Nguyễn Nhã: Nhớ ngày Hoàng Sa 19/1/1974. / Lý Kiến Trúc: Xuân Giáp Ngọ biết chúc Biển Đông những gì…
++++++++++++++
Xin
gửi bài viết “Nhớ Ngày Hoàng Sa 19/1” kèm theo Thơ Hịch Biển Đông và Kế sách
Cứu Nước được thi hóa thành Kinh Thư. Rất mong được bạn gửi tới 10 người, trong
đó ít nhất 1 blog, 1 website.
Cùng nhau nhé!
www.hannguyennguyennha.com
Blog/Hãn Nguyên Nguyễn Nhã Foundation
NHỚ NGÀY HOÀNG SA 19 THÁNG 1
Hãn Nguyên Nguyễn Nhã, tiến sĩ sử học
Thắm thoát đã 40 năm rồi! Tôi còn nhớ như ín đúng ngày mùng Ba Tết, tôi đang chúc tết ở nhà Giáo sư Nguyễn Đăng Thục, tác giả tác phẩm Tư Tưởng Việt Nam, nguyên Khoa trưởng (Hiệu Trưởng) Trường Đại Học Văn Khoa Sàigòn, tôi nghe Đài phát Thanh Sàigòn đưa tìn Trung Quốc dùng vũ lực đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa, thú thật tôi thật sự xúc động.
Thật sự tôi cũng không hiểu tại sao tôi lại xúc động đến như thế.Bởi một người nghiên cứu lịch sử như tôi đã được rèn luyện tinh thần khách quan khoa học về những biến cố lịch sử mới có thể tiếp cận được sự thật lịch sử.Khi triệu tập một số người trong Ban biên tập thông qua ý kiến chuẩn bị một số Tập San Sử Địa đặc khảo về Hoàng Sa & Trường Sa thì cũng đã có người nêu ý kiến rằng Tập San Sử Địa phải giữ tính khách quan khoa học, đừng đưa vấn đề thời sự chính trị vào Tập san nghiên cứu, nhất là lại đưa ra một số báo nói về vấn đề thời sự chính trị như thế. Có người viện dẫn các báo, đài đang hàng ngày nêu lên trang báo tít lớn vấn đến thời sự “hải chiến Hoàng Sa”.
Tôi cũng liên tưởng ngay đến có lần một vị giáo sư dạy tôi về phương pháp sử học, tuy có khen nội dung các số tạp san đã xuất bản song đã phê bình lời lẽ thiếu khách quan trong Lá thư Tòa soạn mà chính tôi đã viết, mang tinh thần dân tộc, tinh thần yêu nước .Tôi nghĩ vị giáo sư khả kính ấy rất có lý, nhất là trong không khí học thuật ở Miền Nam lúc bấy giờ, tính thần “ phi chính trị” rất cao, song tôi không trả lời vị giáo sư ấy mà chỉ ậm ừ cho phải phép. Thật sự lúc bấy giờ tôi đã không”lý luận lý trí” mà chỉ “lý luận con tim”. Con tim có lý của nó, vậy thôi !
Trong buổi họp Ban Biên tập, tôi chỉ lắng nghe và tôi tuyên bố tôi sẽ suy nghĩ để quyết định như các số chủ đề khác, Lúc bấy giờ tôi cũng biết một số người thân thiết với “ Mặt Trận” trong đó có nhà biên khảo Đông Tùng, tên thật là Nguyễn Tư Hồng gốc Nghệ An, đã bị bắt đầy ra Côn Đảo; năm 1963 khi Chính quyền TT Ngô Đình Diệm bị đổ, ông mới được thả. Chính ông đã nhiều lần thuyết phục tôi rằng hiện Tập San Sử Địa rất có uy tín về học thuật, các cơ quan nhà nước từ Phủ quốc Vụ Khanh đặc trách Văn Hóa, Bộ Ngoại Giao, Bộ Thông Tin… đang nhập cuộc nghiên cứu về vấn đề Hoàng Sa, nếu Tập san ra số chủ đề không ra gì, sẽ mất uy tín. Tôi cũng chỉ ậm ừ, không trả lời, song trong bụng tôi lại thấy tự ái dâng trào, tôi lại quyết làm để xem ai hơn ai. Và con tim tôi đã thắng lý trí, tôi đã âm thầm gửi thư riêng đến các học giả ở trong và ngoài nước. Thật không ngờ chỉ trong ba thàng, nội dung có thể tạm hoàn thành một số đặc khảo về Hoàng Sa& Trường Sa.
Song, lý trí của tôi lại buộc tôi suy nghĩ, tôi quyết định không ra ngay số đặc khảo để bị mang tiếng là tham gia vào thời sự chính trị, mà sẽ ấn hành vào dịp kỷ niệm một năm mất Hoàng Sa. Thế là được mọi người tán đồng , nhất là có thêm thời giờ để làm cẩn thận hơn, nhất là về tôi có 4 bài viết trong đó có bài tham gia với tên Hoàng Việt Sơn trong bài Thư mục chú giải của Nhóm các anh Nguyễn Văn Hường, Lâm Vĩnh Thế, Nguyễn Nhật Tấn, Trần thế Đức ( về chuyên môn phải để là thư tịch mới đúng).
Ngày 20 tháng 1 năm 1975, kỷ niệm 1 năm thất thủ chứ không phải kỷ niệm Chiến thắng ngày 19/1, khi Trung Quốc dùng võ lực chiếm toàn bộ quần đảo Hoàng Sa, với tính cách Trưởng Ban tổ chức, tôi phát biểu giới thiệu GS Trần Văn Quế, đại diện 5 vị Quốc lão chủ tọa( trong đó có Nhà thơ yêu nước Á Nam Trần Tuấn Khải) phát biểu khai mạc Triển lãm Sử liệu minh chứng chủ quyền của Việt Nam tại Hoàng Sa và ấn hành Tập San Sử Địa số 29, đặc khào về Hoàng Sa& Trường Sa tại Thư Viện Quốc Gia, tôi quá xúc động khiến mọi người ôm nhau khóc ròng như Nhật Báo Sóng Thần hồi ấy đã đưa tin.
Cũng từ đó, không biết bao lần, tôi cứ nghẹn ngào rơi lệ khi có ai nhắc đến ngày 19/1. Ngay ngày 16/8/ 2012 khi tôi tham gia hội thảo tại Đại Học Harvard về Biển Đông do Hội Sinh viên Việt Nam tại Vùng Boston mở rộng tổ chức, khi nghe một vị nữ tiến sĩ Việt Nam hỏi các diễn giả về sự kiện Hoàng Sa ngày 19/1, tôi đã xúc động mà trả lời rằng câu hỏi của bạn đã làm nhói trái tim tôi và sau tôi được đọc một bài viết của một bạn trẻ với bài “ Một Tiến sĩ sử học đã rơi lệ trên đất nước Mỹ”. Bạn trẻ sinh viên du học ấy cũng nói rất cảm động và tự thấy xấu hổ chưa làm được gì cho Đất nước.
Ngày 21/12/ 2013 vừa qua khi tôi nói chuyện về Chủ quyền VN tại Hoàng Sa & Trường Sa qua Hồ sơ tư liệu bằng tiếng Anh hơn 500 trang đã được hoàn chỉnh mà chưa có phương tiện phổ biến trên thế giới tại Đại học Melbourne ( Úc ), ngay khi tôi mở đầu buổi nói chuyện rằng vừa rồi xem Đoạn Video clips về Hải chiến Hoàng Sa do Đài Đồng Nai ở trong nước vừa mới phát, tôi lại liên tưởng đến câu chuyện kể trong một bàn ăn sau buổi nói chuyện về Hoàng Sa của Hội Kỹ Thuật Kinh Tế Biển TP.HCM tổ chức, một sĩ quan hải quân có thuật lại rằng sau ngày Trung Quốc chiếm Hoàng Sa, TRUNG QUỐC có tổ chức một buổi liên hoan chào mừng “Chiến Thắng Tây Sa”, đã mời Đoàn hải quân VNDCCH lúc đó đang có mặt ở Hải Nam.
Đoàn có đánh điện về cấp trên rằng sẽ không tham dự. Cấp trên hỏi sao lại không tham dự thì Đoàn trả lời “Không muốn vỗ tay”.
Nhắc đến người Việt Nam bất cứ chính kiến nào cũng như thế, tôi lại nghẹn ngào rơi lệ. Cuối buổi nói chuyện một nữ du học sinh ờ Úc cũng lên phát biểu nhận xét về không khí vừa sôi nổi vừa quá khích gay gắt của một số cử tọa và đã ôm lấy tôi mà khóc.
Và không hiểu tại sao ngay giờ này đây, viết đến đây nước mắt tôi cũng đang dàn dụa, nghẹn ngào!
Rôi nghĩ nước mắt nghẹn ngào cho sự kiện ngày 19/1, ngày Hoàng Sa biết đâu sẽ làm cho người Việt Nam ở trong và ngoài nước , nhất là các bạn trẻ sẽ bừng tỉnh rằng suốt thế kỷ XX Việt Nam là nạn nhân của Thời cuộc quốc tế!
