Lãnh đạo Việt Nam đang theo đạo gì?

03 Tháng Ba 201511:15 CH(Xem: 24397)
"NHẬT BÁO VĂN HÓA - CALIFORNIA" THỨ TƯ 04 MAR 2015
Lãnh đạo Việt Nam đang theo đạo gì?

Nguyễn Anh Tuấn Bài cho trang Forum của BBC Tiếng Việt  blank
Ngày 28/10 năm 2014, trong chuyến công du Ấn Độ, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã viếng thăm Bồ Đề Đạo Tràng. Hình ảnh người đứng đầu Chính phủ ngồi xếp bằng, tay đeo tràng hạt, cung kính chắp tay lạy Phật như một Phật tử thuần thành xuất hiện khắp trên các tờ báo lớn của Việt Nam.

Tuy nhiên, chưa thấy ai đặt vấn đề liệu hành vi trên của ông có mâu thuẫn với việc ông phủ nhận có theo bất kỳ tôn giáo nào trong các bản khai lý lịch của mình.

Cũng vậy, công luận Việt Nam lúc ấy cũng vắng bóng những cuộc tranh cãi về tính hợp lý của những hành vi tôn giáo nơi công cộng của các lãnh đạo quốc gia, điều đôi khi sẽ bị coi là thất sách về chính trị (politically incorrect) ở những nước coi trọng tính thế tục.

Trong một diễn biến khác, ngày 9/11 năm 2014, Ủy ban An toàn Giao thông Quốc gia, một cơ quan trực thuộc Chính phủ, phối hợp với Giáo hội Phật giáo Việt Nam tổ chức đại lễ cầu siêu cho tất cả nạn nhân tai nạn giao thông trong cả nước. Tham dự đại lễ này với tư cách Phó Chủ tịch Ủy ban ATGT QG, Bộ trưởng Đinh La Thăng phát biểu:

“Với sự gia hộ của mười phương chư Phật, cùng công đức trì niệm của hàng trăm tăng ni, tín đồ Phật tử và gia đình thân quyến tại trai đàn cầu siêu sẽ giúp cho hương linh những người không may bị tử nạn do tai nạn giao thông siêu đăng Phật quốc. Cũng nhờ đạo hạnh của chư Phật, chư tăng ni gia trì cho gia đình các nạn nhân đủ niềm tin, nghị lực nén những đau thương mất mát, sớm vượt qua những khó khăn trước mắt để tiếp tục xây dựng cuộc sống và xã hội ngày thêm an lành, tốt đẹp”. [2]

Thật khó để phân biệt giữa phát biểu của một viên chức chính phủ với một chức sắc tôn giáo trong trường hợp này.

Tuy vậy, cũng như trường hợp Thủ tướng, thời điểm đó công luận Việt Nam không xuất hiện một cuộc tranh luận đáng kể nào về giới hạn can dự của cơ quan hành chính vào các sinh hoạt tôn giáo cũng như vấn đề tính chất trung lập về tôn giáo trong các phát ngôn của viên chức đại diện chính phủ.

Dường như, tính thế tục trong phát ngôn và hành động của chính khách vẫn chưa hoặc không phải là một chủ đề được quan tâm trong dư luận Việt Nam, mặc dù, ở cấp độ hành chính, đã có quy định cấm thờ cúng và thực hành nghi lễ tôn giáo trong cơ quan nhà nước; và, ở cấp độ tư tưởng, nhà nước Việt Nam đã nhiều lần khẳng định trong Hiến pháp rằng họ chọn chủ nghĩa Marx-Lenin, một học thuyết duy vật, làm nền tảng tư tưởng cho mọi hoạt động của nhà nước và xã hội.

Ngược dòng lịch sử

“Đại Sán, tu sĩ Phật giáo người Trung Hoa được nói đến ở các chương trước, vào năm 1695, đã quan sát thấy cung điện của Nguyễn Phúc Chu được trang hoàng với cờ Phật giáo, trướng, cá gỗ và những quả chuông lộn ngược, giống như một ngôi chùa Phật giáo vậy”

Li Tana trong tác phẩm Xứ Đàng Trong đã trích thuật những mô tả của nhà sư Đại Sán để cho thấy trong quá trình lập quốc ở Đàng Trong, các chúa Nguyễn đã chọn Phật giáo Đại thừa làm tôn giáo nhà nước (state religion) để khẳng định và củng cố tính chính danh thế quyền của họ bằng một kiểu cách mà O.W. Wolters chỉ ra, ở Đông Nam Á, “địa vị vua có tính cách duy nhất chỉ bởi vì đó là một địa vị có tính cách tôn giáo”.

