọi hình thức, biện pháp với Trung Quốc nhằm đòi lại Hoàng Sa.


Ông Nguyễn Khắc Mai, đại diện cho tổ chức Lập quyền dân ký trong tuyên bố, nói:


Tiếng nói của chúng tôi là chắc chắn chỉ là một nhóm nhưng mà nó cũng tiêu biểu cho một cái tinh thần hiểu biết và trách nhiệm công dân của mình đối với đất nước với tổ quốc Mà 50 năm đã qua, nhân dân thì yêu cầu đảng cầm quyền và Nhà nước có nhiều hoạt động mạnh mẽ hơn, quyết liệt hơn, tất nhiên là hòa bình thôi


Nhưng mà phải đưa nó ra thành ra luật pháp quốc tế kêu gọi thế giới nó phân tích nó phê phán nó ủng hộ mình và nó lên cái cuộc xâm lược đấy của Trung Quốc. Phải coi trọng đấu tranh bảo vệ chủ quyền ở Hoàng Sa bằng tư pháp, luật pháp và dư luận quốc tế.”


Theo ông, Nhà nước Việt Nam phải có những cái tuyên bố rõ ràng, mạnh mẽ về vấn đề này và tranh thủ sự ủng hộ của dư luận quốc tế, chứ không lên tiếng một cách máy móc và hời hợt như trong nhiều thập niên qua.


Tôi chỉ hy vọng là Nhà nước phải coi trọng nhiều các hoạt động luật pháp và dư luận hơn nữa về vấn đề bảo vệ chủ quyền của ta ở Hoàng Sa, đặc biệt là cho ngư dân tiếp tục ra ngư trường Hoàng Sa để đánh bắt và để khẳng định chủ quyền của mình ở đấy,” nhà nghiên cứu 92 tuổi ở Hà Nội nói.


Sau khi xâm chiếm Hoàng Sa, năm 1988, Trung Quốc lại xua quân đánh chiếm Gạc Ma ở quần đảo Trường Sa. Trong nhiều năm gần đây, Bắc Kinh đã cải tạo và biến các đảo chiếm được từ Việt Nam thành những căn cứ quân sự, uy hiếp các đảo và cả đất liền của Việt Nam.


Ông Lê Thân đề nghị chính quyền, ngoài việc cố gắng giữ nguyên hiện trạng, bên cạnh đó cần tiếp tục đấu tranh pháp lý để khẳng định "Hoàng Sa là của Việt Nam" và để đến thời cơ chính muồi "cũng chỉ có thể lấy lại bằng vũ lực chứ không có cách gì khác.”


Trong thập niên trước, nhiều cuộc biểu tình xảy ra ở Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng và một số địa phương khác phản đối Trung Quốc xâm phạm chủ quyền biển đảo của Việt Nam ở Biển Đông.


Trong các dịp tưởng niệm ngày mất Hoàng Sa (19/1) hay Gạc Ma (14/3), nhân sỹ trí thức và người dân thường tập trung ở tượng đài Lý Thái Tổ ở trung tâm Hà Nội hay tượng đài Đức Thánh Trần ở thành phố HCM để tưởng niệm.


Tuy nhiên trong nhiều năm gần đây, bên cạnh việc hàng trăm người bất đồng chính kiến bị bắt giam, thì lực lượng an ninh cũng thường ngăn chặn khiến các cuộc tưởng niệm công khai, đông người không thể diễn ra. Do vậy, các tổ chức XHDS kêu gọi người dân thực hành việc tưởng niệm các liệt sỹ Hoàng Sa theo cách của riêng mình.


Ông Lê Thân nói:


Trong điều kiện này cũng khó tập trung thì mỗi người tự làm một phút mặc niệm trong cái ngày 19/1 để tưởng nhớ 74 người anh hùng đã hi sinh vì Tổ quốc. Cái đó động viên tạo ra một phong trào để động viên cho thế hệ trẻ cũng như nhắc nhở bà con mình về ccuộc chiến ở Hoàng Sa.”


image041Người dân Hà Nội tham gia một cuộc biểu tình tại Hồ Gươm chống Trung Quốc với biểu ngữ “Sang năm tới Hoàng Sa” hồi năm 2016 (AFP)


Nhà nghiên cứu Trương Nhân Tuấn ở Pháp cho rằng tuyên bố trên của các tổ chức và nhân sỹ rất đáng được trân trọng. Ông cho rằng Hà Nội phải có một động thái mạnh, như long trọng ra một tuyên bố trước quốc dân đồng bào cũng như trước cộng đồng quốc tế. Mục đích để cho tranh chấp vẫn còn tồn tại và Việt Nam luôn quan tâm đến việc giành lại các vùng lãnh thổ đã mất của mình.


Nội dung của tuyên bố này tố cáo Trung Quốc đã vi phạm luật pháp quốc tế và Hiến chương Liên Hiệp quốc khi sử dụng vũ lực để xâm chiếm Hoàng Sa từ Việt Nam.


Tuyên bố cũng cần đưa ra các chứng cứ lịch sử và các cơ sở pháp lý để chứng minh Việt Nam có chủ quyền tại hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa; đồng thời vận động cộng đồng quốc tế ủng hộ mình trong nỗ lực đòi lại công lý.


Theo ông, việc xây dựng đài liệt sỹ Hoàng Sa hay viết lại lịch sử sẽ không đủ để Việt Nam thuyết phục được cộng đồng các quốc gia trên thế giới nhìn nhận và ủng hộ chủ quyền của mình trên quần đảo Hoàng Sa.

image043image045image048

++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++


Trương Nhân Tuấn: “Bất lợi nếu kiện về hải phận”


VOA 17/1/2024

image049

Bất lợi nếu kiện về hải phận


Tuy nhiên, nhà nghiên cứu kỳ cựu Trương Nhân Tuấn ở Pháp bình luận với VOA rằng Việt Nam khó có thể kiện Trung Quốc về bất cứ điều gì liên quan đến Hoàng Sa và Trường Sa.


Trước hết, nhà nghiên cứu này lưu ý rằng “điều kiện tiên quyết” trong thủ tục kiện tụng ở các tòa án quốc tế về chủ quyền ở một vùng lãnh thổ có tranh chấp là “phải có sự đồng thuận giữa hai bên tranh chấp”.


“Tức là nếu Trung Quốc không đồng thuận thì sẽ không có vụ kiện. Ngoài ra, Trung Quốc còn có những bảo lưu pháp lý, theo đó, họ loại trừ các phương cách giải quyết tranh chấp chủ quyền lãnh thổ và phân định biển bằng trọng tài hay bằng một tòa án quốc tế”, ông Tuấn cho hay.


“Về tranh chấp hải phận, Việt Nam không thể đệ đơn nhờ một tòa quốc tế nào đó, như Tòa án Quốc tế về Luật Biển (ITLOS) hay Tòa Công lý quốc tế (ICJ) để phân xử, vì TQ đã bảo lưu, không chấp nhận phương cách giải quyết tranh chấp bằng trọng tài”, nhà nghiên cứu này nói thêm.


