Bảo vệ biên cương đất nước dưới triều Vua Lê Thánh Tông

14 Tháng Mười 20186:42 CH(Xem: 11120)

VĂN HÓA ONLINE - DIỄN ĐÀN CHÍNH TRỊ  - THỨ HAI 15 OCT 2018


Bảo vệ biên cương đất nước dưới triều Vua Lê Thánh Tông


image004


Thời Vua Lê Thánh Tông (năm 1490 đổi làm xứ) bao gồm:


  1. Nam Sách gồm (Hải Dương, Hải Phòng ngày nay), quản lĩnh 4 phủ, 18 huyện;
  2. Thiên Trường (Sơn Nam) gồm (Thái Bình, Nam Định, Hưng Yên ngày nay), quản lĩnh 11 phủ, 42 huyện;
  3. Quốc Oai (Sơn Tây) gồm Hà Tây, Sơn Tây, Vĩnh Phúc ngày nay), quản lĩnh 6 phủ, 24 huyện;
  4. Bắc Giang (Kinh Bắc) gồm (Bắc Giang, Bắc Ninh ngày nay), quản lĩnh 4 phủ, 19 huyện;
  5. An Bang là (Quảng Ninh ngày nay), quản lĩnh 1 phủ, 3 huyện, 4 châu;
  6. Tuyên Quang gồm (Tuyên Quang, Hà Giang ngày nay), quản lĩnh 1 phủ, 2 huyện, 5 châu;
  7. Hưng Hóa gồm (Phú Thọ, Yên Bái ngày nay), quản lĩnh 3 phủ, 4 huyện, 17 châu;
  8. Lạng Sơn gồm (Lạng Sơn ngày nay), quản lĩnh 1 phủ, 7 châu;
  9. Thái Nguyên (Ninh Sóc) gồm (Thái Nguyên, Bắc Kạn và Cao Bằng ngày nay), quản lĩnh 3 phủ, 8 huyện, 7 châu;
  10. Thanh Hóa gồm (Thanh Hóa, Ninh Bình ngày nay), quản lĩnh 4 phủ, 16 huyện, 4 châu;
  11. Nghệ An gồm (Nghệ An, Hà Tĩnh ngày nay), quản lĩnh 8 phủ, 18 huyện, 2 châu;
  12. Thuận Hóa gồm (Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên-Huế ngày nay), quản lĩnh 2 phủ, 7 huyện, 4 châu;
  13. Quảng Nam gồm (Bình Định, Quảng NgãiQuảng Nam ngày nay);

image003

An Nam Quốc đồ. Wikipedia


Theo GDVN / Đại tá ĐẶNG VIỆT THỦY


14/10/18


(GDVN) - Xây dựng nhà nước độc lập, thống nhất trên cơ sở bảo toàn lãnh thổ là một nội dung tư tưởng nhất quán trong đường lối trị nước của Lê Thánh Tông.


LTS: Từ những đóng góp to lớn của vua Lê Thánh Tông đối với mọi mặt đời sống xã hội đất nước, Đại tá Đặng Việt Thủy đã có bài viết chia sẻ cùng quý độc giả Báo Điện tử Giáo dục Việt Nam.


Tòa soạn trân trọng gửi đến độc giả bài viết này.


Lê Thánh Tông là một trong những vị vua ở ngôi lâu nhất trong lịch sử các vị vua Việt Nam (38 năm). Nhưng điều đáng nhớ không phải vì ông ở ngôi lâu (sau này còn có Lê Hiển Tông ở ngôi 47 năm), mà vì những đóng góp của triều vua này vào đời sống mọi mặt của quốc gia Đại Việt thời ấy.


Lê Thánh Tông tên tự là Tư Thành, lại có tên nữa là Hạo, là con trai thứ tư và cũng là con út của vua Thái Tông, sinh ngày 20 tháng 7 năm Nhâm Tuất (1442). Mẹ là bà Ngô Thị Ngọc Dao, con gái của Thái bảo Ngô Từ, một trong những công thần khai quốc nhà Lê.


Thuở nhỏ, hoàng tử Tư Thành phải ở cùng mẹ ở ngoài kinh thành, 4 tuổi được phong là Bình Nguyên Vương, cho vào nội cung cùng học tập với các thân vương khác.