Có lẽ lý lẽ con tim của một người công dân Việt Nam như tôi đã được tôi trình bày vào Ngày 18 tháng 1 năm 2003, khi tôi bảo vệ Luận án tiến sĩ:” Quá trình xác lập chủ quyền của Việt Nam tại hai quần đảo Hoàng Sa&Trường Sa, tôi đã phổ biến một bản văn bản:”Thử đặt Vấn đề Hoàng Sa dưới góc độ học thuật”, tôi kêu gọi các nhà nghiên cứu trên thế giới nhất là những nhà nghiên cứu, giới học thuật ở Trung Quốc cùng chia xẻ với tôi nguyện vọng đi tìm sự thật lịch sử. Tôi cũng kêu gọi giới trẻ Việt Nam học suốt đời, góp phần phát triển giáo dục đại học Việt Nam ngày càng chất lượng cao hầu xây dựng cho đất nước một nền kính tế tri thức phát triển trong thế kỷ XXI.Tôi cũng kêu gọi mọi người Việt Nam yêu nước ở trong và ngoài nước không phân biệt chính kiến, sắc tộc, tôn giáo, địa phương hãy quên và bỏ qua những hận thù trong quá khứ, hãy hướng về tương lai. Kế thừa truyền thống lấy chữ Tâm làm đầu mà năm 1992 khi làm phim Thăng Long Hà Nội Xưa, tôi cùng GS Trần Quốc Vượng đã khấn trước Đền thờ An Dương Vương ở Cổ Loa rằng “xin Đức Vua phù hộ cho sự hòa giải, hòa hợp dân tộc thực sự”. Tôi cũng nhắc qua một món nợ khác mà tôi phải trả là đem âm nhạc dân tộc, đem hát thơ vào trường học để giáo dục cho các thế hệ trẻ vừa để giữ hồn dân tộc, tạo lòng tự hào dân tộc, bỏ đi những xấu xí của người Việt Nam để mở ra một kỷ nguyên mới cho Việt Nam hùng cường.
Nhân ngày kỷ niệm 40 năm Trận hải chiến Hoàng Sa 19/1, ngày Hoàng Sa của người Việt Nam bất cứ ở đâu, tôi xin thắp nén hương dâng lên các liệt sĩ đã bỏ mình trong trận hải chiến Hoàng Sa ngày 19/1/1974 và cũng xin nhắc lại lời nói không bao giờ quên trong nói chuyện cùng với nhà cựu ngoại giao Dương Danh Dy tại trường Đại Học Ngoại Thương tại Hà Nội năm 2011, khi tôi nói bất cứ ai làm cho Đất nước suy hèn đều có tội với Tổ tông và Dân tộc thì một nữ sinh viên đã phát biểu rằng “vậy thì bất cứ ai vô cảm với Hoàng Sa, Trường Sa đều có tội với Tổ tông và Dân tộc”.
Hịch biển Đông
Nội dung "Hịch biển đông" của tác giả Mai Trinh & Hãn Nguyên Nguyễn Nhã sẽ được trình diễn trong đêm hát thơ 19/01/2014 chủ đề: "Hịch Biển Đông & Trường Ca Biển Đông Dậy Sóng.
"Gươm súng treo đầu ngọn sóng.
Đông Hải sục sôi...
Dân Nam sẽ thay Trời hành Đạo
Vì câu Đại Nghĩa Chí Nhân.
Sấm chuyển ngang mày...
Quyết ra tay lèo lái với cuồng phong..."
1
Hỡi Dân Việt hướng Biển Đông
Cùng ASEAN quyết một lòng như Ta
Xứng danh Nam Quốc Sơn Hà
Biển Đông bão chuyển mồ ma nghịch thù
2
Ta nghe tiếng gọi Thiên thư
Khiến ta sôi máu khư khư lời thề
Nước non non nước ngủ mê
Hãy bừng tỉnh dậy xây quê hương mình
3
Làm sao cho biết sự tình
Đâu còn đồng chí như mình tưởng đâu
Thù nhà thù nước từ lâu
Từ năm bẩy chín biết đâu là thù
4
Hội nghị ngày ấy Thành Đô
Người ta lầm tưởng đã mua nước mình
Tưởng ta chịu ép thật tình
Thành khu tự trị, nước mình còn đâu
5
Người Nam ta hãy cùng nhau
Đại Hòa Dân Tộc bỏ đau hận thù
Được như thế sáng suốt ư
Tầm nhìn xa rộng quyết từ ngày mai
6
Rồng thiêng khi đã vươn vai
Trời cao biển rộng sông dài... Hề chi !
Dương vây Đông Hải .. xá gì
Lòng tham giặc cướp Tiểu nhi lắm trò
7
Tép tôm an phận ao hồ
Đừng ra Biển lớn quanh co đắm chìm
Mệnh Trời thấu tỏ cơ duyên
Làm sao xâm lược đảo điên đắc thời!
8
Người đông của cũng dư rồi
Túi tham không đáy hỏi Trời nào dung
Tội vì quen thói tàn hung
Thuồng luồng mà cứ tưởng chừng kình nghê
9
Biển Đông đã sẵn lời thề
Trời cao dăng lưới cá trê chui đầu
Đã vào miệng vực thâm sâu
Đường ra khó thóat khỏi chầu Diêm Vương
10
Đừng quen gieo rắc tai ương
Ngàn năm đô hộ máu xương đã nhiều
Nợ dầy biết trả bao nhiêu
Đừng vây thêm máu, chớ liều! một khi...
11
Nếu còn nhất điểm lương tri
Hãy quay về với đường đi ban đầu
Ghi lòng ngôn trọng Khổng Khâu
"Kỉ Sở Bất Dục.." chắc hầu gì quên?
12
Biển Đông còn khắc tuổi tên
Cát Vàng, Song Tử một nền đấu tranh
Bảo an cương thổ lũy thành
Phải đâu hoang đảo mà tranh chủ quyền
13
Ba trăm năm cũ lưu truyền
Lễ Khao Lề vọng chẳng hiềm bão giông
Máu xương đã thắm non sông
Hiếu trung với nước đã hồng lòng son
14
Sự đời dù bé cỏn con
Ở sao phải đạo “Vuông Tròn” mới hay
Nhớ câu "Hàm huyết ..." xưa nay
"Tiên ô tự khẩu..." người hay dạy người
15
Muốn yên con cháu đời đời
Có ngày mở mặt có thời vẻ vang
Phải nên học cách Dân Nam
Giữ câu Âm Đức kẻo hàng lệ rơi
16
Người người đi ngược đi xuôi
Vẫn không ra khỏi Luật Trời biển dâu
Cho dù hưng thịnh đến đâu
Cũng không tránh khỏi ngày sau lụi tàn
17
Sống cho tử tế đàng hoàng
Bằng không thì cũng lầm than tiêu đời
Nhớ đừng diễu võ dương oai
Tay chân thượng hạ mép dài ngoa ngôn
18
"Đạo huyền vi tựa Thái sơn" *
Cớ sao để thẹn linh hồn cổ nhân
"Bách Gia Chư Tử" tinh thần
Mà nay mang tiếng ngoại xâm, ích gì!
19
Hỏa phong đã nhập can tì
Lửa gian thiêu đốt tham si ngút ngàn
"Hành tương tựu mộc (tác) nhân nan" **
Nhất thời "lưu xú" "uế" ngàn năm sau
20
Vạn sinh thế giới cùng đau
Thế nên đâu để cơ cầu nảy sinh
Vẫn còn pháp trị nghiêm minh
Kiến trong miệng chén miệng bình chẳng lo?!
21
Nước non với bản dư đồ (ai cũng cơ đồ)
Quê hương trách nhiệm chung lo mọi người
Biển Đông còn có đất trời
Không lo quốc nạn có hồi oan gia!
22
Ta nghe Tiếng vọng Sơn hà
"Tầm nhìn xa rộng, âm tà tiêu vong"
Hoàng Sa nào có thay lòng
Nén hương Cố Quốc hoài trông ngày về
23
Thâu đêm quyên dục sang hè
Phải chăng Hồn Nước lê thê gọi hồn
Tiếng đâu sầm sập mưa nguồn
Trái tim không ngủ như còn thở than
24
Hãy bừng tỉnh hỡi Dân Nam
Đồng minh Đồng chí Bạn vàng, liệu thôi!
Xin đừng ảo tưởng xa xôi
Chỉ vì lợi ích một thời... rồi qua!
25
Răng Môi những tưởng thiết tha
Khi không cần nữa chuyển ra oán thù
Đồng minh lợi ích thế cờ
Tướng xe sĩ tốt thí... giờ bỏ rơi...
26
Thế gian hỡi thế gian ơi
Sao không thấy được cõi đời thủy chung
Thôi đừng hoang tưởng viển vông
Hãy bừng tỉnh lại mới hòng đổi thay
27
Hãy xây đất nước hôm nay
Trở thành cường quốc cho ngày xưa qua
Để không hổ thẹn ông cha
Nỗi đau thuộc quốc chỉ là mây tan
28
Biển Đông sóng vỗ ầm vang
Ta nghe Đông Hải xanh ngàn bể dâu
Không cho xử ép - ngẩng đầu
Thành Cường Quốc Biển trước sau Chủ Quyền
29
Sao cho biển đảo đất liền
Ngàn năm còn dấu Rồng Thiêng trở mình
Ngày mai chào đón Bình Minh
Toàn Dân Việt trọn thắm tình Non Sông
30
Hỡi dân Việt hãy đồng lòng
Cùng nhau xây dựng non sông phú cường
Bỏ qua thù hận lẽ thường
Một dàn bầu bí phải thương nhau cùng./
Kế sách cứu nước – xây dựng nội lực đất nước hùng cường thế kỷ XXI
Thông tin liên quan:
Xem toàn bộ TS Nguyễn Nhã gửi đến BVN lá thư ngỏ văn xuôi dưới đây cùng với một bài hát nói và 408 câu thơ lục bát được ông chia thành 12 phần, ông gọi là 12 “hiền kinh quốc đạo”, hy vọng được sử dụng trong ngày giỗ vua Hùng hàng năm. Do khuôn khổ và tính chất của một trang mạng không chuyên văn thơ, chúng tôi xin trân trọng đăng lá thư và bài hát nói của ông, còn 12 “hiền kinh quốc đạo” thì đề nghị ông chuyển thẳng đến Ban tổ chức ngày giỗ vua Hùng để họ nghiên cứu sử dụng.