Đây là một hiện tượng thú vị, song các chúa Nguyễn ở Đàng Trong không phải là thế lực chính trị đầu tiên hoặc duy nhất trong lịch sử Việt Nam xác lập Phật giáo làm tôn giáo nhà nước nhằm củng cố tính chính danh vương quyền.

Các triều đại Lý – Trần cũng thể hiện xu hướng này đậm nét, với đặc trưng là sự phổ biến của hiện tượng các nhà sư tham chính, nắm giữ các vị trí cao cấp trong triều đình (chẳng hạn, các Quốc sư cho vua Lý đa phần là các bậc tăng sư), cũng như hiện tượng xuất gia của các vị vua khi đang ở đỉnh cao quyền lực, đặc biệt có những vị như Phật Hoàng Trần Nhân Tông còn là tổ của một tông phái thiền.

Tuy vậy, lịch sử Việt Nam cũng ghi nhận những trào lưu phê phán mô hình nhà nước Phật giáo, đặc biệt là trong các giai đoạn thắng thế của Nho gia khi nó được các lực lượng nắm quyền lựa chọn làm hệ tư tưởng thống nhất của quốc gia.

Lê Thánh Tông (1442-1497) trong một bài văn sách thi Đình đã đưa ra nhận định không mấy tốt đẹp về các tôn giáo thịnh hành bấy giờ – một biểu hiện cho thấy sức ảnh hưởng của Phật giáo như là một quốc giáo khuynh loát đời sống chính trị quốc gia đã không còn nữa dưới thời Hậu Lê:

“Giáo lý của đạo Phật, đạo Lão hết thẩy đều mê đời, lừa dân, che lấp nhân nghĩa, cái hại của nó không thể kể hết, mà lòng người lại rất tin, mê”.

Từ những nhận định đó, Lê Thánh Tông đã lệnh cho các phủ, lộ không xây thêm chùa, quán mới. Bên cạnh đó, thời Hồng Đức cũng chứng kiến sự biến mất của giới tăng quan, mà thay vào đó khoa cử đóng vai trò chủ chốt trong việc tuyển lựa người tài ra làm quan.

Có quan điểm cho rằng những biểu hiện này phản ánh quá trình thế tục hóa ở chỗ các tôn giáo đã mất hoặc giảm dần thẩm quyền của nó (thông qua giáo hội và chức sắc) đối với hoạt động quản trị quốc gia, và phần nào đó, đối với xã hội.

Lịch sử Việt Nam từng có lúc 'phế Phật lập Nho'

Tuy vậy, một số khác lại cho rằng hiện tượng “phế Phật, lập Nho” của triều Hậu Lê, hoặc sau này là triều Minh Mạng, chưa thể được coi là biểu hiện của quá trình thế tục hóa, mà đơn thuần chỉ là việc thay đổi tôn giáo được chọn làm quốc giáo. Sự khác biệt quan điểm này liên đới trực tiếp với những tranh luận rằng Nho giáo có nên được coi là một tôn giáo hay đơn thuần chỉ là một hệ thống triết lý và đạo đức về đối nhân xử thế và trị nước.

Thế tục hóa là hiện đại hóa

Giữa thế kỷ 19, trong khi ở Việt Nam, Minh Mạng và sau đó là Thiệu Trị đang mải mê thi hành những chính sách hà khắc về tôn giáo như cấm đạo, sát đạo để bảo vệ giềng mối Nho gia thì ở nước Anh, nhà văn George Jacob Holyoake (1846) đã lần đầu tiên sử dụng thuật ngữ chủ nghĩa thế tục (secularism) như “là một kiểu quan điểm chỉ quan tâm tới những vấn đề có thể được kiểm tra bằng kinh nghiệm trong cuộc đời này”.