Ngoài ra, ông Tuấn chỉ ra rằng hai nước đã ký kết “Thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển Việt Nam-Trung Quốc”, theo đó, các tranh chấp giữa hai bên trên Biển Đông sẽ được hai bên giải quyết “thông qua hiệp thương hữu nghị”. Như vậy, Trung Quốc có thể vin vào điều ước này để ngăn cản Hà Nội kiện Bắc Kinh trước một tòa quốc tế, về bất cứ nội dung nào, ông Tuấn nhận định.


Một vấn đề nữa, theo ông Tuấn, là Việt Nam có thể vướng “estoppel”, tức nguyên tắc “không được nói ngược”, do hậu quả từ công hàm ngày 14/9/1958 do cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng ký. Phía Trung Quốc từng nhiều lần dẫn ra công hàm như là bằng chứng cho thấy Việt Nam đã công nhận chủ quyền của Trung Quốc tại Hoàng Sa và Trường Sa.


Nhà nghiên cứu ở Pháp nhấn mạnh rằng Việt Nam gặp bất lợi và có thể thấy rằng vì điều đó mà họ đã “im lặng” trước công hàm của Trung Quốc đề ngày 17/4/2020 gửi Ủy ban ranh giới thềm lục địa thuộc LHQ.


Công hàm này có đoạn nói rằng chủ quyền của Trung Quốc đối với Hoàng Sa và Trường Sa - mà Bắc Kinh đặt tên là Tây Sa và Nam Sa - “được cộng đồng quốc tế công nhận rộng rãi” và “chính phủ Việt Nam cũng đã công nhận nó một cách rõ rệt”. Công hàm của Trung Quốc cũng một lần nữa viện dẫn công hàm do Thủ tướng Việt Nam Phạm Văn Đồng ký năm 1958.


Tập quán quốc tế nhìn nhận sự im lặng của một quốc gia trước một vấn đề buộc quốc gia đó phải lên tiếng như là sự “đồng thuận mặc nhiên”, nhà nghiên cứu Trương Nhân Tuấn lưu ý.


Liên hệ đến việc Việt Nam đã im lặng từ 4 năm nay trước một vấn đề thuộc chủ quyền lãnh thổ bắt buộc quốc gia phải lên tiếng, ông Tuấn cho rằng “Việt Nam đã mặc nhiên nhìn nhận những cáo buộc của Trung Quốc theo nội dung công hàm 17/4/2020 là đúng, không có điều gì phải bàn cãi”.


Con đường khác: vận động pháp lý


Theo ông Tuấn, do những điều nêu trên, Việt Nam chỉ có thể đơn phương kiện Trung Quốc về một số vấn đề liên quan đến việc giải thích và cách áp dụng Luật Biển mà thôi, nhưng với điều kiện không bị vướng “estoppel”.


Cụ thể về Hoàng Sa, Việt Nam có thể kiện Trung Quốc theo phương pháp mà Philippines đã kiện và nhận được phán quyết của Tòa Trọng tài Thường trực (PCA) hồi năm 2016, ông Tuấn chỉ ra.


Đi vào chi tiết, ông nói rằng dựa trên Phụ lục VII của UNCLOS (Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển), Việt Nam có thể đơn phương kiện, không nhằm mục đích thắng thua, mà chỉ yêu cầu tòa phán quyết liệu cách áp dụng Luật Biển của Trung Quốc ở khu vực Hoàng Sa có phù hợp với Luật Biển hay không.


“Việt Nam có thể vận dụng một dụng cụ pháp lý, kiểu ‘không kiện mà thắng kiện’, để giảm thiểu những tai hại từ công hàm 1958, hay từ những yêu sách phi lý về ranh giới, hải phận, về quyền lịch sử của Trung Quốc tại Biển Đông. Đó là phương cách vận động thủ thuật ‘actio popularis’ để có một phán quyết có hiệu lực bắt buộc cho tất cả các bên ‘erga omnes’”, ông Tuấn gợi ý.


“Actio popularis” là một thuật ngữ Latin chuyên ngành luật nói về sự tham gia tố tụng của một bên thứ ba trong tranh chấp giữa hai bên. “Erga omnes” có thể hiểu là một phán quyết có giá trị phổ quát toàn cầu.


Theo nhà nghiên cứu ở Pháp, cách vận động này “không có thua mà chỉ có từ thắng cho đến hòa” song vấn đề đặt ra là “Việt Nam có đủ uy tín ngoại giao để làm được việc này hay không?”.


Nhiều nước chung lợi ích


Ông Tuấn phân tích rằng "actio popularis" là một "dụng cụ" pháp lý, có thể sử dụng đơn phương, tức một quốc gia, hay đa phương, nhiều quốc gia, với mục đích đưa một vấn đề trước một trọng tài quốc tế nhằm bảo vệ "lợi ích" chung của các quốc gia này. Hệ quả của "actio popularis" có thể là một phán quyết có giá trị "erga omnes", tức là có hiệu lực pháp lý bắt buộc chung cho các bên.


Một loạt quốc gia gồm Mỹ, Anh, Đức, Pháp, Nhật, Úc và các nước thuộc khối ASEAN có "lợi ích chung" ở Biển Đông, như "quyền tự do hàng hải và không lưu" ở đó, ông Tuấn chỉ ra. Quyền này hiện đang bị Trung Quốc đe dọa, qua việc xây dựng và quân sự hóa các đảo ở Trường Sa, chưa kể đến tham vọng của nước này muốn lập Vùng nhận dạng phòng không (ADIZ) ở Biển Đông.


Mặt khác, các nước trong khu vực gồm Việt Nam, Philippines, Malaysia, Brunei, Indonesia… chịu chung mối đe dọa của Trung Quốc với các yêu sách phi lý về biển đảo ở Biển Đông, vẫn theo quan sát của nhà nghiên cứu.


“Nếu ngoại giao của Việt Nam có uy tín và bản lĩnh, Việt Nam có thể vận động các quốc gia này hợp nhau lại, đứng tên chung, cùng đệ đơn lên Tòa Công lý quốc tế, yêu cầu Tòa ra phán quyết rằng phán quyết của Tòa Trọng tài Thường trực (PCA) có giá trị pháp lý ràng buộc ‘erga omnes’ cho tất cả các bên”, ông Tuấn nhận định.


“Làm được điều này, Việt Nam không kiện mà thắng kiện. Việt Nam vượt qua mọi trở ngại đến từ Công hàm 1958 hay vấn đề ‘estoppel’.


Hệ quả phán quyết sẽ giảm đến mức tối đa các yêu sách của Trung Quốc tại Biển Đông”, nhà nghiên cứu nhấn mạnh.


++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++


Cựu chiến binh HQ-10 VNCH: Chưa thấy có phương án, cơ hội nào để đòi lại Hoàng Sa


VOA 19/01/2024


https://www.voatiengviet.com/a/cuu-chien-binh-tau-hq-10-vnch-chua-thay-co-phuong-an-co-hoi-nao-de-doi-lai-hoang-sa/7446575.html


image051Một số cựu chiến binh VNCH từng tham chiến ở Hoàng Sa thăm Nhà trưng bày Hoàng Sa, Đà Nẵng, 18/1/2024 (ảnh: Mai Kỳ).