(Bauxite
Việt
Tôi vốn là nhà sử học nghiên cứu lịch sử Việt Nam với cách nhìn ngàn năm trước
hướng về ngàn năm sau, nhận thấy rằng hiện nay không còn là nguy cơ xâm lược mà
thật sự đã xảy ra xâm lược lãnh thổ ở Biển Đông và xâm lược phá nát kinh tế văn
hóa xã hội Việt một cách thâm sâu chưa từng có.
Song đây lại là thời cơ có một không hai của người Việt chúng ta, xin soạn thảo
kế sách cứu nước và xây dựng nội lực đất nước hùng cường thế kỷ XXI, gửi tới
quý lãnh đạo nhà nước, quý lãnh đạo chính trị, các doanh nhân cũng như toàn
dân. Tôi ước mong tất cả người Việt chúng ta trong và ngoài nước phải bừng
tỉnh, cần có tâm và có tầm, nhất là các bạn thanh niên hãy cương quyết xóa đi
những gì xấu xí của người Việt, quyết bỏ qua một bên và hàn gắn những đau
thương của thế kỷ XX với “một triệu người vui và một triệu người buồn”. Chúng
ta vượt lên chính mình, nỗ lực không ngừng nghỉ xây dựng một nước Việt Nam hùng
cường của thế kỷ XXI, sánh vai với các cường quốc năm châu bốn biển, quyết
không còn là quốc gia bị lệ thuộc, nạn nhân của thời cuộc quốc tế, bị xử ép làm
nhục và bị tụt hậu nữa!
Kế sách này phải là kế sách của toàn dân trước hết là của thanh niên đi tiên
phong trong quá trình đại hòa dân tộc, mỗi người một kế hoạch nhỏ đầy sáng tạo
xây dựng nội lực đất nước hùng cường. Nhà nước là yếu tố quan trọng song nhất
định từ bỏ mọi bao cấp kể cả bao cấp yêu nước.
Kế sách cứu nước này phải kế thừa sự khôn ngoan của cha ông hàng ngàn năm nay
từ tuyên ngôn độc lập “Nam quốc sơn hà Nam đế cư / Tiệt nhiên định phận tại
thiên thư” của Lý Thường Kiệt, “Văn hiến Bắc Nam mỗi nước mỗi khác”
của Bình Ngô đại cáo, Hịch tướng sĩ của Trần Hưng Đạo, lòng nhân ái của Lý
Thánh Tông, Trần Nhân Tông…
Kế sách cứu nước này phải là kế sách đấu tranh ngoại giao hòa bình đa phương
hóa, đa dạng hóa, sử dụng sức mạnh tổng hợp thời đại toàn cầu.
Kế sách cứu nước này phải là chiến lược chứ không phải chỉ là sách lược giai
đoạn, đoàn kết dân tộc, đặt lợi ích dân tộc lên trên hết, huy động lòng yêu
nước toàn dân trong xây dựng nội lực đất nước hùng cường. Các công ty đều lấy
mục tiêu góp phần phát triển đất nước, những gì hại cho quyền lợi đất nước
quyết không làm…
Kế sách cứu nước này phải là kế sách trở về nguồn, giữ gìn bản sắc Việt, tạo
lòng tự hào dân tộc, tự lập tự cường trong lịch sử đấu tranh cũng như trong xây
dựng – xây dựng quốc đạo nhân chủ, thờ Quốc tổ, thờ anh hùng dân tộc. Những
triết lý sống Việt là mẫu số chung của tất cả người ViệtNamkhông phân biệt
chính kiến tôn giáo, địa phương, tạo động lực yêu nước chân chính phát triển
đất nước hùng cường. Như người Nhật đã lấy ngày 31 tháng 12 hàng năm tất cả già
trẻ lớn bé đến đền thờ Thần đạo thì người Việt chúng ta cũng lấy ngày 10 tháng
Ba âm lịch tất cả đều đến đền thờ Quốc tổ, các đình, đền, miếu có biểu tượng
Quốc tổ và anh hùng dân tộc để chiêm bái tỏ lòng đoàn kết dân tộc, quyết tâm
trở về cội nguồn xây dựng đất nước hùng cường.
Kế sách cứu nước này phải là kế hoạch tạo niềm tin, cách mạng văn hóa xã hội,
không được dối trá, nói dối, cùng xây dựng xã hội lành mạnh tử tế, pháp trị.
Kế sách cứu nước phải thật sự coi giáo dục là quốc sách hàng đầu, đẩy mạnh
phong trào thế giới du với hàng trăm ngàn, hàng triệu du học sinh, kể cả các
thầy giáo đi học hỏi thu tóm những tinh hoa hiện đại của thế giới về xây dựng
đất nước hùng cường, phải làm cuộc cách mạng văn hóa giáo dục xây dựng đất nước
hiện đại hùng cường. Phải tạo động lực yêu nước trong đấu tranh và xây dựng,
lấy mối nhục tụt hậu và bị cường quốc láng giềng xử ép, làm nhục làm động cơ
hành động xây dựng đất nước.
Kế sách cứu nước này phải là chiến lược phát triển kinh tế biển, tạo cú hích
cất cánh kinh tế Việt Nam như xây dựng cảng sâu nhất thế giới như cảng Vân
Phong với đường cao tốc xuyên quốc gia không qua đèo nào, đoàn kết với các nước
ASEAN để các nước ASEAN như Lào, Miến Điện, Campuchia, Thái Lan sử dụng.
Kế sách cứu nước ngoài chiến lược lâu dài trên, phải ưu tiên trước tiên tập
trung chiến lược đối phó xâm lược ở Biển Đông với ngoại giao khôn ngoan hòa
bình đa phương, đa dạng, tích cực phòng vệ vững chắc các hải đảo, quốc phòng
toàn dân, mỗi ngư dân là một dân binh.
Phải như Trung Quốc từ trung ương có hẳn một viện nghiên cứu rất lớn về Biển
Đông và nhiều cơ quan trực thuộc trung ương khác từ Viện Khoa học đến Bộ Tư
lệnh Hải quân, cơ quan tình báo, tất cả thường xuyên tiến hành nghiên cứu, biên
soạn tài liệu, tổ chức hội thảo… về chủ quyền biển đảo. Rồi đến các địa phương
cấp tỉnh, mỗi tỉnh ven biển đều có nhiều cơ quan nghiên cứu về biển đảo cũng
như đến các trường đại học, đều tham gia nghiên cứu, quảng bá chủ quyền của
Việt Nam tại Hoàng Sa, Trường Sa và Biển Đông.
Với xâm lăng kinh tế, văn hóa xã hội thì quyết bảo vệ bản sắc Việt, xã hội lành
mạnh, chống văn hóa, giáo dục nô dịch ngoại lai, xây dựng nền kinh tế tự lập tự
cường, không lệ thuộc, đặc biệt cấp tốc bài trừ các hàng Trung Quốc và cách nuôi
trồng Trung Quốc độc hại như rau củ quả, thực phẩm, các gia vị, phẩm màu, các
đồ chơi cùng nhiều hàng hóa khác rất độc hại đang đe dọa đến sự sống còn của
mỗi người Việt Nam, của dân tộc Việt Nam!
Hát nói Chúc mừng năm mới 2013
(Hãn Nguyên Nguyễn Nhã)
Mừng chúc hai ngàn mười ba năm mới
Thế gian này tiến tới bình an
Chẳng còn xử ép nước Nam
Chẳng còn chịu nhục chẳng còn chịu thiệt
Tham lam quá mưu gian chiếm biển
Hung dữ ôi ý định bá quyền!
Việt
Giữ bản sắc giữ hồn thiêng Đất Việt
Giáo dục quốc sách hàng đầu đào tạo nhiều tuấn kiệt
Đưa Việt
Thanh niên rường cột ngày mai
(1/1/2013)
5. KINH THƯ
(KẾ SÁCH CƯU NƯỚC VÀ XÂY DỰNG ĐẤT NƯỚC ĐƯỢC THI HÓA)
1. Rồng Tiên hào khí thâm sâu
Bay lên hòa ánh nhiệm màu rồng thiêng
Soạn ra kế sách dựng nền
Hùng cường dân tộc phất lên ngọn cờ
2. Đại hòa nhân chủ mong chờ
Bốn nghìn năm với giấc mơ cội nguồn
Đàn chim lạc trú muôn phương
Bay về tổ
ấm đạo, đường Việt
3. Sách trời đã dạy ngàn năm
Sơn hà
Rằng cần “thức tỉnh” luôn luôn
Biển Đông sóng lặng nước non mới bền
4. “Tri tân ôn cố” cách nhìn
Nhìn ngàn năm cũ hướng ngàn năm sau
Kỷ nguyên hai mốt khởi đầu
Sẽ là thế kỉ “tiến mau hơn người”
5. Không ngoa ngôn, chẳng quá lời
Bởi càng nguy khốn càng thời cơ ta
Thời cơ lớn chẳng đâu xa
Toàn dân đoàn kết đại hòa mừng thay
6. Nước láng giềng dẫu nghìn tay
Đâu xâm lược nổi xứ này rồng thiêng
Chín điều kế sách thiêng liêng
Góp kinh luân, góp mối giềng cứu xây
7. Nước non bởi nước non này
Của chung chẳng của riêng ai bao giờ
Nào người trọng trách âu lo
Cũng nên cộng sức vô bờ toàn dân
8. Từ thanh niên đến doanh nhân
Đều là rường cột góp phần tương lai
Hãy vì thế giới ngày mai
Vì nòi giống Việt ngang vai với người
9. “Cứu xây” chiến lược lâu dài
Phải đi kịp bước hôm nay sẵn sàng
Cuối đường hầm có “minh quang”
Dẫu gian nan “lửa thử vàng” trái tim
10. Thưa cùng Quốc tổ thiêng liêng
Việt Nam thế kỉ rồng thiêng đây rồi
Bóng đêm tụt hậu xa vời
Tâm và tầm sánh bước người toàn dân
11. Quyết đem đại nghĩa chí nhân
Thắng cường bạo bại hung tàn ngàn năm
Rửa hai mối nhục quyết tâm
Ép ta làm nhục còn thân nỗi gì!