Cuối năm 1459, Nghi Dân (con đầu của Thái Tông) giết mẹ con vua Nhân Tông để chiếm ngôi vua, phong Tư Thành làm Gia Vương. Giữa năm 1460, các đại thần Nguyễn Xí, Lê Niệm phế truất Nghi Dân, đưa Tư Thành lên ngôi.


Được đưa lên làm vua vào lúc 18 tuổi, sau một cuộc chính biến, Lê Tư Thành (tức Lê Thánh Tông) thừa hưởng được cả một di sản lớn của cha, ông, một đất nước an bình trong độc lập, đang từng bước đi vào thế ổn định sau nhiều năm khôi phục kinh tế.


Lê Thánh Tông là một vị vua trẻ năng động, có ý chí, có tính cách mạnh mẽ "tính trời sinh ra đã biết mà sớm khuya không rời quyển sách", "anh minh quyết đoán", Lê Thánh Tông đã làm việc hết sức mình để tạo nên một sự nghiệp rạng rỡ một thời.


Với sự nghiệp đó, người xưa đã tôn kính ông, ca ngợi ông, còn những nhà sử học ngày nay thì đã có lúc xem thời thống trị của ông là thời kỳ thịnh trị nhất, đỉnh cao của chế độ Quân chủ Việt Nam.


Lê Thánh Tông là một hoàng đế có vai trò quan trọng trong sự nghiệp củng cố và phát triển nhà nước Quân chủ, có công lao to lớn trong việc bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ đất nước và mở rộng bờ cõi quốc gia.


Dưới triều đại ông, nhà nước được tổ chức dựa trên những thể chế điển chương, pháp luật do hoàng đế đặt ra: chuộng văn trọng võ, mở mang đất đai, bờ cõi, bảo vệ chủ quyền biên giới trên bộ và trên bờ biển, hải đảo.


Vua Lê Thánh Tông cho rằng, một nhà nước độc lập, thống nhất đòi hỏi trước hết phải loại trừ được những nguy cơ xâm lấn từ bên ngoài và những nguy cơ phân tán cát cứ từ bên trong. Điều này đã trở thành một trong những định hướng cơ bản cho những chính sách cai trị của Lê Thánh Tông.


Để xây dựng nền quốc phòng vững mạnh, chính sách của nhà vua thể hiện ở ba nội dung: xây dựng lực lượng quân đội tinh nhuệ, hùng mạnh; chú trọng về biên phòng; ngăn chặn nguy cơ cát cứ trong nước.


Mối quan tâm đầu tiên của nhà vua là chăm lo xây dựng quân đội vững mạnh làm cái nền võ bị cho nhà nước, cần cải cách quân đội gọn nhẹ nhưng tinh nhuệ, có quân thường trực tại ngũ mạnh và có lực lượng dự bị đông đảo có thể huy động khi cần thiết. Quân đội được đặt dưới sự chỉ huy thống nhất của triều đình trung ương mà đứng đầu là nhà vua.


Trong cải cách tổ chức bộ máy nhà nước, Lê Thánh Tông bãi bỏ chức Tể tướng, củng cố lại bộ Binh, thiết lập khoa Binh (một cơ quan không thuộc quân đội, chịu sự chỉ đạo trực tiếp của nhà vua) để giám sát hoạt động của bộ Binh và quân đội, đồng thời duyệt định lại hệ thống võ quan.


Chế độ binh dịch được xây dựng lại theo hướng chính quy. Quân đội được biên chế thành hai lực lượng: quân của triều đình và quân của các đạo, còn gọi là quân trong kinh và quân ngoài các đạo.


Chế độ quân ngũ được xét định lại. Ngay từ những năm đầu lên làm vua, Lê Thánh Tông đã lệnh cho cả nước lập sổ hộ tịch và phân hạng đinh làm cơ sở thực hiện các chính sách kinh tế, xã hội và tuyển lính.


Năm 1470, triều đình định lệ tuyển lính: nhà có ba đinh thì một sung vào hạng lính (quân thường trực), một vào hạng quân (quân dự bị), người còn lại được miễn binh dịch... Triều đình nghiêm cấm và trừng trị nặng tội ẩn lậu dân đinh, bán thả quân nhân và tội bỏ trốn quân ngũ.


Bên cạnh đó, lại mở rộng diện miễn tuyển, nhất là đối với diện nho sinh học giỏi, lại có chính sách ưu đãi để động viên binh lính...