Một đoàn cựu chiến binh Việt Nam Cộng Hòa trong hải chiến Hoàng Sa cách đây 50 năm và thân nhân của một số tử sỹ tới thăm Nhà trưng bày Hoàng Sa ở Đà Nẵng vào sáng 18/1/2024. Cựu thủy thủ Trần Văn Hà nói với VOA rằng ông rất xúc động khi xem các hiện vật, tư liệu, ngoài ra, ông cũng chia sẻ là chưa thấy có cơ hội nào để đòi lại quần đảo đã bị Trung Quốc chiếm.


VOA được biết đoàn khách đặc biệt này gồm 5 cựu binh Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) trực tiếp tham gia trận hải chiến tại quần đảo Hoàng Sa ngày 19/1/1974 và 4 người con của những người lính đã hy sinh trong trận này. Tiến sĩ Lê Tiến Công, Giám đốc Nhà trưng bày Hoàng Sa đồng thời là Chánh Văn phòng Ủy ban Nhân dân huyện đảo Hoàng Sa, đã tiếp đoàn.


Cách đây tròn nửa thế kỷ, Trung Quốc đã điều nhiều tàu tiến hành cưỡng chiếm những đảo thuộc quyền kiểm soát của VNCH ở quần đảo Hoàng Sa. Hải quân VNCH đã chống trả nhưng không giữ được. Trong trận hải chiến này, 74 quân nhân VNCH tử trận. Trung Quốc kiểm soát Hoàng Sa từ đó đến nay.


VNCH ở miền nam Việt Nam chấm dứt tồn tại từ ngày 30/4/1975 sau khi quân đội của Việt Nam cộng sản chiếm Sài Gòn, giành thắng lợi chung cuộc trong Chiến tranh Việt Nam. Từ năm 1976, nước Việt Nam thống nhất có tên chính thức mới là Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.


Chính quyền CHXHCN Việt Nam kể từ đó nhiều lần lên tiếng khẳng định chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa ở Biển Đông, bao gồm cả việc lập các đơn vị hành chính hay đặt tên đường phố ở Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng…, nhưng chưa có hành động pháp lý cụ thể nào để đòi lại Hoàng Sa.


Với cuộc thăm hôm 18/1/2024, đây là lần đầu tiên các cựu thủy thủ VNCH Trần Văn Hà, tàu HQ-10; Lữ Công Bảy, tàu HQ-4; Trịnh Văn Quý, tàu HQ-4; Nguyễn Văn Sáu, tàu HQ-4; và Huỳnh Đắc Lộc, tàu HQ-16, tức những nhân chứng quan trọng, đến Nhà trưng bày Hoàng Sa, sau 50 năm nổ ra trận hải chiến.


Cùng đi thăm là những người con của các tử sỹ Nguyễn Thành Trí, Đỗ Văn Long, Lương Thanh Thú và Đinh Văn Thực.


Nhà trưng bày là nơi đưa ra những bằng chứng về chủ quyền, lãnh thổ của Việt Nam và cả những chứng tích về cuộc cưỡng chiếm của Trung Quốc. Bên cạnh đó, nơi này cũng lưu giữ nhiều kỷ vật các lính thủy VNCH, là đồng đội hoặc cha anh của các thành viên trong đoàn.


Ông Trần Văn Hà, thủy thủ cơ khí trên tàu HQ-10, 1 trong 4 tàu của VNCH tham chiến, nói với VOA: “Rất là xúc động. Rất cảm ơn anh em Ban tổ chức cho tôi có điều kiện trở lại chiến trường xưa, xem những hiện vật, những gì của Việt Nam mình hiện giờ rơi vào tay của Trung Cộng”.


Chuyến thăm của đoàn do chương trình mang tên Nhịp Cầu Hoàng Sa tài trợ và tổ chức, theo tìm hiểu của VOA. Chương trình này ra đời cách đây 10 năm nhằm tri ân những người lính Việt Nam đã chiến đấu, hy sinh vì tổ quốc, đặc biệt là những người lính đã hy sinh trong hai cuộc hải chiến bảo vệ Hoàng Sa (19/1/1974) và Trường Sa (14/3/1988).


Những người khởi xướng Nhịp Cầu Hoàng Sa là các nhà báo Vũ Kim Hạnh, Nguyễn Thế Thanh, Huy Đức, Nguyễn Thanh Triều, tiến sỹ Nguyễn Thị Hậu và nhà hàng hải học Đỗ Thái Bình.


Đến nay, chương trình đã quyên góp được hơn 12 tỷ đồng, giúp xây mới và nâng cấp 30 căn nhà cho các cựu binh, thân nhân các gia đình tử sỹ Hoàng Sa; các cựu binh và thân nhân các gia đình liệt sỹ Gạc Ma (Trường Sa) …


Ngoài cuộc thăm nhà trưng bày kể trên, những ngày này, như VOA đã đưa tin, xuất hiện nhiều bài và ảnh trên mạng xã hội cho thấy có những người Việt thực hiện các việc làm khác nhau để tưởng niệm ngày Hoàng Sa bị mất vào tay Trung Quốc.


Cựu chiến binh Trần Văn Hà đưa ra suy nghĩ về vấn đề này: “Chúng ta cần tổ chức nhiều cuộc gặp gỡ hơn, tìm hiểu nhiều hơn. Trong anh em của tôi thời đó, hiện giờ những người còn sống sót, trong những cuộc gặp mặt thế này chỉ có một mình tôi. Mình thấy nó quá mỏng đi. Chúng ta phải có ngân sách hoặc quỹ nào đó để tìm kiếm thêm và họp mặt dày đặc hơn thì có thể nhắc nhở được [về lịch sử]”.


Mỗi năm, đến dịp tưởng niệm sự kiện Hoàng Sa, lại có những lời kêu gọi chính phủ nước CHXHCN Việt Nam chính thức ghi công cho các tử sĩ VNCH trong trận hải chiến. Đáng chú ý nhất trong các tiếng nói đó là lời kêu gọi của cựu Thứ trưởng Ngoại giao Nguyễn Đình Bin đưa ra hồi tháng 3/2022.


Cựu lính thủy VNCH Trần Văn Hà nói với VOA rằng ông có cảm nhận là “khó thúc đẩy” vấn đề này và chỉ ra rằng các hoạt động tưởng niệm mới chỉ là do các hội, nhóm tổ chức chứ chưa có quy mô “rộng rãi”.


Về vấn đề đại sự là liệu Việt Nam có đòi lại được Hoàng Sa từ Trung Quốc không, ông Hà chia sẻ nhận định cá nhân về một tương lai mờ mịt: “Tôi nghĩ chưa có phương án nào đâu. Mặc dù mình khẳng định đó là của Việt Nam, tôi ở trong nước, tôi cảm nhận chính phủ chưa có thái độ hay hành động gì đòi lại Hoàng Sa cho Việt Nam mình”.