12. Thanh niên ta hãy làm chi
Mỗi người kế hoạch ta thì gắng xây
Việt Nam cường quốc là đây
Còn ai xử ép còn ai coi thường
13. Chín điều kế sách noi gương
Cầm cân nảy mực thành
chương sử vàng
Toàn dân đã quyết lên đàng
Trái tim khát vọng Việt
Nam hùng cường
14. Thanh niên trụ cột mối giường
Nêu cao chính khí, tiền phương một lòng
Hùng tâm nhiệt huyết thủy
chung
Quyết đem tuổi trẻ đáp cùng non sông
15. Đại hòa là bước tiên phong
Có hồn dân tộc tô hồng nắng mai
Đi lên những bước anh tài
Phát huy nội lực tương lai mạnh giàu
16. Mỗi người kế hoạch gồm thâu
Ngàn cây góp lại thành màu rừng xanh
Rồi bao sáng tạo, lũy thành
Cũng là cơ hội đấu tranh trường tồn
17. Quê hương đất nước cội nguồn
Của toàn dân Việt phải luôn giữ gìn
Nhắn cùng chính khách, thanh niên
Lòng yêu nước chẳng độc quyền một ai
18. Và rồi kế sách thứ hai
Kế thừa sự nghiệp lâu dài ngàn năm
Của cha ông chống ngoại xâm
Khôn ngoan, nhân ái quỷ thần phải kinh.
19. “Sơn hà Nam quốc” oai binh
Lý Thường Kiệt phá Tống bình được Chiêm
“Bình ngô đại cáo” còn thiêng
“Bắc Nam văn hiến”, cõi miền khác xa.
20. “Hịch văn tướng sĩ” phong ba
Nguyên Mông tan tác mồ ma Bạch Đằng
“Đại Vương thống lĩnh” oai thần
Trần Hưng Đạo dậy tiếng tăm đời đời
21. Thánh Tôn “đức trọng thần noi”
Vỗ an trăm họ, tha người phạm thân
Lý triều vững nghiệp tiền nhân
Nước non Đại Việt mùa xuân còn dài
22. Đỉnh cao Yên Tử trùng mây
Trúc Lâm muôn trượng trầm bay rừng thiền
Tổ Thiền “định” vẫn chưa yên
Thượng Hoàng thiền tổ có phiền ngoại xâm?
23. Điều thứ ba phải có tầm
Rồi trong thế giới phẳng cần đa phương
Cần đa dạng giữ cội nguồn
Dụng công sức mạnh khẩn trương toàn cầu
24. Sức cần tổng hợp dài lâu
Phát huy nội lực cao sâu vững bền
Ngoại giao khôn khéo làm nền
Chủ trương chính sách của nghìn năm qua
25. Rồi ra ta vẫn là ta
Cũng là kinh nghiệm ông cha thủa nào
Biển Đông dẫu có ba đào
Chủ quyền chân lý làm sao đổi dời
26. Điều tư chiến lược muôn đời
Không là sách lược một thời… mà thôi
Rồi Đoàn kết thật lên ngôi
Đại hòa dân tộc cái nôi trường tồn
27. Lợi sao dân tộc thượng tôn
Toàn dân yêu nước không còn cách ngăn
Mong sao khí thế đời Trần
Bánh xe lịch sử xoay vần thời nay
28. Vẻ vang thay nước non này
Vững tin như thế có ngày trời cho
Rồi sao nội lực chẳng lo
Cứ tin như thế còn chờ chúng ta…
29. Khẩn trương hành động, kẻo mà
Bỏ qua cơ hội thật là tiếc thay
Nước non vẫn nước non này
Rồng thiêng đợi có hôm nay chuyển mình
30. Thứ năm điều rất phân minh
Cũng là kế sách thấm tình nước non
Hãy thờ Quốc tổ cội nguồn
Sao hồn Việt phải luôn luôn giữ gìn
31. Gió mưa vẫn một niềm tin
Phong ba càng vững con thuyền Việt Nam
Đại hòa nhân chủ thênh thang
Anh hùng dân tộc lại càng hiển linh
32. Về nguồn dòng chảy thêm tình
Dân gian văn hóa rất tinh làm nền
Ẩn trong triết lý sống bền
Là chung mẫu số con tim Lạc hồng
33. Tự hào dân tộc quyết không
Như phường vọng ngoại a tòng Bắc phương
"Chất Tàu" vốn lắm tai ương
Ta luôn tự chủ tự cường đấu tranh
34. Ta đi xây dựng hòa bình
Đừng quên Quốc tổ oai linh nước nhà
Mùng mười âm lịch tháng ba
Trẻ già lớn bé, chúng ta đến đền
35. Nêu cao biểu tượng quốc truyền
Hùng Vương chính khí thiêng liêng ngàn đời
Bao nhiêu tình tự giống nòi
Cũng không ra khỏi đạo người Lạc Âu
36. Tín ta lại đặt hàng đầu
Đó là kế sách mong cầu chúng ta
Rồi điều sáu quét gian tà
Gốc sâu bền rễ đó là lòng dân
37. Canh tân văn hóa khó khăn
Sao cho xã hội công bằng mới hay!
Quyết lời nói dối thôi ngay
Dối gian là giọt nước đầy tràn ly
38. Lòng tin, pháp trị lo chi
Nếu không tử tế có khi hại mình
Tự mình đào huyệt chôn mình
Bớt đi dối trá thì tình bền lâu
39. Niềm tin để sống cùng nhau
Để nuôi hy vọng nhiệm màu ngày mai
Nước nhà chắp cánh vươn vai
Bước đi những bước cao dài niềm tin
40. Dạy người quốc sách thiêng liêng
Là điều thứ bảy đặt lên hàng đầu
Ước mong cứu nước mau mau
Đừng quên đẩy mạnh “phong trào nào” đi
41. Xuất dương du học một khi
Nâng cao kiến thức hãy vì tương lai
“Toàn cầu du” bước tiến dài
Để cho tri thức ngày mai sánh tầm
42. Tinh hoa thế giới là phần
Thưởng cho người hướng chữ tâm về nguồn
Sinh viên, nhà giáo triệu muôn
Tiếp thu sở học sở trường canh tân
43. Đi lên từ những khó khăn
Vượt qua tụt hậu, muôn phần hổ ngươi
Dã tâm “lấy thịt đè người”
Dã tâm xử ép “nhục ơi, láng giềng!”
44. Vì ai tích oán gieo phiền
Đã thành động lực, trợ duyên đổi đời
“Cảm ơn kẻ bách hại tôi
Để tôi lớn mạnh thành người hùng anh”
45. Hùng cường đất nước cho nhanh
Bởi ta có trái tim lành dựng xây
Nước nhà chỉ mốt mai đây
Thành rồng châu Á đến ngày quang vinh
46. Quyết kinh tế biển tiến nhanh
Việt
Tám là kế sách này đây.
+++++++++++++++
Xuân Giáp Ngọ, biết chúc Biển Đông những gì?
Lý Kiến Trúc
Chúc rằng:
Xuất chiêu chiến hạm nộ kình ngư
Thủy chiến phong ba mãn đình hồng
I. Trước và sau cuộc chiến Việt
Nhắc đến thời chiến tranh Việt
|
Có lẽ vì như vậy, hầu như chính quyền hai miền Nam Bắc Việt
Nhắc tới Biển Đông tất phải nhắc tới các sự kiện ở Vịnh Bắc Bộ và hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa. Suốt thời gian diễn ra chiến cuộc Việt Nam, Biển Đông chỉ xẩy ra vụ Maddox ở Vịnh Bắc Bộ năm 1964, vụ xâm nhập Vũng Rô Phú Yên (Trung Việt) năm 1965 và trận thủy chiến Hoàng Sa năm 1974 (cận kề dưới vĩ tuyến 17).
Vụ Maddox là cái cớ mở màn chiến dịch không tập miền Bắc; vụ Vũng Rô thúc đẩy Hải Quân Mỹ dính líu sâu hơn vào chiến cuộc; vụ Hoàng Sa, Hạm Đội 7 với sức mạnh vô địch khoanh tay nhìn Hoàng Sa như một “ngoại cảnh”! Sau năm 1975, vụ Gạc Ma năm 1988 (Johnson South Reef) chính là mở màn cho mặt trận Trường Sa giữa Hà Nội và Bắc Kinh sau này.