Có nguồn gốc từ sự nổi lên của Cách mạng Khoa học và Kỷ nguyên Khai minh và đi liền là sự suy thoái về tầm ảnh hưởng của tôn giáo nói chung và Giáo hội La Mã nói riêng ở châu Âu, tiến trình thế tục hóa (secularization) đã diễn ra sâu rộng trên khắp các mặt của đời sống chính trị xã hội và trở thành một biểu hiện đặc sắc của tiến trình lý tính hóa (rationalization) và hiện đại hóa (modernization), làm thay đổi bộ mặt Tây phương thời bấy giờ.

Hai nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa thế tục là phân tách nhà nước khỏi các tổ chức tôn giáo; và tất cả người dân với bất kể tôn giáo nào (kể cả không tôn giáo) đều bình đẳng trước pháp luật. Đây cũng chính là những đặc điểm của văn hóa chính trị hiện đại ở các nước Tây phương mà dựa trên đó, tự do tôn giáo, tinh thần đa nguyên và khoan dung được bắt rễ.

Không chỉ ở cấp độ văn hóa chính trị, tính thế tục còn được khẳng định ở trong các văn bản pháp lý ở các nền dân chủ. Nếu như Tu chính án thứ Nhất là lời tuyên xưng cho tính chất thế tục của Hiến pháp Hoa Kỳ (và được củng cố qua nhiều án lệ trong đó Tối cao Pháp viện viện dẫn Tu chính án này) thì ở Pháp, tính chất này được ghi nhận trong một loạt các văn kiện quan trọng từ Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền, Luật 1905 về Phân chia Giáo hội và Nhà nước, rồi sau đó là Hiến pháp 1958.

Tu chính án thứ Nhất, Hiến pháp Hoa Kỳ:

Hiến pháp Hoa Kỳ nhấn mạnh tính thế tục của thể chế nhà nước

Quốc hội sẽ không ban hành một đạo luật nào nhằm thiết lập tôn giáo hoặc ngăn cấm tự do tín ngưỡng, tự do ngôn luận, báo chí và quyền của dân chúng được hội họp và kiến nghị Chính phủ sửa chữa những điều gây bất bình.

Như vậy, để trở thành những nhà nước thế tục (secular state) như hiện nay các quốc gia Tây phương đã đi một chặng đường dài cả ở cấp độ lý thuyết lẫn thực hành mà kèm với nó là không ít những biến động lịch sử.

Nhưng bù lại, chủ nghĩa thế tục, một khi đã bắt rễ và cấu thành một phần của văn hóa chính trị, sẽ giúp tạo ra một khuôn khổ pháp lý và tập quán xã hội tôn trọng tự do tôn giáo, tự do biểu đạt, tinh thần đa nguyên và bình đẳng, từ đó củng cố nền móng cho các nền dân chủ tự do, nhất là trong bối cảnh đa tôn giáo, đa văn hóa như hiện nay.

Từ góc độ đó mới thấy, thiếu vắng những cuộc tranh luận về tính thế tục trong đời sống chính trị xã hội ở một nước đa tôn giáo như Việt Nam, có khi lại không phải một điều gì đáng mừng.

Bài của Nguyễn Anh Tuấn có tựa đề 'Chuỗi tràng hạt của Thủ tướng và nguyên lý nhà nước thế tục' đã đăng trên trang Luatkhoa.org. thể hiện quan điểm riêng của tác giả.

BBC 04/03/2015

XEM THÊM:

Chuỗi tràng hạt của Thủ tướng và nguyên lý nhà nước thế tục

04/02/2015 • by Nguyễn Anh Tuấn / Vấn đề Pháp lý
blank
Nguyễn Anh Tuấn – Vụ thảm sát tòa soạn báo Charlie Hebdo ở Paris, Pháp nhắc nhở cả thế giới về mối quan hệ giữa nhà nước và tôn giáo, cũng như cách thức mà một nhà nước hiện đại cần phải ứng xử trước các vấn đề tôn giáo. Chủ nghĩa thế tục là cụm từ được nhắc đến như một trong những nguyên lý cơ bản của các nhà nước hiện đại, đồng thời được dùng để lý giải cách thức mà chính phủ cũng như các cơ quan tư pháp của Pháp phản ứng trước sự kiện Charlie Hebdo.

Luật Khoa tạp chí trân trọng giới thiệu bài viết của tác giả Nguyễn Anh Tuấn về nguyên lý thế tục, trước khi bắt đầu đăng tải chuyên đề dài kỳ về vụ việc Charlie Hebdo từ ngày mai, 5/2/2014.