Vẫn cựu chiến binh của VNCH nhận xét thêm rằng việc kiện Trung Quốc ra tòa quốc tế cũng “vô ích” và ông dẫn ra kết quả vụ kiện của Philippines là Tòa Trọng tài Thường trực quốc tế ra phán quyết năm 2016 bác bỏ cơ sở pháp lý cho đường 9 đoạn của Trung Quốc ở Biển Đông, song không có cơ quan nào cưỡng chế thi hành án.


Theo quan sát của VOA, ở thời điểm sáng 19/1/2024, trang web Báo Điện tử Chính phủ và trang Facebook Thông tin Chính phủ của chính phủ Việt Nam đều không đăng bài viết hay hình ảnh nào về sự kiện 50 năm Hoàng Sa bị Trung Quốc chiếm.


++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++


Chủ quyền Hoàng Sa và luật pháp quốc tế


image053Nguồn hình ảnh, Getty Images. Tiến sĩ Trịnh Khắc Mạnh thuộc Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, một cơ quan thuộc chính phủ Việt Nam, giới thiệu bản đồ liên quan tới quần đảo Hoàng Sa trong một sự kiện vào tháng 6/2014


  • Tác giả, Thái Văn Cầu
  • Vai trò, Viết cho BBC từ Hoa Kỳ
  • BBC 20/1/2024


Chính phủ Việt Nam cần chọn giải pháp nào cho vấn đề Hoàng Sa ngoài những tuyên bố ngoại giao? Từ Hoa Kỳ, nhà khoa học không gian Thái Văn Cầu gửi cho BBC News Tiếng Việt bài viết dưới đây.


Người viết đã có nghiên cứu về hành xử chủ quyền Hoàng Sa-Trường Sa (chủ quyền) của Việt Nam qua các thời đại, từ vua chúa nhà Nguyễn đến khi đất nước thống nhất, và về tư cách quốc gia của Việt Nam trong thời gian chiến tranh. Nghiên cứu cho thấy học giả phương Tây có lập luận khác nhau về hai đề tài này.


Tiêu biểu cho nhóm có lập luận dựa trên chứng cứ lịch sử và luật pháp quốc tế, thuận lợi cho Việt Nam, là Monique Chemillier-Gendreau, Bill Hayton; tiêu biểu cho nhóm có lập luận dựa trên thông tin không rõ ràng, đầy đủ, chính xác, thuận lợi cho Trung Quốc, bất lợi cho Việt Nam, là Marwyn Samuels, Greg Austin.


Theo Google Scholar, sách của Samuels và Austin được trích dẫn 491 lần ở phương Tây trong hàng chục năm qua nhưng không có phản biện nghiêm túc từ Việt Nam.


Để bù đắp cho khoảng trống này, bài viết này tập trung đánh giá về một số lập luận sai lầm của Austin, chủ yếu dựa vào Samuels. Bài cũng nhận định về giới hạn của phản đối ngoại giao, biện pháp thường được sử dụng trong tranh chấp chủ quyền.


Biển Đông yên tĩnh từ ngàn xưa cho đến thế kỷ 20. Trong nửa đầu thế kỷ 20, đã có những trao đổi ngoại giao về chủ quyền, phần lớn giữa chính quyền Pháp và Trung Hoa.


Tình hình thay đổi khi Trung Hoa trở thành nước cộng sản năm 1949.


Tại Hội nghị San Francisco năm 1951, đề nghị của Liên Xô để Nhật Bản trao chủ quyền cho Trung Quốc bị 48 nước trong 51 nước tham dự hội nghị bác bỏ. Thủ tướng Quốc gia Việt Nam Trần Văn Hữu tuyên bố chủ quyền trước toàn thể hội nghị, với sự hiện diện của các nước lớn Anh, Pháp, Mỹ, và Liên Xô; không nước nào phản đối.


Theo hiệp ước ký ở hội nghị, Nhật Bản từ bỏ mọi yêu sách chủ quyền.


Khi Pháp rời Việt Nam sau Hiệp định Genève 1954, lợi dụng khoảng trống quyền lực, Trung Quốc đưa quân chiếm giữ những đảo phía đông Hoàng Sa năm 1956; Đài Loan đưa quân chiếm giữ đảo Ba Bình thuộc quần đảo Trường Sa.


Đầu tháng 6 năm 1956, Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam Cộng Hòa Vũ Văn Mẫu lên tiếng khẳng định chủ quyền.


image055Nguồn hình ảnh, Getty Images. Cụm Lưỡi Liềm (Nguyệt Thiềm) thuộc quần đảo Hoàng Sa, nơi xảy ra trận hải chiến vào năm 1974


Sau khi Mỹ rời Việt Nam sau Hiệp định Paris 1973, một lần nữa lợi dụng khoảng trống quyền lực, Trung Quốc dùng vũ lực đánh chiếm toàn bộ quần đảo Hoàng Sa ngày 19 tháng 1 năm 1974, khiến 75 chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) hy sinh.


Cuối thập niên 1980, khi Liên Xô, đồng minh then chốt của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (VNDCCH) trong hai cuộc chiến tranh nhiều năm trước đấy, thay đổi chính sách đối ngoại, chủ trương không can thiệp, Trung Quốc đi bước kế tiếp trong chiến lược Biển Đông: đánh chiếm một số đảo đá ở Trường Sa ngày 14 tháng 3 năm 1988, khiến 64 chiến sĩ Quân đội Nhân dân Việt Nam hy sinh.


1. Lập luận sai lầm của Austin


Austin đưa ra các lập luận chính sau:


Công hàm 1958 của Thủ tướng VNCDCH Phạm Văn Đồng công nhận chủ quyền của Trung Quốc, và vì Việt Nam là kế thừa của VNDCCH, Việt Nam bị estoppel về chủ quyền.


Vì sự thụ động của phong kiến Trung Hoa về hành xử chủ quyền từ thế kỷ 13 cho đến thế kỷ 19, Trung Hoa đánh mất chủ quyền Hoàng Sa có từ trước. Vì sự thụ động của Pháp và Việt Nam trong 30 năm đầu thế kỷ 20, Việt Nam đánh mất chủ quyền Hoàng Sa có từ năm 1816.


Trong nghiên cứu của người viết, các chứng cứ sau được nêu lên:


Theo Hiệp định Genève năm 1954, hành xử chủ quyền thuộc VNCH, chính quyền phía nam vĩ tuyến 17.


Đầu năm 1957, Liên Xô đề nghị Liên Hợp Quốc (LHQ) thu nhận VNDCCH và VNCH làm thành viên. Đề nghị không thành nhưng trong gần 20 năm kế tiếp, lần lượt hơn 120 nước thành viên LHQ, bao gồm Liên Xô, Trung Quốc và Mỹ, công nhận có hai Việt Nam, hội đủ những quy định về tư cách quốc gia trong Công ước Montevideo năm 1933: VNCH và Cộng hòa Miền Nam Việt Nam (CHMNVN) ở phía nam, VNDCCH ở phía bắc vĩ tuyến 17.