1. Hoàng Sa: lãnh thổ bất khả phân ly
Năm 1909, chính quyền Quảng Đông cho Paracels là đất vô chủ, bắt đầu tranh chấp chủ quyền.
Ngày 29 tháng 2 năm 1933, năm Bảo Đại thứ 13 (30Mars 1933), Vua Bảo Đại ra Dụ số 10 quyết định nhập các cù lao Hoàng Sa vào địa hạt tỉnh Thừa Thiên; về phương diện hành chánh các cù lao này thuộc dưới quyền quan tỉnh.
Ngày 11 tháng 3 năm 1945, Vua Bảo Đại tuyên bố quốc gia Việt Nam độc lập có chủ quyền toàn bộ lãnh thổ từ Ải Nam Quan đến Mũi Cà Mau trong đó bao gồm cả hai quần đảo Hoàng Sa-Trường Sa. Bảo Đại là quốc trưởng. Lá cờ Vàng Ba Sọc Đỏ là Quốc kỳ.
Tháng 12 năm 1946, quân Tưởng Giới Thạch đến giải giáp quân đội Nhật ở Hoàng Sa, Trường Sa, chính quyền Pháp cũng cho quân đóng xen kẽ.
Đầu năm 1947, Trung Hoa Dân Quốc (Tưởng Giới Thạch) đặt tên lại toàn bộ các đảo tại Hoàng Sa & Trường Sa, trong đó tên đảo lớn nhất Trường Sa là Thái Bình, tên một chiến hạm đến đảo cuối năm 1946.
Năm 1949, quân Tưởng bị Mao Trạch Đông hất ra Đài Loan.
Năm 1950, quân Tưởng bỏ Hoàng Sa
kéo quân về trấn thủ Đài Loan (
Năm 1951, Hội nghị 51 nước diễn ra ở San Francisco, Thủ Tướng Trần Văn Hữu cầm đầu phái bộ quốc gia chính phủ Bảo Đại dõng dạc xác nhận trước quốc tế chủ quyền về hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là của Việt Nam, toàn thể hội nghị không có nước nào phản đối, có vài nước phe CHCN đòi để cho Trung Quốc nhưng hội nghị không đồng ý.
Năm 1954, sau Hiệp Định Genève Pháp chuẩn bị rút toàn bộ khỏi Đông Dương, chính thức trao trả quần đảo Hoàng Sa dưới vĩ tuyến 17 cho chính phủ Việt Nam Cộng Hòa.
Sau tháng 4 năm 1956, quân Pháp cuối cùng rút ra khỏi Đông Dương, thừa cơ Đài Loan chiếm đảo lớn nhất của Trường Sa là đảo Itu Aba mà họ gọi là Thái Bình. Sử gia Nguyễn Nhã gọi là đảo Ba Bình.
Vào khoảng đầu năm 1959, HQ Trung Úy Vũ Xuân An (sau này là HQ đại tá, định cư ở Canada) làm hạm trưởng đến kiểm soát đảo Ducan, tên Việt Nam sau này là đảo Quang Hòa, cách đảo Pattle chừng 1 giờ 30 phút đi bằng tàu. Đảo Ducan hình móng ngựa, chúng tôi phát hiện có cờ Trung Cộng và người rõ ràng trên đảo, nhưng chưa xác định được những người trên đó là quân hay dân. Chúng tôi (Đại úy Cổ Tấn tinh Châu) đổ bộ xuống, rất may mắn, đã không có một tiếng súng nổ khi chúng tôi hô “xung phong” ào ạt tiến lên đảo, bắt được tất cả là 60 “thanh niên” không trang bị vũ khí, rồi đưa ra chiến hạm của Trung úy An bằng xuồng của Trung cộng. (Xem bài viết của nhân chứngg cựu Đại tá Cổ Tấn Tinh Châu trên http://www.nhatbaovanhoa.com, số ra ngày Thứ Sáu 17/1/2014).
Từ trái: Phó đề Đốc Vũ Đình Đào và phu nhân; cựu Đại tá Cổ Tấn Tinh Châu và phu nhân trong buổi lễ kỷ niệm 40 năm trận Hoàng Sa tại Tượng đài Chiến sĩ Việt Mỹ Westminster do Hội Hải quân Cửu Long tổ chức hôm 19/1/2014. Ảnh Văn Hóa
Đại
đội Thủy quân Lục chiến dưới quyền chỉ huy của Đại úy Cổ Tấn Tinh Châu đổ bộ
lên đảo Ducan năm 1959. Ảnh do tác giả cung cấp.
Ngày 27 tháng 1, 1973, Hiệp định
đình chiến
Ngày 11 tháng 1, 1974, Bộ Ngoại Giao Trung Quốc ra công bố “xác nhận chủ quyền của nước này Nam Sa, Tây Sa, Trung Sa và Đông Sa và toàn bộ các nguồn lợi tự nhiên xung quanh là thuộc về CHND Trung Hoa.” (BBC 23 tháng 1, 2013)
Ngày 19 tháng 1, 1974, quân Mao
chiếm hẳn nhóm đảo Hoàng Sa Đông. Trong một bài viết trước đây khá lâu, tác giả
tạm phân chia quần đảo Hoàng Sa tính từ 112 độ Bắc kéo xuống Nam, bên trái là
cụm đảo Hoàng Sa Tây, bên phải là cụm đảo Hoàng Sa Đông. Hướng Tây nhìn về cù
lao Ré, hướng Đông nhìn về đảo
Ngày 30 tháng 4 năm 1975, Hải Quân CSVN đưa quân ra tiếp thu các đảo ở Trường Sa do quân đội VNCH trấn giữ.
2. Nhắc lại, một năm sau ngày ký hiệp định Paris, ngày 19 tháng 1, 1974, Trung Quốc điều động hạm đội của họ từ đảo Phú Lâm, đổ bộ cắm cờ lên một số đảo Hoàng Sa Tây, cho tầu cá võ trang khiêu khích kích động sát sườn chiến hạm Hải Quân VNCH.
Các chiến hạm VNCH tiến vào vũng biển Nguyệt Thiềm (Hoàng Sa Tây) đưa người nhái đổ bộ lên đảo Quang Hòa, súng nổ. Tuân theo bút tích chỉ thị của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, chiến hạm VNCH khai hỏa dẫn tới trận hải chiến lịch sử. Trong trận này, chiến hạm VNCh bắn chìm soái hạm Trung Quốc mang theo Tướng Tư Lệnh Ngụy Minh Sâm. Bên VNCH hy sinh hạm trưởng Thiếu Tá Ngụy Văn Thà.
Ý đồ nuốt trọn Hoàng Sa Tây từ lâu ấp ủ trong tham vọng khống chế Biển Đông của Bắc Kinh. Lợi dụng hiệp định Paris chưa ráo mực, Quân ủy Trung ương Trung Quốc gồm Chu Ân Lai, Diệp Kiếm Anh, Đặng Tiểu Bình, Tô Chấn Hoa đề nghị chiếm nốt Hoàng Sa Tây do Việt Nam Cộng Hòa đang trấn giữ; Mao Trạch Đông đồng ý chiếm trọn.
Vào thời điểm này, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu gác ngoài tai khoản “Saigon và chính phủ lâm thời miền Nam Việt Nam được kêu gọi hòa giải dân tộc, tổ chức bầu cử, chấm dứt xung đột võ trang,” ông mải mê “giành dân chiếm đất cắm cờ” với Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, bỏ luôn kế hoạch tái chiếm Hoàng Sa do Đại Tướng Cao Văn Viên đề xuất. (*) Gần đây, tác giả có viết một bài trên tờ tạp chí Văn Hóa Magazine “Thủy chiến bất phân thắng bại, tại sao rút?”
Ngày 14 tháng 3 năm 1988, Hải Quân Trung Quốc xua chiến hạm xuống Nam Biển Đông bao vây, bắn phá bộ đội CSVN đồn trú trên đảo Gạc Ma (Johnson South Reef), bãi Collins (Johnson North Reef) và đụn cát Len Đao (Lansdowne Reef nằm trong cụm đảo Sinh Tồn Trường Sa), tàn sát 64 sĩ quan thủy thủ, bắn chìm 3 vận tải hạm của Hải Quân Bắc Việt. Hà Nội rất đau đớn trận này.
Hai trận Hoàng Sa tây và Gạc Ma đi vào lịch sử Biển Đông của Việt
Năm 1994-1995, Trung Quốc chiếm bãi đá Vành Khăn (Mischief Reef). Năm 2012, Trung Quốc thừa thắng chiếm luôn bãi đá Scarborough Reef cách Palawan-Philippines khoảng 100km. Cả hai bãi đá này đều nằm trong vùng tranh chấp giữa Trung Quốc, Việt Nam và Philippines.
II. Liệt cường muốn gì?
1. Nhìn thấy tính chất nguy hiểm về các hoạt động lấn chiếm du côn của Trung Quốc đội lốt dưới dạng tranh chấp chủ quyền, nhất là ở khu vực quần đảo biển Trường Sa, 10 nước trong khối ASEAN hoảng hốt ngồi lại với nhau tính kế.