***

Hai nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa thế tục là phân tách nhà nước khỏi các tổ chức tôn giáo; và tất cả người dân với bất kể tôn giáo nào (kể cả không tôn giáo) đều bình đẳng trước pháp luật.

Thế tục bị lãng quên

Ngày 28 tháng 10 năm 2014, trong chuyến công du Ấn Độ, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã viếng thăm Bồ Đề Đạo Tràng [1]. Hình ảnh người đứng đầu Chính phủ ngồi xếp bằng, tay đeo tràng hạt, cung kính chắp tay lạy Phật như một Phật tử thuần thành xuất hiện khắp trên các tờ báo lớn của Việt Nam. Tuy nhiên, chưa thấy ai đặt vấn đề liệu hành vi trên của ông có mâu thuẫn với việc ông phủ nhận có theo bất kỳ tôn giáo nào trong các bản khai lý lịch của mình. Cũng vậy, công luận Việt Nam lúc ấy cũng vắng bóng những cuộc tranh cãi về tính hợp lý của những hành vi tôn giáo nơi công cộng của các lãnh đạo quốc gia, điều đôi khi sẽ bị coi là thất sách về chính trị (politically incorrect) ở những nước coi trọng tính thế tục.
blank
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tham dự nghi lễ tôn giáo tại đền Mahabodhi ở Bồ Đề Đạo Tràng của Ấn Độ ngày 27 tháng 10, năm 2014 trước khi đến New-Delhi. Ảnh: AFP/RFA

Trong một diễn biến khác, ngày 9 tháng 11 năm 2014, Ủy ban An toàn Giao thông Quốc gia, một cơ quan trực thuộc Chính phủ, phối hợp với Giáo hội Phật giáo Việt Nam tổ chức đại lễ cầu siêu cho tất cả nạn nhân tai nạn giao thông trong cả nước. Tham dự đại lễ này với tư cách Phó Chủ tịch Ủy ban ATGT QG, Bộ trưởng Đinh La Thăng phát biểu:

“Với sự gia hộ của mười phương chư Phật, cùng công đức trì niệm của hàng trăm tăng ni, tín đồ Phật tử và gia đình thân quyến tại trai đàn cầu siêu sẽ giúp cho hương linh những người không may bị tử nạn do tai nạn giao thông siêu đăng Phật quốc. Cũng nhờ đạo hạnh của chư Phật, chư tăng ni gia trì cho gia đình các nạn nhân đủ niềm tin, nghị lực nén những đau thương mất mát, sớm vượt qua những khó khăn trước mắt để tiếp tục xây dựng cuộc sống và xã hội ngày thêm an lành, tốt đẹp”. [2]

Thật khó để phân biệt giữa phát biểu của một viên chức chính phủ với một chức sắc tôn giáo trong trường hợp này. Tuy vậy, cũng như trường hợp Thủ tướng, thời điểm đó công luận Việt Nam không xuất hiện một cuộc tranh luận đáng kể nào về giới hạn can dự của cơ quan hành chính vào các sinh hoạt tôn giáo cũng như vấn đề tính chất trung lập về tôn giáo trong các phát ngôn của viên chức đại diện chính phủ.

Dường như, tính thế tục trong phát ngôn và hành động của chính khách vẫn chưa hoặc không phải là một chủ đề được quan tâm trong dư luận Việt Nam, mặc dù, ở cấp độ hành chính, đã có quy định cấm thờ cúng và thực hành nghi lễ tôn giáo trong cơ quan nhà nước; và, ở cấp độ tư tưởng, nhà nước Việt Nam đã nhiều lần khẳng định trong Hiến pháp rằng họ chọn chủ nghĩa Marx-Lenin, một học thuyết duy vật, làm nền tảng tư tưởng cho mọi hoạt động của nhà nước và xã hội.

Ngược dòng lịch sử

“Đại Sán, tu sĩ Phật giáo người Trung Hoa được nói đến ở các chương trước, vào năm 1695, đã quan sát thấy cung điện của Nguyễn Phúc Chu được trang hoàng với cờ Phật giáo, trướng, cá gỗ và những quả chuông lộn ngược, giống như một ngôi chùa Phật giáo vậy” [3]. Li Tana trong tác phẩm Xứ Đàng Trong đã trích thuật những mô tả của nhà sư Đại Sán để cho thấy trong quá trình lập quốc ở Đàng Trong, các chúa Nguyễn đã chọn Phật giáo Đại thừa làm tôn giáo nhà nước (state religion) để khẳng định và củng cố tính chính danh thế quyền của họ bằng một kiểu cách mà O.W. Wolters chỉ ra, ở Đông Nam Á, “địa vị vua có tính cách duy nhất chỉ bởi vì đó là một địa vị có tính cách tôn giáo” [4].