CHMNVN và VNDCCH sáp nhập thành một Việt Nam thống nhất năm 1976. Theo luật pháp quốc tế, vì VNDCCH không phải là quốc gia có tranh chấp chủ quyền với Trung Quốc trong giai đoạn 1954-1976, không hành động nào của VNDCCH có thể ảnh hưởng đến chủ quyền của VNCH và CHMNVN.


Sau khi sáp nhập, Việt Nam chọn hành xử chủ quyền của VNCH và CHMNVN, thể hiện trong công hàm Đại sứ Hà Văn Lâu gửi LHQ năm 1979.


Các chứng cứ trên bác bỏ lập luận của Austin về Công hàm 1958 và estoppel (không được nói ngược).


image057Nguồn hình ảnh, AFP. Công hàm Phạm Văn Đồng đã để lại nhiều hệ lụy trong lập luận về chủ quyền đối với Việt Nam


Cũng trong nghiên cứu của người viết, các chứng cứ sau được nêu lên:


Theo nguồn tài liệu cổ của Việt Nam và của phương Tây, Việt Nam hành xử chủ quyền ở Hoàng Sa muộn nhất là từ thời chúa Nguyễn đầu thế kỷ 17. Năm 1816, vua Gia Long tuyên bố chủ quyền Hoàng Sa.


Theo Trung Quốc, năm 1883, nhà Thanh “phản đối” nhóm khảo sát Hoàng Sa-Trường Sa của Đức khiến họ phải ngưng. Thực tế là nhóm này khảo sát Hoàng Sa, không phải Trường Sa, và họ đã công bố kết quả cuộc khảo sát.


Năm 1898, chính quyền Quảng Châu lại nói do Hoàng Sa là “đất không chủ”, họ không có trách nhiệm về vụ cướp phá hai tàu ngoại quốc bị đắm ở Hoàng Sa của ngư dân Trung Quốc.


Theo Trung Quốc, năm 1909, quan chức hải quân nhà Thanh đến thăm Hoàng Sa trong một ngày để “xác nhận” chủ quyền. Thực tế là triều đình nhà Nguyễn hành xử chủ quyền Hoàng Sa cho đến giữa thế kỷ 19 thì đất nước đối diện với chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp. Hoàng Sa hầu như bị quên lãng cho đến thập niên 1920.


Theo Trung Quốc, năm 1921, chính quyền Quảng Đông tuyên bố sáp nhập Hoàng Sa vào đảo Hải Nam. Thực tế là chính quyền Quảng Đông không được chính quyền trung ương của Trung Hoa hay các nước lớn công nhận.


Năm 1925, sau khi Thượng thư Bộ Binh (tương đương với bộ trưởng Bộ Quốc phòng ngày nay) Thân Trọng Huề của nhà Nguyễn xác nhận chủ quyền Hoàng Sa, Toàn quyền Đông Dương tuyên bố chủ quyền.


Theo luật pháp quốc tế, sự kiện triều đình nhà Nguyễn dưới sự đô hộ của thực dân Pháp không tích cực hành xử chủ quyền Hoàng Sa trong một thời gian không cấu thành yếu tố Hoàng Sa bị Việt Nam từ bỏ chủ quyền.


Các chứng cứ trên bác bỏ lập luận của Austin về Việt Nam mất chủ quyền vì sự thụ động của Pháp và Việt Nam trong 30 năm đầu thế kỷ 20.


2. Giới hạn của phản đối ngoại giao trong tranh chấp


Trong khoảng 10 năm nay, qua người phát ngôn chính phủ và qua công hàm gửi LHQ, Việt Nam và Trung Quốc đã có hàng chục lần lên tiếng phản đối các hoạt động của nhau trên Biển Đông. Do tầm quan trọng của nó, giới hạn của phản đối ngoại giao (phản đối) là điều rất cần được xem xét.


Trước thế kỷ 20, ngoài việc dùng vũ lực hay chiến tranh để cản trở chiếm giữ hay giành lại đất đai bị chiếm giữ bởi nước khác, phản đối là biện pháp cuối cùng để bảo vệ chủ quyền trong tranh chấp.


Sau khi Tòa án Thường trực Công lý Quốc tế được thành lập năm 1920, và nhất là sau khi tòa án này được thay thế bởi Tòa án Công lý Quốc tế, cơ quan tài phán thuộc LHQ năm 1945, điều này không còn đúng.


Trong hơn 50 năm qua, chuyên gia phương Tây (Levi Carneiro, D. H. N. Johnson, Yehuda Z. Blum, v.v.) đã nói về biện pháp kế tiếp sau phản đối: sử dụng hệ thống tòa án quốc tế để giải quyết tranh chấp. Nếu không, theo họ, với thời gian, phản đối sẽ trở thành “phản đối giấy”, “phản đối hình thức”, “vô dụng”, v.v. Khi một nước chỉ dùng biện pháp phản đối trong tranh chấp, chủ quyền đất đai bị nước khác chiếm giữ có khả năng mất hẳn.


Tại hội thảo quốc tế ở Đà Nẵng vào tháng 6 năm 2014, đã có ít nhất hai tham luận đề nghị Việt Nam sử dụng hệ thống tòa án quốc tế. Dù Trung Quốc không đồng ý tham gia, đây là bước cần thiết trong giải quyết tranh chấp chủ quyền với Trung Quốc.


Tham luận 1, của Jerome A. Cohen, giáo sư Khoa Luật Đại học New York, có đoạn:


“Bằng cách bác bỏ phán quyết khách quan của những định chế đối với tất cả các tranh chấp và nhấn mạnh vào đàm phán song phương như là phương tiện duy nhất để giải quyết những tranh chấp mà họ công nhận, Trung Quốc, quốc gia mạnh hơn nhiều so với bất cứ nước láng giềng Đông Nam Á nào, đang tìm cách tận dụng lợi thế có được trong quyền lực chính trị, kinh tế và quân sự của họ và giảm thiểu sự thích đáng của luật pháp quốc tế.”


Tham luận 2, của người viết, có đoạn:


“Khi sử dụng luật pháp quốc tế để giải quyết tranh chấp Biển Đông với Trung Quốc, Việt Nam không chỉ giải quyết vấn đề chủ quyền lãnh hải giữa riêng hai nước mà còn giúp mang lại an ninh và ổn định cho tất cả các nước phụ thuộc vào giao thông hàng hải ngang qua một khu vực quan trọng hàng đầu thế giới. Cách hành xử như trên chứng minh mạnh mẽ cho thế giới thấy rằng Việt Nam là một nước tôn trọng luật pháp và có trách nhiệm với cộng đồng quốc tế.”