Đối với việc biên phòng, Lê Thánh Tông không những chú trọng xây dựng quân đội mà còn đề ra những chính sách biên phòng thích hợp, bao gồm cả việc tổ chức lực lượng quân đội canh giữ chặt chẽ các vùng biên giới đất liền và biển đảo, thi hành chính sách an dân miền biên viễn thông qua biện pháp tranh thủ các tù trưởng dân tộc thiểu số, biến họ thành quan chức của triều đình, cùng các biện pháp ưu đãi và tôn trọng lệ tục riêng của các tộc người thiểu số.


Theo nhiều nguồn tư liệu lịch sử, dòng họ Đèo ở Mường Lễ, họ Cầm ở Tây An, họ Xa, họ Cầm ở Hưng Hóa, họ Hoàng, họ Bế ở Cao Bình (Thái Nguyên), họ Vi ở Lạng Sơn... đều là những phiên thần nhận quan chức của nhà Lê.


Dưới triều Lê Thánh Tông, ở cấp chính quyền huyện - châu, các huyện miền xuôi thì tất cả những người đứng đầu cấp huyện đều do triều đình bổ nhiệm. Nhưng, các châu ở miền núi thì vẫn giao cho các tù trưởng quản lý.


Với sự tăng cường của nhà nước trung ương tập quyền, việc trấn giữ miền núi nói chung và vùng biên giới nói riêng được triều đình quản lý chặt chẽ hơn.


Một mặt, triều đình vẫn sử dụng lực lượng thổ tù, cho họ nhận sắc phong của triều đình. Ở cấp châu, huyện miền núi hầu hết đều do các tù trưởng người dân tộc nắm giữ. Triều đình đặt chức Tri châu, Đại tri châu để bổ nhiệm cho các tù trưởng, lang đạo ở ngoại phiên.


Mặt khác, triều đình còn cử một số quan lại cao cấp, những công thần của triều đình hoặc con cháu của họ lên miền núi, vùng biên viễn để quản lãnh, cai trị địa phương và chiêu dân lập ấp ở đây, đồng thời còn làm nhiệm vụ bảo vệ biên cương của đất nước. Nhiều quan lại được cử lên trấn trị tại địa phương đã "cha truyền con nối" trở thành những phiên thần của triều đình.


Trong quan hệ với Chiêm Thành tại biên giới phía Nam, vua Lê Thánh Tông đặc biệt quan tâm đến việc bảo toàn lãnh thổ.


Sau nhiều lần tranh chấp mốc giới và đã sử dụng nhiều biện pháp quân sự để phòng vệ biên giới không có hiệu quả, nhân lần chống trả cuộc tấn công quy mô lớn của quân Chiêm Thành "hơn 10 vạn quân thủy, quân bộ cùng voi ngựa đến đánh úp Hóa châu", Lê Thánh Tông đã trực tiếp cầm quân đánh thắng quân Chiêm và theo đà thắng lợi đã tiến thẳng đến đến kinh đô Chà Bàn (thành Đồ Bàn, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định ngày nay) quy phục được Chiêm Thành. Đạo thừa tuyên thứ 13 (đạo Quảng Nam) của Đại Việt ra đời trong hoàn cảnh đó.


Năm 1490, Lê Thánh Tông cho vẽ bản đồ 13 đạo trong cả nước và kinh đô gọi là Hồng Đức bản đồ.


Ông kiên quyết ngăn chặn những hành động xâm phạm biên giới của nhà Minh, bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc. Ông nói: "Quyết không để một tấc đất, một thước sông của Thái Tổ để lại lọt vào tay kẻ khác".


Tại khu vực vùng biên giới Tây Bắc Nghệ An đến Quảng Bình, dọc dãy Trường Sơn với dòng họ Cầm đời đời làm tù trưởng.


Trước đó, dưới thời vua Lê Nhân Tông đã "đổi tên Bồn Man thành châu Quỳ Hợp, vẫn cho dòng họ Cầm giữ chức Phụ đạo và tự cai trị nước họ như xưa" (Hoàng Cao Khải, Việt sử yếu, Nhà xuất bản Nghệ An - Trung tâm ngôn ngữ Đông - Tây, 2007, tr. 269).