Đây là một hiện tượng thú vị, song các chúa Nguyễn ở Đàng Trong không phải là thế lực chính trị đầu tiên hoặc duy nhất trong lịch sử Việt Nam xác lập Phật giáo làm tôn giáo nhà nước nhằm củng cố tính chính danh vương quyền. Các triều đại Lý – Trần cũng thể hiện xu hướng này đậm nét, với đặc trưng là sự phổ biến của hiện tượng các nhà sư tham chính, nắm giữ các vị trí cao cấp trong triều đình (chẳng hạn, các Quốc sư cho vua Lý đa phần là các bậc tăng sư), cũng như hiện tượng xuất gia của các vị vua khi đang ở đỉnh cao quyền lực, đặc biệt có những vị như Phật Hoàng Trần Nhân Tông còn là tổ của một tông phái thiền.

Tuy vậy, lịch sử Việt Nam cũng ghi nhận những trào lưu phê phán mô hình nhà nước Phật giáo, đặc biệt là trong các giai đoạn thắng thế của Nho gia khi nó được các lực lượng nắm quyền lựa chọn làm hệ tư tưởng thống nhất của quốc gia. Lê Thánh Tông (1442-1497) trong một bài văn sách thi Đình đã đưa ra nhận định không mấy tốt đẹp về các tôn giáo thịnh hành bấy giờ – một biểu hiện cho thấy sức ảnh hưởng của Phật giáo như là một quốc giáo khuynh loát đời sống chính trị quốc gia đã không còn nữa dưới thời Hậu Lê:

“Giáo lý của đạo Phật, đạo Lão hết thẩy đều mê đời, lừa dân, che lấp nhân nghĩa, cái hại của nó không thể kể hết, mà lòng người lại rất tin, mê” [5].

Từ những nhận định đó, Lê Thánh Tông đã lệnh cho các phủ, lộ không xây thêm chùa, quán mới. Bên cạnh đó, thời Hồng Đức cũng chứng kiến sự biến mất của giới tăng quan, mà thay vào đó khoa cử đóng vai trò chủ chốt trong việc tuyển lựa người tài ra làm quan.

Có quan điểm cho rằng những biểu hiện này phản ánh quá trình thế tục hóa ở chỗ các tôn giáo đã mất hoặc giảm dần thẩm quyền của nó (thông qua giáo hội và chức sắc) đối với hoạt động quản trị quốc gia, và phần nào đó, đối với xã hội. Tuy vậy, một số khác lại cho rằng hiện tượng “phế Phật, lập Nho” của triều Hậu Lê, hoặc sau này là triều Minh Mạng, chưa thể được coi là biểu hiện của quá trình thế tục hóa, mà đơn thuần chỉ là việc thay đổi tôn giáo được chọn làm quốc giáo. Sự khác biệt quan điểm này liên đới trực tiếp với những tranh luận rằng Nho giáo có nên được coi là một tôn giáo hay đơn thuần chỉ là một hệ thống triết lý và đạo đức về đối nhân xử thế và trị nước. [6]

Thế tục hóa: Biểu hiện của quá trình Lý tính hóa và Hiện đại hóa

Giữa thế kỷ 19, trong khi ở Việt Nam, Minh Mạng và sau đó là Thiệu Trị đang mải mê thi hành những chính sách hà khắc về tôn giáo như cấm đạo, sát đạo để bảo vệ giềng mối Nho gia thì ở nước Anh, nhà văn George Jacob Holyoake (1846) đã lần đầu tiên sử dụng thuật ngữ chủ nghĩa thế tục (secularism) như “là một kiểu quan điểm chỉ quan tâm tới những vấn đề có thể được kiểm tra bằng kinh nghiệm trong cuộc đời này” [7].
blank
Nhà văn George Jacob Holyoake (1817-1906). Ảnh: BBC

Có nguồn gốc từ sự nổi lên của Cách mạng Khoa học và Kỷ nguyên Khai minh và đi liền là sự suy thoái về tầm ảnh hưởng của tôn giáo nói chung và Giáo hội La Mã nói riêng ở châu Âu, tiến trình thế tục hóa (secularization) đã diễn ra sâu rộng trên khắp các mặt của đời sống chính trị xã hội và trở thành một biểu hiện đặc sắc của tiến trình lý tính hóa (rationalization) và hiện đại hóa (modernization), làm thay đổi bộ mặt Tây phương thời bấy giờ.