Trong giai đoạn 1947-1923, đã có hơn 190 tranh chấp giữa các nước được đưa ra Tòa án Công lý Quốc tế. Hơn 10 năm trước, chính quyền Nhật Bản và Philippines đã công khai kêu gọi Trung Quốc để hệ thống tòa án quốc tế đưa phán quyết trong tranh chấp.


image059Một tuyên bố phản đối hoạt động của Trung Quốc tại quần đảo Hoàng Sa được đăng trên website Chính phủ Việt Nam


Tóm lại, do giới hạn của phản đối trong 100 năm qua, đặc biệt là sau khi LHQ thành lập cơ quan tài phán sau Thế chiến II, sử dụng hệ thống tòa án quốc tế là biện pháp hòa bình cuối cùng để Việt Nam thể hiện sự tin tưởng vào công lý, sự tin tưởng vào bản lãnh, quyết tâm của chính mình, và để Việt Nam thoát khỏi cái bẫy “thời gian” của Trung Quốc trong nỗ lực bảo vệ chủ quyền, bảo vệ quyền lợi đất nước.


Trong 2.000 năm qua, đất nước nhiều lần phải đối diện với tham vọng bành trướng và xâm lược của phong kiến Trung Hoa. Khó khăn, thử thách gấp nhiều lần hơn so với khó khăn, thử thách trong tranh chấp Biển Đông, nhưng tiền nhân đã vượt qua được. Vì thế, giải quyết tranh chấp qua hệ thống tòa án quốc tế là trách nhiệm của chính quyền hôm nay, 50 năm kể từ khi Trung Quốc chiếm giữ toàn bộ quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam.


Nó không thể là trách nhiệm của thế hệ mai sau, như lập luận một số người đưa ra.


Bài viết thể hiện góc nhìn của tác giả Thái Văn Cầu, nhà khoa học không gian từ Hoa Kỳ.


++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++


Carl Thayer: VN có thể làm gì với vị thế là nước yếu hơn?


image061Giáo sư Carl Thayer là nhà quan sát chính trị Việt Nam lâu năm


BBC 19/1/2024


https://www.bbc.com/vietnamese/articles/cv2j2y6m1rro


Sau chuyến thăm của Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình vào tháng 12/2023, các chuyên gia cho rằng các nhà lãnh đạo Việt Nam cần học cách cân bằng giữa hợp tác và đấu tranh bảo vệ chủ quyền.


Hợp tác là xu thế chung hiện nay và việc Việt Nam tăng cường hợp tác với Trung Quốc là điều tất yếu. Tuy nhiên, chủ quyền quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa luôn là vấn đề nhức nhối lâu dài trong quan hệ song phương giữa hai nước.


Trao đổi với BBC News Tiếng Việt tại nhà riêng ở Úc, giáo sư danh dự về chính trị tại Đại học New South Wales, Carl Thayer, cho rằng trận hải chiến ngày 19/1/1974 đánh dấu bước đi đầu tiên trong hành động quyết đoán và đưa ra yêu sách chủ quyền trên toàn bộ Biển Đông của Trung Quốc.


Theo các sử liệu mà ông dẫn chứng, nếu nhìn lại 50 năm trước, sẽ thấy đó là bước đầu tiên của quá trình xâm lược thực sự của Trung Quốc, thông qua việc sử dụng vũ lực dưới mức lực lượng vũ trang, sẽ thấy chính VNCH đã nổ súng trước, giúp Trung Quốc củng cố luận điệu rằng họ chỉ phản công và tự vệ.


“Cũng từ đó dẫn đến việc [Trung Quốc] mở rộng và xây dựng các căn cứ ở Hoàng Sa, mà ngày nay chúng ta thấy đã mở rộng sang quần đảo Trường Sa,” nhà quan sát chính trị Việt Nam lâu năm cho biết.


Thế lưỡng nan của chính phủ Việt Nam


Đã 50 năm trôi qua nhưng mức độ thông tin về Hải chiến Hoàng Sa vẫn hết sức hạn chế trong hệ thống giáo dục và báo chí ở Việt Nam. Trong khi đó, những người Việt Nam ở hải ngoại và một bộ phận trong nước coi sự hi sinh của hơn 70 người trong Hải chiến Hoàng Sa là đáng được tôn vinh.


Nhà nghiên cứu độc lập Song Phan từ Sydney cho rằng tiền thân của nhà nước Việt Nam hiện nay là Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa vốn trước đây đã có thái độ lập lờ trong vấn đề chủ quyền Hoàng Sa. Theo ông, những sách giáo khoa, bản đồ in hình Hoàng Sa cho Trung Quốc và công hàm của Thủ tướng Phạm Văn Đồng gửi Thủ tướng Chu Ân Lai năm 1958 đã gây ra những hệ lụy khó sửa chữa trong vấn đề Hoàng Sa.


Bắc Kinh tới nay vẫn sử dụng thư của ông Phạm Văn Đồng gửi Chu Ân Lai năm 1958, nói đây là chứng cứ Việt Nam từ bỏ chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cho Trung Quốc.


“Có lẽ vì thế nên chính phủ Việt Nam dè dặt đối với các phát ngôn có thể làm vị thế phe mà họ từng cho là tà ngụy có thể tỏa sáng hơn mình trong vấn đề bảo vệ chủ quyền vốn là vấn đề thiêng liêng đối với dân tộc,” ông Song Phan nói với BBC.


image063Chụp lại video, 50 năm Hải chiến Hoàng Sa: Việt Nam có thể làm gì với vị thế là nước yếu hơn?


Việc đề cao vai trò của VNCH với tư cách là nhà nước có chủ quyền tại Hoàng Sa và tôn vinh binh sĩ VNCH có vẻ có lợi cho lập trường chủ quyền của Việt Nam, nhưng điều đó có thể ảnh hưởng tới tính chính danh của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trong công cuộc mà họ gọi là chống Mỹ cứu nước và giải phóng miền Nam.


“Việt Nam thích nêu bật thành tích do lực lượng cộng sản thực hiện, và chính phủ hiện nay không muốn thừa nhận vai trò của những con rối của Mỹ, hay chế độ kẻ thù, trong vấn đề này [chủ quyền]”, Giáo sư Carl Thayer nhận định.


“Đối với bất kì một người khách nào đến Việt Nam như tôi, đều sẽ thấy rằng tinh thần chống Trung Quốc trên Biển Đông luôn âm ỉ, và có thể dâng cao mạnh mẽ như 2014, khi Việt Nam nổ ra các cuộc biểu tình, sau đó dẫn tới việc các nhà máy Trung Quốc bị đốt phá,” ông chia sẻ.


Ông Thayer cho rằng chính quyền hiện nay bắt đầu có sự thừa nhận miễn cưỡng, bằng chứng là vào năm 2014, kỷ niệm 40 năm Hải chiến Hoàng Sa, truyền thông Việt Nam đã được phép đưa tin về trận chiến. Thêm vào đó, ngày càng có nhiều học giả nói Việt Nam không còn chia cắt mà đã thống nhất rồi, phải ghi nhận những người này là liệt sĩ đã hy sinh để bảo vệ chủ quyền của Việt Nam.