Năm nước nhẩy vào tranh chấp trực tiếp là Việt Nam, Philippines, Malaysia,
Brunei và Taiwan; trong năm nước đó, Việt Nam chịu nhiều áp lực nhất của Trung
Quốc, sau mới đến Philippines. Riêng
Phản ứng của Mỹ đối với hành xử của Trung Quốc ra sao? Cựu Ngoại trưởng Hillary Clinton nói: “Mỹ không tham dự vào tranh chấp ở Biển Đông, cũng không đứng về phía nào, chỉ bảo đảm an ninh con đường hàng hải quốc tế..” Tuyên bố cho thấy Mỹ thừa hiểu cách hành xử của Trung Quốc không chừa một hành động hung bạo nào chỉ là chiến thuật áp chế giành thế chủ động ở Biển Đông, nó được coi như cách gởi “thông điệp cứng” tới các nước nhỏ nhằm cảnh cáo xu hướng nghiêng dần về Mỹ.
Tất nhiên Mỹ cũng không vừa, một mặt vận động dư luận ASEAN cho thấy việc Trung Quốc tự vẽ đường lưỡi bò 9 đoạn đòi chủ quyền 85% diện tích Biển Đông rõ ràng là kiểu mới của chủ nghĩa đế quốc thực dân, thay vì mang lính đi xâm lược đất đai, mang hải quân đi “tuyên bố chủ quyền.” Chủ nghĩa đại dương này va chạm trực tiếp nền an ninh và quyền lợi chung của các quốc gia ven biển Đông Nam Á; một mặt Mỹ đóng vai “trung lập” không đối đầu quân sự, cũng không đứng về phe nào.
Bên cạnh các diễn đàn đa phương, đối thoại Shangri-La kết thúc, Hội nghị ARF 2010 bế mạc, với chiến thuật “ngoại giao pháo hạm,” cung hiến kỹ thuật tối tân thăm dò nguồn mỏ, từng bước Mỹ nhẩy sâu hơn nữa vào Biển Đông kéo theo đồng minh trợ lực, đưa chiến hạm vào thăm Sài Gòn, Cam Ranh, Đà Nẵng, Hải Phòng, Manila, Singapore Chiến thuật này tỏ ra khá hữu hiệu bẻ gẫy chiến thuật “dụ khị” song phương của Trung Quốc.
Thế nhưng, song phương bí mật vẫn diễn ra giữa Việt
2. Chiến thuật
Chiến thuật “vừa đánh vừa đàm” của Trung Cộng là một trong nhiều biện pháp vũ lực khống chế Biển Đông. Chiến thuật “đánh” này điển hình như cho toán tầu cá võ trang 10-15 thước, liều mạng bao vây tàu thăm dò USNS Impeccable chỉ cách mũi tầu vài mét hôm 8 tháng 3, 2009, ngăn cản tàu này đang thăm dò đại dương ở hướng Tây Nam, cách Hải Nam 75 dặm (120km), buộc Impeccable phải quay lui.
Lần thứ hai 12 tháng 5, 2013, Trung Cộng cho chiến hạm tùy tùng mẫu hạm Liêu Ninh nghênh mũi cản ngang đầu tuần dương hạm USS Cowpens chỉ cách mũi tầu khoảng 100 yards (khoảng 91 mét) ở hướng Đông Nam-Đông.
Không tin tức nào nói rõ USS Cowpens cách đảo Hải Nam bao nhiêu dặm, hoặc là xâm lấn vào khu vực đặc quyền bao nhiêu dặm, nhưng hai phía đều đưa ra lập luận bảo vệ hoạt động của mình. Trung Cộng nói rằng rằng tàu Mỹ “bám theo đuôi Liêu Ninh quấy rối.” Mỹ nói rằng hành động của chiến hạm Trung Cộng là “vô trách nhiệm mang tính kích động.” Và cũng không biết hai chiến hạm “đối thoại” với nhau những gì trong lúc “ngang đối đầu,” sau cùng USS Cowpens quay lui!
Sự kiện hai cuộc đụng độ giữa Impeccable với tầu cá “đặc công biển” vũ trang, Cowpens với chiến hạm Trung Cộng không phải là cuộc “tao ngộ chiến” hay “thách thức chiến”Ư mà là khúc dạo đầu “Prelude Navy Sea” thử lửa có tính toán. Mỹ đưa tầu thăm dò, Trung Cộng đưa “đặc công biển”, Mỹ đưa tuần dương hạm “bám theo đuôi Liêu Ninh”, Trung Cộng đưa chiến hạm “ngang đối đầu.”
Vấn đề là hai con hổ biển có ý định thực sự “đối đầu” với nhau không, hay trong cuộc thử lửa bên này buộc bên kia thành một “đối đầu” trước. Vấn đề là không bên nào dại dột nổ súng trước. Hai con hổ biển nuốt nước miếng phục thế “rập rình.”
Các luật gia quốc tế về biển hiện vẫn chưa chỉ rõ biên độ hải phận quốc tế và 200 hải lý vùng đặc quyền kinh tế tính từ bờ có khoảng cách “an toàn” là bao nhiêu dặm, bao nhiêu mét, không như vùng phi quân sự có kẽm gai cột mốt qui định rõ trên đất liền. Ranh giới khoảng cách biển an toàn còn mơ hồ, do đó các bên sẽ còn phải ngồi với nhau để bàn về vấn đề này.
Tuy nhiên, xét về thái độ ứng xử của Mỹ qua hai trận “đụng”, Mỹ biểu tỏ sự khôn khéo khi “nhường một bước” trước sự hung hăng “mang tính kích động” (lời Bộ trưởng Quốc phòng Chuck Hagel) của một anh phú gia có vũ khí trong tay.
3. Chiến lược
Tôi tạm chia Biển Đông thành bốn vùng biển khác biệt. Vịnh Bắc Bộ, biển và đảo Hoàng Sa, biển và đảo Trường Sa, biển và đảo nam-tây nam Trường Sa (tính từ mũi Cà Mau kéo tới Hà Tiên, Phú Quốc giáp ranh Vịnh Thái Lan).
Vịnh Bắc Bộ là vùng biển có độ sâu cạn khoảng 60 mét, rộng khoảng 130,000
km2 kể như vùng đặc quyền an ninh giữa Việt
Ảnh tư liệu của Văn Hóa Magazine
Trong cuộc phỏng vấn của nhà báo lý Kiến Trúc với Đại sứ Lê Công Phụng Thứ trưởng Ngoại giao, cựu Trưởng ban biên giới, vào tháng 9, 2008, nhà báo có đề cập đến việc Việt Nam phải ký vội Hiệp định Phân định Vịnh Bắc Bộ năm 2000 chịu mất cả chục ngàn km2 biển do sức ép của Trung Cộng nhằm bảo vệ hướng tây căn cứ tầu ngầm nguyên tử xây dựng ở Hải Nam.
Phía
Ảnh tư liệu của Văn Hóa Magazine
Quần đảo Hoàng Sa rộng khoảng 15, 000km2 - tính từ kinh tuyến bắn 112o chạy xuống nam chia Hoàng Sa ra hai phía Đông và Tây. Chú thích của Văn Hóa Magazine.
So với vùng biển Hoàng Sa, vùng biển Trường Sa rộng lớn hơn (khoảng 180,000 km2), phức tạp hơn. Tổng diện tích đảo, đá, đụn, cồn, bãi nổi bãi chìm chỉ có khoảng 11 km2, cho nên, việc di chuyển qua lại các quần thể đảo liên đới kể như rất ngắn đối với tốc độ duyên tốc đỉnh. Từ Cam Ranh đi tới Trường Sa khoảng hơn 500 km.
Ảnh tư liệu của Văn Hóa Magazine
Dụng thế liên hoàn một số đảo liên đới, chỉ cách nhau độ 10 km, thiết lập một vành đai hỏa lực trung tâm, biến nó thành pháo lũy liên hợp uy hiếp biển đảo chung quanh, trận liệt nằm trong tầm ngắm của pháo. Nếu Gạc Ma, Cô lin, Len Đao quan sát trực diện đường đi từ Singapore tới Luzon, thì Scarborough quan sát trực diện Manila, cách vịnh Subic và bờ biển Manila không đầy 100 km.
Không có gì ngạc nhiên vì sao Trung Cộng cắn răng trước con mắt dè chừng của quốc tế khi ra tay tàn sát 64 sĩ quan thủy thủ vận tải của hải quân Bắc Việt để chiếm cho bằng được đảo Gạcma, Cô Lin, Len Đao ở mạn bắc Trường Sa (Mất Gạc Ma, Việt Nam cố thủ được Cô Lin và Len Đao), và vì sao Trung Cộng quyết tâm “cắm dùi” ở Scarborough Reef mạn đông bắc Trường Sa.
Với địa quân sự bao la ở Biển Đông, Trung Cộng phải mua ngay cái hàng không
mẫu hạm thế hệ cũ của Nga về tân trang. Tuy nhiên Liêu Ninh chưa phải là mẫu
hạm tiêu biểu của Trung Cộng, nhưng thích hợp với biển Hoàng Sa với diện tích
khoảng 15,000 km2. Liêu Ninh là căn cứ nổi di động tôi tạm gọi là Liêu Ninh I
khá lợi hại trong việc phòng thủ căn cứ tầu ngầm nguyên tử Hải
Chấm đỏ trái: Scarborough; chấm đỏ phải: |
Với vị trí xung yếu của biển Trường Sa lại qui tụ quần thể đảo phức hợp, mặt trận Trường Sa khác hẳn Hoàng Sa. Trường Sa cần một hàng không mẫu hạm khác, tối tân hơn, tôi tạm gọi là Liêu Ninh II, nó sẽ bám ven bờ Subic-Manila, dựa vào Scarborough làm pháo đài trợ chiến, tung chiến hạm, chiến đấu cơ tiến vào con đường biển ngoằn ngoèo xuyên qua vịnh Leyte ra Thái bình dương.