Hai nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa thế tục là phân tách nhà nước khỏi các tổ chức tôn giáo; và tất cả người dân với bất kể tôn giáo nào (kể cả không tôn giáo) đều bình đẳng trước pháp luật. [8] Đây cũng chính là những đặc điểm của văn hóa chính trị hiện đại ở các nước Tây phương mà dựa trên đó, tự do tôn giáo, tinh thần đa nguyên và khoan dung được bắt rễ.

Không chỉ ở cấp độ văn hóa chính trị, tính thế tục còn được khẳng định ở trong các văn bản pháp lý ở các nền dân chủ. Nếu như Tu chính án thứ Nhất là lời tuyên xưng cho tính chất thế tục của Hiến pháp Hoa Kỳ (và được củng cố qua nhiều án lệ trong đó Tối cao Pháp viện viện dẫn Tu chính án này) thì ở Pháp, tính chất này được ghi nhận trong một loạt các văn kiện quan trọng từ Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền, Luật 1905 về Phân chia Nhà thờ và Nhà nước, rồi sau đó là Hiến pháp 1958.

Tu chính án thứ Nhất, Hiến pháp Hoa Kỳ:

Quốc hội sẽ không ban hành một đạo luật nào nhằm thiết lập tôn giáo hoặc ngăn cấm tự do tín ngưỡng, tự do ngôn luận, báo chí và quyền của dân chúng được hội họp và kiến nghị Chính phủ sửa chữa những điều gây bất bình.

Như vậy, để trở thành những nhà nước thế tục (secular state) như hiện nay các quốc gia Tây phương đã đi một chặng đường dài cả ở cấp độ lý thuyết lẫn thực hành mà kèm với nó là không ít những biến động lịch sử. Nhưng bù lại, chủ nghĩa thế tục, một khi đã bắt rễ và cấu thành một phần của văn hóa chính trị, sẽ giúp tạo ra một khuôn khổ pháp lý và tập quán xã hội tôn trọng tự do tôn giáo, tự do biểu đạt, tinh thần đa nguyên và bình đẳng, từ đó củng cố nền móng cho các nền dân chủ tự do, nhất là trong bối cảnh đa tôn giáo, đa văn hóa như hiện nay.

Từ góc độ đó mới thấy, thiếu vắng những cuộc tranh luận về tính thế tục trong đời sống chính trị xã hội ở một nước đa tôn giáo như Việt Nam, có khi lại không phải một điều gì đáng mừng.