“Chính phủ muốn thao túng và kiểm soát tinh thần dân tộc, hơn là đối mặt với tinh thần độc lập dân tộc từ người dân.”


“Và đó là thế lưỡng nan đối với chính phủ trong việc làm thế nào để dung hòa lòng dân với nỗ lực kiểm soát mối quan hệ với Trung Quốc của chính họ," giáo sư Carl Thayer kết luận.


image065Các nhà hoạt động đặt hoa tưởng niệm tại Hà Nội vào ngày 19/1/2017, trong một cuộc biểu tình kỷ niệm 42 năm Hải chiến Hoàng Sa


Việt Nam có thể làm gì?


Từ 1974 trở đi, Trung Quốc bắt đầu thành lập các khu hành chính để quản lý và ban lệnh cấm đánh cá hàng năm được áp dụng từ vĩ tuyến 16 trở lên ở Biển Đông.


Trong khoảng 20 năm trở lại đây, tình hình ở khu vực trở nên bất ổn, thường có tin ngư dân Việt Nam bị phía Trung Quốc truy đuổi khi đánh bắt cá gần quần đảo Hoàng Sa, hay như các sự kiện giàn khoan Hải Dương 981, các vụ căng thẳng khác giữa tàu bè của hai nước…


Và cho tới tận ngày nay, khi Chủ tịch Tập Cận Bình thăm Việt Nam vào tháng 12/2023 và trao đổi với ông Nguyễn Phú Trọng thì vấn đề Biển Đông vẫn là vướng mắc chính trong mối quan hệ.


Giáo sư Carl Thayer cho rằng nếu Việt Nam im lặng và chấp nhận những gì Trung Quốc đang làm và những điều khác thì sau này Trung Quốc có thể tranh luận rằng Việt Nam đã không phản đối, do đó Việt Nam đã chấp nhận luật của chúng tôi, và chấp nhận rằng những ngư dân này đang đánh bắt cá bất hợp pháp. Ông nhấn mạnh rằng thực tế không phải là như vậy.


Cũng theo ông, cách tiếp cận Việt Nam cần chú trọng là phải tiếp tục phản đối.


“Đối với mọi hành vi mà Trung Quốc khiêu khích hoặc thực hiện, Việt Nam đều phải đưa ra tuyên bố ngoại giao hoặc khiếu nại với Trung Quốc để chứng minh rằng Việt Nam không chấp nhận những yêu sách và khẳng định của Trung Quốc."


image067Ngư dân ở đảo Lý Sơn, Quảng Ngãi đang sửa lưới đánh bắt cá


Nhà nghiên cứu Song Phan nói với BBC rằng, so về thực lực, Việt Nam không thể sánh được với Trung Quốc về mọi mặt, do đó có vẻ ngoài cách tiếp cận pháp lý, Việt Nam hầu như khó có lựa chọn nào khác.


“Luật quốc tế hiện đại không còn thừa nhận việc thụ đắc lãnh thổ bằng vũ lực nên đây là một điểm yếu về mặt pháp lý của Trung Quốc về chủ quyền đối với Hoàng Sa, nhất là với cụm đảo phía tây mà họ rõ ràng đã giành lấy được thông qua sử dụng vũ lực năm 1974. Do đó, đây chắc chắn là một điểm mà Việt Nam cần khai thác trong tuyên truyền và trong đấu tranh bằng pháp lý cho chủ quyền Hoàng Sa,” ông Song Phan nêu ý kiến.


Nhưng cũng theo ông, ngay cả trong cách tiếp cận pháp lý, Việt Nam cũng không thể đưa ra vấn đề về giải quyết chủ quyền (trong tranh chấp chủ quyền tòa án quốc tế chỉ có thể thụ lý những vụ hai bên đều thừa nhận có tranh chấp và cùng đồng ý đưa ra tòa) mà chỉ có thể làm tương tự như cách Philippines đã làm, chẳng hạn nhờ tòa tái xác nhận tính vô hiệu của đường lưỡi bò phần phía Việt Nam, khẳng định các thực thể địa lý ở Hoàng Sa chỉ là các đảo đá không có vùng đặc quyền kinh tế, khẳng định vùng biển Hoàng Sa là ngư trường truyền thống của ngư dân Việt Nam… tức là những vấn đề chỉ liên quan đến việc giải thích và áp dụng UNCLOS.


“Nếu được tòa xử thắng như Philippines trong những vấn đề trên chẳng hạn (mà tôi tin khả năng thắng rất cao), thì Việt Nam có cơ sở pháp lý mạnh mẽ hơn để đấu tranh và tranh thủ sự ủng hộ quốc tế mỗi khi Trung Quốc xâm phạm các quyền trên biển của mình như trong vụ đặt giàn khoan năm 2014, các vụ khảo sát địa chất năm 2019, 2020, các vụ quấy rối thăm dò, khai thác ở khu vực bãi Tư Chính mấy năm gần đây, các vụ hiếp đáp ngư dân thường xuyên ở khu vực Hoàng Sa…”


Tuy nhiên, nhà nghiên cứu này cũng nhấn mạnh rằng hiện nay và có vẻ trong tương lai, Việt Nam bị ràng buộc rất sâu đậm với Trung Quốc, nhất và về chính trị và kinh tế, nên việc chọn thời điểm để thực hiện lựa chọn pháp lý này cũng là điều cần cân nhắc cẩn thận vì nguy cơ bị trả đũa với tác động xấu khó lường.


“Các cách nói 'giành lại Hoàng Sa' hay 'đòi lại Hoàng Sa' chỉ là những khẩu hiệu nhắc nhở các thế hệ người Việt Nam hết đời này sang đời khác khắc ghi rằng Hoàng Sa là một phần lãnh thổ của cha ông để lại mà họ có nhiệm vụ phải tìm cách khôi phục lại dù cho đến chừng nào, chứ khó có thể có tính thiện thực ngay cả trong một tương lai không gần,” ông Song Phan đánh giá.


++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++


image069Vị trí quần đảo Hoàng Sa, đảo Hải Nam và Vịnh Bắc Việt. Hải đồ của VHO.


50 năm Hải chiến Hoàng Sa: Một lịch sử đầy xung đột


BBC 17/1/2024


Quần đảo Hoàng Sa được Việt Nam tuyên bố chủ quyền nhưng lại đang nằm dưới sự quản lý của Trung Quốc.


Trong suốt thế kỷ 20 và những thập niên đầu thế kỷ 21, nơi đây là tâm điểm của nhiều xung đột giữa Việt Nam và Trung Quốc.


Trong đó, trận hải chiến Hoàng Sa vào năm 1974 là một dấu mốc quan trọng, khi Trung Quốc hoàn thành việc chiếm hữu trên thực tế đối với quần đảo này sau một trận chiến ngắn ngủi với Việt Nam Cộng Hòa.


Trận hải chiến cách đây 50 năm đã giúp Trung Quốc tạo lập những “tiền đồn” vững chắc, từ đó đẩy mạnh các yêu sách của họ trên Biển Đông. Cũng từ đó, Biển Đông trở thành một trong những tâm điểm dễ phát sinh xung đột nhất.