Đến năm thứ 10 niên hiệu Hồng Đức (Lê Thánh Tông), thổ tù là Cầm Nông làm phản muốn tách ra. Nhà vua đã sai tướng Lê Niệm đánh dẹp và đưa cả vùng này thành phủ và bảy huyện đó là phủ Trấn Ninh thuộc tỉnh Nghệ An ngày nay.


Đối với những người giữ quan ải mà để kẻ gian lọt vào thì tùy theo tội nặng nhẹ mà trị tội. Những người bắt được kẻ gian thì được thưởng: "Những người giữ quan ải không khám xét cẩn thận, để kẻ gian đưa lọt tin tức ra ngoài hay có kẻ gian lọt vào trong hạt mình dò la tình hình, thì xử tội đồ, tội lưu hay tội chết.


Người khác mà bắt được kẻ gian, được hưởng tước hai tư" (Điều 38, Chương Quân chính, Quốc triều hình luật).


Nhằm chống nguy cơ xâm lấn từ bên ngoài và làm phản từ bên trong, Lê Thánh Tông coi trọng việc sử dụng các biện pháp pháp luật.


Nhà vua cho ban hành Bộ Luật Hồng Đức gồm hơn 700 điều, vừa bảo vệ lãnh thổ, an ninh đất nước, vừa đáp ứng quyền lợi và trách nhiệm của các tầng lớp nhân dân.


Trong Bộ luật Hồng Đức, có các quy định trừng phạt các hành vi xâm phạm chủ quyền lãnh thổ, chủ quyền kinh tế quốc gia như: trốn ra nước ngoài (Điều 71), bán ruộng đất ở bờ cõi cho người nước ngoài (Điều 74), bán binh khí và thuốc nổ cho người nước ngoài (Điều 75), chặt tre, gỗ phá thế hiểm yếu vùng biên giới (Điều 88), vận chuyển trái phép hàng hóa thiết yếu qua biên giới (Điều 76).


Các quy định trừng phạt hành vi phá hoại an ninh quốc gia và trật tự ven biên, như: mưu phản (Điều 25), thông đồng với người nước ngoài tiết lộ bí mật quốc gia (Điều 79).


Các quy định trừng phạt hành vi vi phạm trách nhiệm của quan lại trấn ải nơi biên giới, như: tướng sĩ trấn giữ nơi biên ải mất cảnh giác làm tổn hại nghiêm trọng đến chủ quyền an ninh quốc gia (Điều 613).


image005


“Một thước núi, một tấc sông của ta, lẽ nào lại tự nhiên vứt bỏ…”


Bộ luật Hồng Đức với 13 chương 722 điều đã có 8 điều quy định về bảo vệ an ninh, lãnh thổ đất nước, chống thù trong, giặc ngoài.


Đây cũng là một trong những yếu tố xác định Lê Thánh Tông là vị vua có tư tưởng pháp trị nhất trong xây dựng đất nước và bảo vệ Tổ quốc thời Lê Sơ.


Vua Lê Thánh Tông còn thường xuyên tổ chức những cuộc duyệt binh lớn đặc biệt là các vùng biên ải, quy định kỳ hội duyệt binh, sửa định các quân lệnh về thủy trận, tượng trận, mã trận, bộ trận, các điều lệnh về hành quân...


Với tư tưởng "phàm có nhà nước tất có vũ bị", đề cao địa vị của đất nước mình và giữ vững chủ quyền lãnh thổ, Lê Thánh Tông không chỉ nghiêm khắc trừng trị những kẻ lơ là việc phòng thủ biên cương, bán rẻ đất đai của Tổ quốc mà còn tự mình tham gia chỉ đạo vào các cuộc duyệt binh ở vùng biên ải phía Bắc và các cuộc hành quân lớn vào phía Nam hay Tây Nam. Đất nước Đại Việt thời Lê Thánh Tông thực sự là một đất nước hùng mạnh, độc lập và tự chủ.


Xây dựng nhà nước độc lập, thống nhất trên cơ sở bảo toàn lãnh thổ là một nội dung tư tưởng nhất quán trong đường lối trị nước của Lê Thánh Tông.


Tư tưởng đó không chỉ là tư tưởng chỉ đạo mọi hành động mà còn thể hiện những chủ trương, chính sách cụ thể của vua Lê Thánh Tông. Những chính sách đó không chỉ là cơ sở mà còn tác động sâu sắc tới các triều đại sau này.