Trong Thế chiến Thứ hai (tháng 10, 1944), lực lượng phía Nam của tướng Shoji Nishimura và tướng Kiyohide Shima xứ sở Phù Tang ẩn trú ở các căn cứ bí mật quần đảo Trường Sa (Ba Bình), tầu ngầm giấu dưới hang động ngầm, từ nơi này hải quân Nhật xuất kích tấn công hải quân Mỹ ở vịnh Leyte ven bờ Tây thái bình dương, nhưng thất bại.
Một vị trí trung tâm Trường Sa là đảo Thái Bình (Itu Aba Island), Sử Gia Nguyễn Nhã gọi là Ba Bình, đảo lớn nhất quần đảo Trường Sa. Năm 2012, Đài Loan đã cho xây thêm pháo đài súng cối tầm xa, đại bác tầm gần, dàn rada, phi trường quân sự C130 trên đảo này và lập doanh trại đồn trú cho Thủy quân Lục chiến.
Dù Ba Bình vẫn còn nằm trong vòng tranh chấp của 4 nước, nhưng Việt
Các cuộc gặp gỡ giữa Việt
III. Bảo vệ lãnh thổ chủ quyền, bảo vệ tài sản dầu khí
1. Vũ đài Biển Đông: từ tranh chấp biển đảo đến tranh chấp dầu khí
Dù các bên kêu gọi các bất đồng trên biển phải được giải quyết trong “niềm
tin chiến lược”, nó vẫn không che đậy được cơn sóng ngầm tranh chấp chủ quyền
lịch sử biển đảo, quyền chủ quyền nguyên trạng, tái nguyên trạng. Viễn ảnh tươi
sáng của nguồn năng lượng dầu mỏ, nguồn hải sản và các loại tài nguyên khác là
một trong những nguyên nhân chính khởi phát vũ đài Biển Đông.
Nếu nhìn lại hoạt động “bên lề” của Trung Quốc ở Hội nghị 1951 San Francisco,
trận cưỡng chiếm Hoàng Sa 1974, trận tàn sát Gạc Ma 1988, khởi điểm xuyên suốt
kế hoạch vươn xa hơn nữa biển xanh phương Nam của Bắc Kinh.
Việt
Căng thẳng nhất vẫn là Philippines mất Vành Khăn (Mischief Reef) 1994-1995, mất
Scarborough Reef năm 2012. Đối với
Vị trí Trường Sa lớn không phải là vị trí chiến lược như
Phản ứng về tầm mức quan trọng vụ Scarborough, 5 tháng 6, 2013, Đô Đốc Samuel
Locklear, Tư Lệnh Thái Bình Dương Hoa Kỳ tuyên bố: “Chúng tôi sẽ phản đối việc
bất kỳ ai dùng vũ lực để thay đổi trạng thái nguyên trạng (status quo).” Ông
nói thêm: “Chúng ta cần duy trì những gì ở đâu thuộc ai thì vẫn như thế cho tới
khi chúng ta có được bộ qui tắc ứng xử hoặc một giải pháp mà các quốc gia liên
quan chấp nhận một cách hòa bình.”
Phản ứng của Mỹ chỉ là phản ứng sau việc “cái cày đặt trước con trâu”!
Những cuộc lấn chiếm bật ra tranh luận về bản chất chiến lược của ộng. Trong
các cuộc hội thảo quốc nội lẫn quốc tế có cả ộng, Mỹ tham dự, Việt Nam đã nhiều
lần bẻ gẫy lập luận chứng cứ lịch sử của học giả Trung Quốc đưa ra đối với Biển
Đông là vô giá trị.
Cuộc tranh chấp biển đảo thực tế đã bước sang giai đoạn tranh chấp mỏ dầu khí.
Đây là giai đoạn Việt Nam phải đối đầu với nhiều thách thức, điển hình như vụ
tranh chấp các lô khai thác dầu mỏ vùng Tư Chính-Vũng Mây, bồn trũng Nam Côn
Sơn dù nó nằm trên thềm lục địa Việt Nam.
Giai đoạn mới của các quốc gia trực tiếp tranh chấp ở Biển Đông là giai đoạn
vừa điều quân lính ra chiếm cứ, phòng thủ, xây dựng pháo đài, vừa tranh chấp
vùng khai thác tài nguyên, vừa đàm phán song phương thỏa thuận lợi nhuận.
Trước cận ảnh dầu nổi lềnh bềnh trên thềm lục địa Việt
Các cuộc họp thượng đỉnh giữa Nguyễn Minh Triết (2011) với Hồ Cẩm Đào, và mới
đây ngày 19 tháng 6, 2013, Trương Tấn Sang - Tập Cận Bình ký kết các văn kiện
hợp tác về Biển Đông và Vịnh Bắc Bộ theo khuôn khổ đối tác hợp tác chiến lược
toàn diện, hai bên cùng có lợi trên các lĩnh vực, nhất là về hợp tác kinh tế -
thương mại; nhắc lại, trước đó, tháng 4, 2010, trong cuộc họp song phương giữa
Nguyễn Tấn Dũng với Tổng Thống Philippines Gloria Macapagal-Arroyo, Dũng đẩy
đưa mồi chài: win-win solution.
Tranh chấp quyền lợi khai thác dầu khí đã vượt qua mức tranh chấp biển đảo.
Tháng 9, 1989, cộng áp lực hai tập đoàn dầu khí Anh British Petroleum (BP) và
Exxon Mobil không được cộng tác với Việt Nam trong một dự án thăm dò dầu khí ở
bồn trũng Nam Côn Sơn nằm trên thềm lục địa Việt Nam.
Trong cuộc phỏng vấn của Nhà báo Lý Kiến Trúc với Đại sứ Michael Michalak tại
Quận
Thế nhưng, cơ hội bằng vàng đã đến với Mỹỳ. Chẳng khác gì vụ Maddox “gài độ”
năm 1965, BP và ExxonMobil “cáp độ” Việt Nam năm 1989. Trung Quốc nổi giận
trước việc các đại công ty Mỹ làm ăn với Việt
Ngày 17 tháng 7, 2010, tại Hội nghị Asean Regional Forum (ARF) diễn ra tại Hà
Nội, Ngoại trưởng Hoa Kỳ Hillary Clinton tuyên bố thẳng tuồn tuột quan điểm và
chính sách của Hoa Kỳ đối với Biển Đông: “Tôi muốn nói ngắn gọn quan điểm của
chúng tôi về vấn đề này. Hoa Kỳ, như mọi quốc gia, có lợi ích quốc gia trong
việc tự do đi lại, tự do đi, ra vào vùng biển chung của châu Á, và tôn trọng
luật pháp quốc tế ở Biển Đông. Chúng tôi chia sẻ những lợi ích không chỉ với
các thành viên ASEAN hoặc những người tham dự Diễn đàn Khu vực ASEAN, mà còn
với các quốc gia gần biển khác và cộng đồng quốc tế rộng hơn.”
Tháng 5, 2013, một động tác quân sự được coi là qui mô nhất của hải quân Trung
Quốc khi điều động 3 hạm đội Bắc Hải, Đông Hải, và Nam Hải thao diễn thị uy ở
Biển Đông, trong lúc phái đoàn của họ đi phó hội Đối thoại Shangri-La đang diễn
ra tại Singapore.
Ba chiến hạm Trung Quốc đã được điều đến chỉ trong vòng 5 hải lý cách Bãi
Ayungin (bãi Cỏ Mây), nơi có khoảng một chục lính thủy quân lục chiến
Philippines đang đóng quân trên một con tàu cũ mà Manila bị mắc cạn vào năm
1999 (BBC 27/31/5/2013).
Ngày 3 tháng 6, 2013, Đại sứ Mỹ tại Việt Nam ông David Shear nhân chuyến viếng
thăm Quận Cam, trong buổi nói chuyện tại Câu Lạc Bộ Văn Hóa Báo Chí ông thông
báo công ty Chevron vừa tìm thấy mỏ dầu lớn tại vịnh Thái Lan gần đảo Phú Quốc
thuộc thềm lục địa Việt Nam. (1) Thông báo tin này củng cố khả năng đầu tư của
Mỹ vào Việt
Ngày 3 tháng 6, 2013, Đại sứ David Shear khi đến thăm Câu Lạc Bộ Văn Hóa Báo Chí Quận Cam ông thông báo công ty Chevron tìm thấy mỏ dầu ở gần Vịnh Thái Lan trên thềm lục địa Việt Nam gần đảo Phú Quốc. (Nguồn: Google) |
Ông Hank Tomlinson, Tổng giám đốc Chevron Việt Nam cho biết: “Chevron đang đàm
phán với Tập đoàn dầu khí quốc gia Việt Nam về dự án khí ở ngoài khơi biển Đông
trị giá 4 tỷ USD, trong đó Chevron sẽ góp 2,5 tỷ USD. Tính đến nay Chevron đã
đầu tư 300 triệu USD làm công tác thăm dò.