Video do Khoa Trần thực hiện.


50 năm Hải chiến Hoàng Sa: Mao Trạch Đông, Chu Ân Lai đã hành động như thế nào?


image071Nguồn hình ảnh, Getty Images. Mao Trạch Đông gặp các "đồng chí" Lê Đức Thọ và Nguyễn Duy Trinh vào năm 1973, một năm sau thì Trung Quốc đánh Hoàng Sa


BBC 17/1/2024


Trung Quốc đã chuẩn bị gì cho Hải chiến Hoàng Sa 1974 mà họ gọi là “Tự vệ Phản kích Tây Sa”? Báo nhà nước Trung Quốc tiết lộ hành động của các lãnh đạo Bắc Kinh quanh thời điểm quan trọng này.


Lúc 10 giờ sáng ngày 18/1/1974, khi Mao Trạch Đông còn chưa thức giấc, một văn bản đã được đặt ngay ngắn trên bàn làm việc của ông. Đó là bản báo cáo do Thủ tướng Chu Ân Lai và Phó chủ tịch Quân ủy Trung ương Diệp Kiếm Anh ký, tường trình tình hình Hoàng Sa và kế hoạch “bảo vệ” quần đảo này.


Liên tục trong một tuần trước đó, căng thẳng Hoàng Sa leo thang không chỉ trên bình diện ngoại giao mà cả trên thực địa.


Thức dậy, Mao vừa xem báo cáo, vừa “chìm sâu vào suy nghĩ”, trong đó là cả một đoạn sử về giằng co chủ quyền Hoàng Sa từ khi Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa lập quốc cho tới những diễn biến vừa qua. Với Mao, quyết định lần này không chỉ có ý nghĩa với riêng Trung Quốc mà còn vì “ổn định thế cục thế giới”.


Nghĩ đến đấy, Mao bèn cầm bút phê lên hai chữ: “Đồng ý”, đoạn nói: “Xem ra không đánh một trận thì không bảo vệ được quyền và lợi ích của Trung Quốc trên biển”.


Đó là cách tờ báo chính thức của Đảng Cộng sản Trung Quốc mô tả quá trình phê duyệt đề xuất đánh Hoàng Sa của Mao.


image073Nguồn hình ảnh, GETTY IMAGES. Trang tuyên truyền của TQ ca ngợi Mao Trạch Đông đặt ra mục tiêu phát triển Hải quân Quân Giải phóng


Hải chiến Hoàng Sa là trận chiến với nước ngoài đầu tiên trong lịch sử hiện đại của hải quân Trung Quốc. Đó cũng là trận đánh cuối cùng do Mao Trạch Đông quyết định.


Khi ấy Mao giữ chức Chủ tịch Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc và đã 81 tuổi, độ tuổi mà ông tự trào là sắp phải “đi gặp Marx”.


Sau khi được Mao đồng ý, Chu Ân Lai cùng bộ sậu Quân ủy Trung ương lên phương án tác chiến.


Sáng sớm ngày 19/1, tiểu tổ lãnh đạo được thành lập gồm 5 thành viên: Diệp Kiếm Anh, Đặng Tiểu Bình, Vương Hồng Văn, Trương Xuân Kiều, Trần Tích Liên. Tô Chấn Hoa được bổ sung sau đó, thành ra 6 người.


Theo đề xuất của Chu Ân Lai thì Diệp Kiếm Anh và Đặng Tiểu Bình đại diện đảng phụ trách chính, lập tức sang Bộ Tác chiến Bộ Tổng tham mưu chỉ đạo.


Chu Ân Lai gọi điện cho Diệp Kiếm Anh, nói ngắn gọn: “Anh giữ quyền phụ trách. Hãy đến Bộ Tổng tham mưu để chỉ huy tác chiến.”


Đặng Tiểu Bình lúc bấy giờ vừa trở lại chính trường sau khi bị ép lao động cải tạo ở Giang Tây. Đặng là một trong những nạn nhân của Đại Cách mạng Văn hóa do Mao Trạch Đông khởi xướng.


Trưa cùng ngày, trận chiến chính thức nổ ra.

image075

Theo tờ Nhân Dân nhật báo, trong lúc chiến sự diễn ra, không khí tại Bộ Tác chiến Bộ Tổng tham mưu “có phần căng thẳng”: trong khi Diệp Kiếm Anh không ngớt hỏi tình hình tiền tuyến thì Đặng Tiểu Bình hút thuốc “hết điếu này sang điếu khác”.


Đến 2 giờ chiều, tin thắng trận báo về, Diệp được mô tả là đã phấn khích hô lên liên tiếp “đánh hay lắm”, còn Đặng hít sâu một hơi thuốc trước khi dập điếu rồi nói với Diệp: “Ta đi ăn cơm thôi”.


Sau thắng lợi ban đầu, Đặng và Diệp, với sự ủng hộ của Mao, lệnh Quân khu Quảng Châu đánh chiếm tiếp ba đảo Hoàng Sa (Trung Quốc gọi là San Hô), Hữu Nhật (Trung Quốc gọi là Cam Tuyền) và Quang Ảnh (Trung Quốc gọi là Kim Ngân). Lý do, theo truyền thông nhà nước Trung Quốc, là để “dạy cho quân xâm lược Nam Việt một bài học”.


Khoảng nửa năm sau Hải chiến Hoàng Sa, tháng 7/1974, Mao Trạch Đông được chẩn đoán mắc chứng xơ cứng teo cơ một bên (ALS), khiến cơ thể mất từ từ khả năng điều khiển vận động. Đó chỉ là một trong số nhiều bệnh mà Mao đã mang sẵn từ trước.


Sau khi Mao chết năm 1976, Đặng Tiểu Bình trở thành lãnh đạo tối cao của Trung Quốc, dẫn dắt công cuộc cải cách và mở cửa kinh tế của nước này.


Tuy lập trường chính thức của Trung Quốc trong giai đoạn đó là “gác lại vấn đề chủ quyền, cùng nhau phát triển”, nhưng dưới thời Đặng, quân Trung Quốc và Việt Nam còn một lần nữa chạm trán trong Hải chiến Gạc Ma 1988.


Hải chiến Hoàng Sa 1974 đánh dấu một trong những bước quan trọng để từ đó Trung Quốc đẩy mạnh chiến lược bành trướng trên Biển Đông.


Đây cũng là thời điểm mang tính bước ngoặt trong lịch sử phát triển hải quân của Trung Quốc thời hiện đại, từ chỗ “hầu như không có khả năng chiến đấu trên biển” trở thành một trong những lực lượng hải quân hàng đầu thế giới.
10 Tháng Mười Hai 2023(Xem: 466)
CỘNG ĐỒNG BẮC KINH - HÀ NỘI - VIÊN CHĂN - NAM VANG
23 Tháng Chín 2023(Xem: 2113)
Reuters: “Việt Nam sắp sửa mua vũ khí sát thương của Mỹ”