Vua Lê Thánh Tông mất ngày 30 tháng Giêng năm Đinh Tỵ (1497), ở ngôi 38 năm. Ông không chỉ là một vị vua anh minh, quyết đoán mà còn là một nhà chính trị tài năng, một nhà văn hóa lớn của dân tộc ta./ Đại tá ĐẶNG VIỆT THỦY


Tài liệu tham khảo chính:


- 10 vị Hoàng đế Việt Nam tiêu biểu, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội - 2011.


- Đinh Xuân Lâm - Trương Hữu Quýnh (chủ biên), Việt Nam - các nhân vật lịch sử - văn hóa, Cục Bảo vệ an ninh nội bộ và Văn hóa tư tưởng, Hà Nội - 2008


+++++++++++++++++++++++++++++++


XEM THÊM:


- Lê Thánh Tông - Wikipedia.


- Đại Việt Sử ký toàn thư.


image006

Bìa sách Đại Việt Sử ký Toàn thư, Bộ Văn Hóa Giáo dục và Thanh niên xuất bản 1974. ( tủ sách báo Văn Hóa)

24 Tháng Sáu 2013(Xem: 18329)
Vấn đề sửa đổi Hiến pháp Việt Nam không chỉ gây sôi nổi dư luận người Việt trong và ngoài nước, mà còn thu hút sự quan tâm của các chuyên gia và tổ chức nước ngoài. Trong tạp chí Việt Nam trong dòng thời sự hôm nay, chúng tôi xin giới thiệu ý kiến của ông Jonathan London, giáo sư Đại học Hồng Kông và những khuyến cáo của tổ chức bảo vệ quyền tự do ngôn luận của Anh quốc, mang tên Điều 19.
24 Tháng Sáu 2013(Xem: 19252)
Các thể chế chính trị trên thế giới có thể được hình thành bằng những cách thức khác nhau và mang những tính chất khác nhau.
24 Tháng Sáu 2013(Xem: 17621)
Vào lúc 3 giờ 30 chiều ngày Thứ Năm, 13 tháng 6 năm 2013, phái đoàn đảng Việt Tân gồm ông Tổng Bí Thư Lý Thái Hùng, Bác sĩ Nguyễn Đỗ Thanh Phong và ông Nguyễn Tấn Anh đã có một cuộc gặp gỡ và trao đổi về tình hình nhân quyền tại Việt Nam với ông Tổng Trưởng Ngoại Giao Úc, Thượng Nghị Sĩ Bob Carr tại văn phòng chính phủ tại thành phố Sydney.
24 Tháng Sáu 2013(Xem: 18839)
Hoạt động thường niên của giới vận động dân chủ người Việt mang tên Họp Mặt Dân Chủ vừa được tổ chức tại Hà Lan.
11 Tháng Sáu 2013(Xem: 22218)
Bài phát biểu của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tại diễn đàn Shangri-La vừa qua đánh dấu một chuyển biến trong quan hệ đối ngoại của Việt Nam và vẫn đòi hỏi có thêm các đánh giá đúng mức sau nhiều bình luận khen chê trong và ngoài nước.
28 Tháng Năm 2013(Xem: 22738)
Những định nghĩa pháp lý cho các chính thể Việt trong cuộc chiến chấm dứt ngày 30/4/1975 có vai trò quan trọng cho lập luận của Việt Nam về chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Sự quan trọng này không chỉ vì công hàm 1958 của Thủ tướng Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (VNDCCH) Phạm Văn Đồng, mà còn vì Hà Nội đã không khẳng định chủ quyền đối với Hoàng Sa, Trường Sa từ năm 1954 đến 1975-1976.
23 Tháng Năm 2013(Xem: 18720)
Trong số báo kỳ này, ban biên tập đưa ra đề tài: Cộng Đồng Việt Nam Tị Nạn Hải Ngoại có cần, không cần, hay nửa cần nửa không tham dự vào việc sửa lại Hiến Pháp của nước CHXHCNVN. Đề tài này hiện nay đang tạo nhiềy ý kiến sôi nổi ở trong nước, nhưng ở hải ngoại, ngoài một vài chỉ dấu hạn hẹp (thường là nhận thấy trên một số khẩu hiệu, băng rôn trong các buổi mít tinh) hầu như không thấy có cuộc hội thảo, bàn luận, hay một tổ chức chính trị nào chính thức đưa ra trong các hội luận, diễn đàn mang tính cách công cộng quần chúng.