Tài liệu tham khảo:
[1]: Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng thăm nơi đức Phật giác ngộ
[2]: Trọng thể Khai Mạc Đại Lễ Kỳ Siêu các nạn nhân tử vong do tai nạn giao thông cả nước năm 2014
[3][4]: Li Tana, Xứ Đàng Trong, NXB Trẻ 2014, Nguyễn Nghị dịch, tr.225
[5]: Tạ Ngọc Liễn, Nho giáo Việt Nam thế kỷ XV, đầu thế kỷ XVI
[6]:Yong Cheng, Confucianism as Religion: Controversies and Consequences, NXB Brill, tr.1
[7]: George Jacob Holyoake, English Secularism (online version)
[8]:National Secular Society, What is Secularism?
blank
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng nhận quà lưu niệm từ đại diện của chùa Mahabodhi.
07 Tháng Tám 2014(Xem: 17569)
Trong một cuộc họp khẩn cấp kéo dài đến tối khuya Chủ Nhật hôm trước, Hội Đồng này đã thông qua một lời nhận định mạnh mẽ nhất về cuộc chiến này, dưới hình thức “một bản thông báo cấp tổng thống” (presidential statement) lên tiếng yêu cầu đôi bên hãy tức thời ngưng bắn để có thể thực hiện được một cuộc trợ giúp và cứu trợ cần thiết cho khối dân Palestine khốn khổ đang nằm trong hai lằn lửa đạn.
04 Tháng Tám 2014(Xem: 19750)
Nhưng tôi không khỏi có cảm giác đó chính là những gì ông muốn nói khi được hỏi về sự phát triển của vùng cao nguyên ở Việt Nam trong cuộc gặp tình cờ tại miền nam nước Pháp. Chính xác hơn ông Nguyên Ngọc nói về "lời nguyền tài nguyên".
31 Tháng Bảy 2014(Xem: 19683)
Ngoại trừ các đảng viên nắm quyền, đa số các đảng viên đã không còn tin vào chủ nghĩa xã hội? Đa số các đảng viên về hưu ‘không còn tha thiết với con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội nữa’, một đảng viên kỳ cựu tham gia ký tên vào thư ngỏ gửi Ban chấp hành Trung ương Đảng nói với BBC.
28 Tháng Bảy 2014(Xem: 20733)
Đã hơn một tuần kể từ khi Trung Quốc di chuyển giàn khoan 981, dù có một vài nghi ngại nhưng nhìn chung dư luận Việt Nam đã tương đối lắng dịu, đặc biệt với sự xuất hiện của siêu bão Ramasun và vụ tai nạn máy bay MH17.
25 Tháng Bảy 2014(Xem: 17852)
Giáo sư Tương Lai cho biết sáng qua, khi đọc nội dung tuyên bố của tổ chức Diễn đàn Xã hội Dân sự (một tổ chức phản động chống Nhà nước) đã lên tiếng quyết liệt phản đối âm mưu lợi dụng tình hình phức tạp trên Biển Đông hiện nay để thực hiện mưu đồ chính trị của tổ chức này.
22 Tháng Bảy 2014(Xem: 18267)
“Trong tình hình đất nước Việt Nam chúng ta ngày nay, những người tham gia đấu tranh – qua hình thức xã hội dân sự (XHDS) hay đảng chính trị (ĐCT) – hầu hết là những người lý tưởng, sẵn sàng hy sinh hạnh phúc cá nhân cho đại nghĩa. Lãnh đạo Hà Nội sẵn sàng dùng mọi thủ đoạn để triệt tiêu các đoàn thể không nằm trong khuôn khổ của chế độ, nên những người có lòng đối với dân tộc và đất nước càng phải đoàn kết, gắn bó với nhau hơn bất kể phương thức đóng góp cho đại cuộc là XHDS hay ĐCT.
21 Tháng Bảy 2014(Xem: 19125)
Thế là chuyện lạ đã xảy ra...Quốc Hội Hoa Kỳ đã nhất trí thông qua Nghị Quyết về biển Đông, yêu cầu Trung Quốc quay về nguyên trạng trước ngày 1/5/2014, tức là yêu cầu TC rút giàn khoan 981, một việc mà Quốc Hội Việt Nam đã không dám làm, đã không thể làm và thực sự đã không làm...
17 Tháng Bảy 2014(Xem: 18453)
Sáng ngày 16/7, trang nhà của Bộ ngoại giao Trung Quốc đã chính thức xác nhận giàn khoan Hải Dương 981 đã di dời ra khỏi vùng biển của Việt Nam và đang hướng về đảo Hải Nam. Tin này cũng được báo Tuổi Trẻ Online ngày 16/5 loan tải dẫn lời của ông Ông Hà Lê, Phó Cục trưởng Cục kiểm ngư thuộc Bộ Ngư nghiệp và Phát triển nông thôn của CSVN.