Dự án nhằm cung cấp khí cho khu vực
Nếu hai vụ BP và ExxonMobil Trung Quốc làm dữ thì đến vụ Chevron Trung Quốc im
hơi lặng tiếng. Phải chăng Mỹ và Trung Quốc đã dọn được con đường đối tác với
Việt
Nếu Mỹ dựa vào khả năng kỹ thuật và lợi nhuận trên nguyên tắc win-win solution
thì Trung Quốc ỷ vào sức mạnh nước lớn áp chế nước nhỏ. Đó cũng là câu trả lời
của làn sóng chống đối Trung Quốc rầm rộ ở trong nước Việt và hải ngoại. Lại
càng “tội nghiệp” cho đảng CSVN tối tăm giữa hai lằn đạn; đối với “lửa gần nước
xa”, phải cho phú gia Trung Quốc thuê rừng, bán mỏ Bauxite, cho trúng thầu hàng
loạt hợp đồng béo bở để vừa hưởng lợi “nhóm lợi ích” vừa tránh cú đấm sau lưng.
Ảnh bản đồ các lô khai thác dầu mỏ vùng Tư Chính-Vũng Mây và bồn trũng Nam Côn
Sơn nằm trên thềm lục địa Việt
Bơm sức cho ASEAN có sức mạnh trong đàm phán với Trung Quốc tiến tới thỏa thuận
Bộ qui tắc cụ thể ứng xử Biển Đông (COC - tất nhiên trong đó phải có điều luật
chung về khai thác mỏ dầu khí). Họp báo tại Hà Nội chiều 16/12/2013, Ngoại
trưởng John Kerry thông báo Mỹ “hỗ trợ” 32,5 triệu đô la cho việc thực thi luật
pháp hàng hải ở các nước Đông Nam Á; riêng với Việt
2. Giải pháp và viễn ảnh
Dù ông Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng có nói bóng gió “cường quốc” nào đi nữa người
ta vẫn hiểu vị trí an ninh và quyền lợi của Việt Nam-Biển Đông hiện phải đối
mặt với tham vọng bá chủ Biển Đông của ông, chiến lược “xoay trục” lực lượng
hải quân Mỹ về Châu ÁỬ Thái Bình Dương và cường quốc Thái Bình Dương Nhật Bản
đang khuếch trương sức mạnh vào Đông Nam Á.
Đi trước một bước, Trung Quốc đã là nước đưa ra giải pháp cùng hợp tác - cùng
khai thác Biển Đông - hai bên cùng có lợi. Nước nào đầu tiên tham gia vào giải
pháp này: Việt
Tháng 10, 2013, đích thân Thủ tướng CSVN Nguyễn Tấn Dũng khai trương nhà máy
lọc hóa dầu Nghi Sơn ở tỉnh Thanh Hóa với mức đầu tư hơn 9 tỉ đô la, liên doanh
giữa PetroVN, Kuwait và Nhật Bản. Nghi Sơn được xem là nhà máy lớn nhất Đông
Nam Á. Tỉnh Thanh Hóa chỉ cách quân cảng Hải Nam chính đông khoảng hơn 300km.
Lý do rất hấp dẫn đối với các quốc gia ven biển, nếu tận dụng khai thác được
các bồn trũng chứa mỏ dầu khí ở vịnh Bắc Bộ và Biển Đông, lợi nhuận trước mắt
về chi phí vận chuyển sẽ tương tác với giá thành sản phẩm.
Các nhà máy Thanh Hóa, Dung Quất, Vũng Tàu, với công suất tổng thể hóa dầu và
các phó sản lên đến hàng chục triệu tấn một năm, không kể đến việc bảo đảm an toàn
năng lượng quốc gia, không kể đến việc cung cấp cho hai anh khổng lồ tiêu thụ
là ộng và Nhật bản, chỉ riêng ASEAN thôi, dầu thô cũng có thể ảnh hưởng đến thị
trường APEC. Việt
Một góc cạnh của giải pháp cho một Biển Đông hòa bình không thể không tính tới
việc hiện đại hóa lực lượng quân sự, nặng nhất là hải-không quân.
Động tác quốc phòng mới đây của Việt Nam tiếp nhận hai nguồn “viện trợ” vũ khí
“không sát thương” của Mỹ và Nhật, mua vũ khí “sát thương” của Nga, thực hiện
tuyên bố song phương hôm 14 tháng 11, 2013 giữa Trương Tấn Sang và Putin ký hợp
đồng thăm dò-khai thác dầu khí ở thềm lục địa, thực hiện hợp đồng song phương
giữa Hà Nội và Bắc Kinh cùng khai thác dầu mỏ vịnh Bắc Bộ (nhấn mạnh: ở khu vực
còn đang tranh chấp), cho thấy chính sách hội nhập quốc tế của Việt Nam đã minh
chứng chủ thuyết “quốc tế hóa uyển chuyển Biển Đông” trong hòa bình và win -
win solution.
Khai thác nhu cầu hiện đại hóa quân lực nhằm đáp ứng tình thế mới của nhiều
quốc gia trong khối ASEAN; cường quốc xuất khẩu vũ khí kín tiếng nhất không ai
khác hơn: “chú Gấu Nga”. Chú Gấu thực hành tốt câu “Ngao cò tranh nhau ngư ông
đắc lợi”, vả lại Việt Nam tỏ ra rất ưa thích món vũ khí của chú Gấu nên thẳng
tay chi ra hàng chục tỷ đô la sắm tầu ngầm, chiến hạm, chiến đấu cơ, ra đa, tên
lửa,.
Thời gian tiến tới ký kết COC cũng là thời gian cốt tủy để Trung Quốc và các
bên (
Gần đây khi sự kiện ộng “nhận dạng phòng không” vùng biển Hoa Đông khiến quốc
tế quốc nội om sòm, Việt Nam tảng lờ không ý kiến, phải chăng Bộ chính trị
“phấn khởi” trước việc mặt trận Biển Đông đã được và đang “di dời” do sức hút
của Hoa Đông, hay ở nơi nào khác, nhường chỗ cho một Biển Đông giầu có dầu khí
và nỗ lực mưu tìm hòa bình trong mối tương tác đa phương. (5)
An ninh Biển Đông hay tài sản Biển Đông nếu bị một nước hay một liên minh quốc
gia nào đó khống chế độc quyền chỉ tạo ra tình trạng mất cân đối cho toàn khu
vực. Thế nhưng, không ai có thể lường được hết thời khắc lịch sử trước biến cố
bất ngờ, mọi giải pháp sẽ tan theo mây khói một khi khói súng đầu tiên của phe
nào đó lỡ lẩy cò.
Năm Giáp Ngọ, xin chúc sóng Biển Đông đừng vạ vào câu Sấm:
“Kình thôn đại chiến huyết do hồng.”
Lý Kiến Trúc
Văn Hóa Magazine-
(*)
- Đọc thêm bài viết chi tiết cùng tác giả trên Văn Hóa Magazine phỏng vấn cựu
Thiếu Tá Nguyễn Văn Tý, nguyên trưởng phòng văn thư Bộ TTM nói về hồ sơ của
Tướng Viên trình lên TT Thiệu.
- Đọc thêm chi tiết trận đánh trong sách “Can trường trong chiến bại” của Phó
Đề Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại.
(1) Theo đánh giá của Bộ Năng lượng Mỹ, lượng dự trữ dầu đã được kiểm chứng ở
Biển Đông là 07 tỉ thùng với khả năng sản xuất 2,5 triệu thùng/ngày. Theo đánh
giá của Trung Quốc, trữ lượng dầu khí ở Biển Đông khoảng 213 tỷ thùng, trong đó
trữ lượng dầu tại quần đảo Trường Sa có thể lên tới 105 tỷ thùng. Với trữ lượng
này và sản lượng khai thác có thể đạt khoảng 18,5 triệu tấn/năm duy trì được
trong vòng 15 - 20 năm tới. Các khu vực có tiềm năng dầu khí còn lại chưa khai
thác là khu vực thềm lục địa ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ và bờ biển miền Trung, (Biển
Đông Wikileaks)
(2) Theo thống kê của Bộ Ngoại giao Việt Nam và số liệu của Ts Nguyễn Hồng Thao
Trường Sa có khoảng 140 đảo, đá, bãi.
(3) Năm 1941- 1944, quân Nhật từ Tokyo, bắc ố đông bắc, tiến xuống nam, lập
tổng hành dinh Okinawa - tràn xuống Formosa - chiếm Luzon - khống chế bán đảo
Đông Dương - chiếm Malaysia, Miến Điện, Singapore, uy hiếp Tân tây nam, châu
úc. Năm 1974- 2012, ngược lại, ộng lấy Biển Đông (Nam Hải) làm bàn đạp tiến
ngược lên đông bắc, thọc qua tây Thái bình dương.
(4) Nhớ lại năm 1944, khi Thống tướng Mc Arthur thất bại ở
(5) Thông tin về việc Trung Quốc vẽ ra vùng “nhận dạng phòng không biển Hoa
Đông” làm nhiều người giật mình. Thật ra, các nhà quân sự quốc phòng không gian
đã nhìn thấy “vùng nhận dạng chủ quyền không gian” từ khuya. Chủ quyền lãnh thổ
của một quốc gia phải bao gồm cả chủ quyền trên không, đại dương và đất liền;
tuy nhiên do thời điểm thực hiện quyền chủ quyền phòng không chưa tới lúc nóng bỏng hoặc là chưa đủ khả
năng kiểm soát do còn yếu kém về kỹ thuật, về vũ khí nên ít ai để ý. Cứ xem vụ
U 2 của Mỹ bay qua Nga, vụ thám thính cơ của Mỹ buộc phải hạ cánh ở Hải Nam, vụ
phi công Lý Tống với chiếc Cesna bé tí bay tới “vùng nhận dạng không gian” Cuba
thả truyền đơn. Cũng ông Lý Tống nhà ta rải truyền đơn từ vùng phòng không trên
không gian