23 Tháng Năm 2013(Xem: 20835)
Vấn đề sửa đổi Hiến pháp Việt Nam không chỉ gây sôi nổi dư luận người Việt trong và ngoài nước, mà còn thu hút sự quan tâm của các chuyên gia và tổ chức nước ngoài. Trong tạp chí Việt Nam trong dòng thời sự hôm nay, chúng tôi xin giới thiệu ý kiến của ông Jonathan London, giáo sư Đại học Hồng Kông và những khuyến cáo của tổ chức bảo vệ quyền tự do ngôn luận của Anh quốc, mang tên Điều 19.
23 Tháng Năm 2013(Xem: 21974)
Sở dĩ có tên Kiến nghị 72 là vì có 72 người đứng tên trong danh sách đầu tiên ký vào Kiến nghị, bao gồm nhiều nhân sỹ trí thức được nhiều người biết đến như Nhà văn Nguyên Ngọc, Giáo sư Tương Lai, Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh, Tiến sỹ Lê Đăng Doanh, Tiến sỹ Nguyễn Quang A...
23 Tháng Năm 2013(Xem: 22171)
“Cái mà người ta mong đợi là có nói đến Điều 4 nhưng họ không đụng gì đến cái đó cả,” ông than phiền. Ông cũng giải thích rằng hiện thời ở Việt Nam chưa đủ ‘thời cơ’ để tiến tới tự do chính trị, đa đảng phái, dân chủ hoặc đối lập. Điều 4 của bản Hiến pháp, vốn là nền tảng cho quyền lực của Đảng Cộng sản ở Việt Nam, đã bị những người chỉ trích nhận xét là không dân chủ và yêu cầu bãi bỏ.
23 Tháng Năm 2013(Xem: 19659)
Ông Nguyễn Đình Lộc xuất hiện trong chương trình Thời sự nói về lấy ý kiến đóng góp sửa đổi Hiến pháp Cựu Bộ trưởng Tư pháp Nguyễn Đình Lộc vừa gây tranh cãi khi phát biểu trên Truyền hình Việt Nam phủ nhận vai trò trong kiến nghị về sửa đổi Hiến pháp của các trí thức, còn gọi là Kiến nghị 72. Hôm 4/2, ông Lộc đã dẫn đầu đoàn 15 nhân sỹ trí thức tới trao kiến nghị cho đại diện Ủy ban Pháp luật của Quốc hội.
23 Tháng Năm 2013(Xem: 20389)
Ngày 22/03/2013, đài truyền hình Việt Nam chiếu một đoạn phỏng vấn cựu Bộ trưởng Tư pháp Nguyễn Đình Lộc, nói về việc ông ký vào bản kiến nghị sửa đổi Hiến pháp do 72 nhân sĩ trí thức khởi xướng ngày 19/01/2013 và về việc ông làm trưởng đoàn đi trình bản kiến nghị này cho Uỷ ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp ngày 04/02/2013.
23 Tháng Năm 2013(Xem: 19539)
Việc đóng góp ý kiến vào bản dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 đang dần dần trở thành một phong trào đòi dân chủ ở Việt Nam, mà đi đầu là giới trí thức. Đó là nhận định chung của giáo sư Tương Lai, nguyên Viện trưởng Viện Xã hội học Việt Nam, trong bài trả lời phỏng vấn RFI Việt ngữ.
23 Tháng Năm 2013(Xem: 24353)
Những người kiến nghị cho rằng dự thảo hiến pháp hiện đang được trưng cầu ý kiến "chưa thấu suốt bản chất của một hiến pháp dân chủ, chưa thể hiện sự tin cậy, tín nhiệm của nhân dân với chính quyền theo tinh thần thỏa thuận kiến tạo một môi trường có sự kiểm soát bên trong và bên ngoài đối với quyền lực".
23 Tháng Năm 2013(Xem: 23508)
Giữa tháng 04/2013, một loạt các đề xuất sửa đổi Hiến pháp 1992 đã được Ban biên tập soạn thảo tiếp thu, trong đó có phương án đổi lại tên nước thành Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Trong phiên khai mạc kỳ họp Quốc hội hôm qua 20/05, việc đổi tên nước đã đột ngột bị loại khỏi văn bản dự thảo.