15 Tháng Bảy 2014(Xem: 17893)
Ngày 4 tháng 7 năm 2014 Hội Nhà báo độc lập Việt Nam (HNBĐLVN) tên tiếng Anh là Independent Journalists Association of Vietnam (IJAVN) công khai tuyên bố thành lập nhằm “Làm thế nào để báo chí và các nhà báo cất được tiếng nói theo đúng nghĩa của hai từ “tự do”?
13 Tháng Bảy 2014(Xem: 21872)
Nhớ lại những ngày đầu năm 1973. Sau đợt ném bom Hà Nội những ngày Giáng Sinh tháng 12 năm 1972. Hội nghị Paris họp lại. Hai bên ngả ngũ rất nhanh. Không khí Hà Nội hân hoan, mọi việc khẩn trương, ngừng bắn, hòa bình đến nơi rồi. Trong tầm tay. Phía Mỹ mệt mỏi ra mặt, chỉ muốn quên 2 chữ Việt Nam cho sớm nhất. Phía ‘’ta’’ lúc ấy cũng mệt mỏi, Bắc Kinh hòa hoãn với Mỹ, thậm chí chìa tay bè bạn để cô lập Liên Xô.
10 Tháng Bảy 2014(Xem: 18232)
Những người bạn trẻ mới ra tù như Nguyễn Tiến Trung và Đỗ Thị Minh Hạnh đều thốt lên với gương mặt rạng rỡ đến ngỡ ngàng “Thật không thể tin nổi!”.
08 Tháng Bảy 2014(Xem: 19197)
Một nhà nghiên cứu hải quân của Mỹ nhận định trên nhật báo New York Times rằng Trung Quốc nhiều khả năng sẽ chiến thắng ‘trong mọi kịch bản có thể’ nếu xảy ra chiến sự với Việt Nam.
06 Tháng Bảy 2014(Xem: 18127)
Để có một xã hội dân sự đúng nghĩa và hiệu quả, Tự do Ngôn luận là một quyền không thể thiếu. Một khi chính kiến và ý kiến của mọi thành phần xã hội có được môi trường biểu hiện một cách tự do, thì tinh thần dân chủ mới có điều kiện thực thi.
03 Tháng Bảy 2014(Xem: 20212)
Nhà báo Bùi Tín hiện sống tự do ở Pháp, là một nhà báo chuyên nghiệp, một nhà bình luận thời sự quốc tế, và là cộng tác viên thường xuyên của đài VOA. Đối tượng chính của nhà báo Bùi Tín là giới trí thức trong và ngoài nước, đặc biệt là tuổi trẻ Việt Nam quan tâm đến quê hương tổ quốc.
01 Tháng Bảy 2014(Xem: 18487)
Năm 16 tuổi, tôi tình nguyện đi bộ đội khi bom Mỹ ném quanh Hà Nội và cuộc chiến trực tiếp cầm súng đã làm tôi hết cả tuổi xanh. Hòa bình trở về, bao nhiêu năm sau, nỗi ám ảnh bởi những gì trải qua trong chiến tranh luôn gây cho tôi những cơn mơ khủng khiếp
29 Tháng Sáu 2014(Xem: 16900)
Trung Quốc tiếp tục leo thang gây căng thẳng tại Biển Đông : Phát hành bản đồ « đường 10 đoạn » nuốt gọn 80% biển Đông Nam Á, đưa thêm 4 giàn khoan dầu vào khu vực, sử dụng hàng trăm tàu thuộc lực lượng tuần duyên trấn áp cảnh sát biển Việt Nam. Bắc Kinh thật sự tính toán gì ?
26 Tháng Sáu 2014(Xem: 16601)
- Gần 2 tháng bị phản đối vì đặt trái phép giàn khoan 981, Trung Quốc không lùi bước mà kéo thêm 4 giàn khoan ra Biển Đông, có nhiều tuyên bố phá vỡ nguyên trạng hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc chủ quyền Việt Nam, diễn biến tiếp tới theo ông sẽ là gì?
22 Tháng Sáu 2014(Xem: 16246)
Trao đổi với báo chí trước thềm hội thảo tại Đà Nẵng, GS Nguyễn Quang Ngọc, Phó Chủ tịch Hội khoa học lịch sử VN, chia sẻ những thách thức khi biến những bằng chứng lịch sử thành chứng cứ pháp lý trong trường hợp VN kiện TQ ra tòa về những hành động xâm phạm chủ quyền.
20 Tháng Sáu 2014(Xem: 20975)
Cách đây hơn một năm, các em trường PTTH Nguyễn Hiền – Sài Gòn đã có một bữa tiệc ăn mừng bằng hành động xé đề cương ôn thi sử ném xuống sân trường, khi nghe thông báo môn lịch sử không đưa vào môn thi tốt nghiệp PTTH kỳ thi năm 2013 (http://tuoitre.vn/).
13 Tháng Sáu 2014(Xem: 18706)
Hiệp định Genève 1954 là hiệp định được kí kết để khôi phục hòa bình ở Đông Dương. Vào ngày 26 tháng 4 năm 1954, hội nghị Genève về Đông Dương chính thức được khai mạc.