Hà Văn Thùy: Vai trò Văn hóa “Tiên Nhân Động” trong lịch sử dân tộc Việt

06 Tháng Chín 20227:51 SA(Xem: 3545)

VĂN HÓA ONLINE - DIỄN ĐÀN 2 - THỨ TƯ 07 SEP 2022

Ý kiến/Bài vở vui lòng gởi về:  lykientrucvh@gmail.com


Vai trò Văn hóa “Tiên Nhân Động” trong lịch sử dân tộc Việt

image003

Hà Văn Thùy


Ngày 29.9 năm 1998, trong bài báo Quan hệ di truyền của dân cư Trung Quốc (Genetic relationship of populations in Chia), Giáo sư J.Y Chu và cộng sự từ Đại học Texas lần đầu tiên công bố: “40.000 năm trước, người từ Việt Nam đi lên chiếm lĩnh Hoa lục.” Tuy dùng tư liệu này cho nghiên cứu của mình nhưng tôi chưa thật yên tâm vì thông tin chưa được kiểm chứng. Năm 2013, các nhà di truyền học sử dụng công nghệ mới nhất, làm giầu lượng DNA ít ỏi thu được từ những mảnh xương ống chân của một người cổ tìm được trong Hang Điền Nguyên phía Bắc thành Bắc Kinh xác nhận, đó là người đàn ông từ Hòa Bình Việt Nam lên 40.000 năm trước. Ông là tổ tiên của người Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản và là thủy tổ của người Mỹ bản địa. (1)


Như vậy, thông tin về việc người Việt Nam đi lên chiếm lĩnh Hoa lục được khẳng định. Nhưng trong tình hình khí hậu lúc đó, có lẽ đại bộ phận người di cư sẽ quần tụ tại Nam Hoa lục nơi khí hậu ấm áp hơn. Điều tôi băn khoăn là khảo sát gần 50 di chỉ Thời đá mới ở Nam Dương Tử chỉ thấy những di chỉ có tuổi 6000 – 7000 năm trở lại mà hầu như không có tuổi sớm hơn. Nhưng rồi thật may mắn, vào năm 2012 tôi tra cứu được di chỉ Tiên Nhân Động thuộc tỉnh Giang Tây. (2)


image005Tiên Nhân động


image007Đồ gốm 20.000 năm trước.


image009Mảnh gốm đầu tiên trên thế giới 20.000 năm trước


Tiên Nhân Động nằm ở chân núi Tiểu Hà, thuộc quận Vạn Niên phía Đông Bắc tỉnh Giang Tây, cách sông Dương Tử 100 km về phía nam.


Hang có một sảnh lớn bên trong, rộng khoảng 5 mét, cao 5-7 m với một lối vào nhỏ, chỉ rộng 2,5 m và cao 2 m. Nằm cách Tiên Nhân Động khoảng 800 m với cửa vào cao khoảng 60 m, là hang đá Điếu Thông Hoàn chứa các tầng văn hóa giống như Tiên Nhân Động. Một số nhà khảo cổ tin rằng nó đã được sử dụng như một khu cắm trại của cư dân Tiên Nhân Động.


Bốn tầng văn hóa đã được phát hiện tại Tiên Nhân Động, xác nhận hoạt động của con người kéo dài từ thời kỳ đồ đá cũ thượng sang thời kỳ đồ đá mới với ba nghề nghiệp thời kỳ đồ đá mới ban đầu. Tất cả dường như đại diện chủ yếu cho lối sống đánh bắt cá, săn bắn và hái lượm, mặc dù một số bằng chứng về quá trình thuần hóa lúa sớm đã được ghi nhận.


Vào năm 2009, một nhóm nghiên cứu quốc tế Mỹ-Trung đã tập trung vào các lớp mang đồ gốm nguyên vẹn ở đáy hang, và một bộ niên đại từ 12.400 đến 29.300 cal BP được xác nhận. Mảnh gốm 2B-2B1, chịu niên đại cacbon phóng xạ 10 AMS, dao động từ 19.200-20.900 cal BP, làm cho gốm của Tiên Nhân Động trở thành đồ gốm được xác định sớm nhất trên thế giới hiện nay. Tiên Nhân Động thể hiện năm thời kỳ chuyển tiếp:


• Thời kỳ Đồ đá mới 3 (9600-8825 RCYBP)


• Thời kỳ Đồ đá mới 2 (11900-9700 RCYBP)


• Thời kỳ đồ đá mới 1 (14.000-11.900 RCYBP) có phytoliths của O. sativa


• Chuyển đổi thời kỳ đồ đá cũ-đồ đá mới (19,780-10,870 RCYBP)


• Epipaleolithic (25.000-15.200 RCYBP) chỉ có phytoliths của Oryza hoang dã


Các bằng chứng khảo cổ cho thấy việc chiếm đóng sớm nhất tại Tiên Nhân Động là một thời gian lâu dài, với bằng chứng là các lò sưởi đáng kể và các đống tro. Chủ đạo là lối sống săn bắt-đánh cá-hái lượm, chú trọng vào hươu và lúa hoang (với phytoliths của Oryza nivara).


• Đồ gốm: tổng số 282 đồ gốm đã được phục hồi từ các cấp độ cổ nhất. Chúng có thành dày không đồng đều từ 0,7 đến 1,2 cm, với các đế tròn, được chế tác bằng vật chất vô cơ (cát, chủ yếu là thạch anh hoặc fenspat). Bột nhão có kết cấu giòn và lỏng lẻo và có màu nâu đỏ không đồng nhất là kết quả của quá trình nung không đồng đều ở ngoài trời. Hình thức chủ yếu là lọ hình túi đáy tròn, có bề mặt nhám, mặt trong và mặt ngoài đôi khi được trang trí bằng các vạch dây, các vân mịn và / hoặc các ấn tượng giống như cái giỏ. Chúng dường như được làm bằng hai kỹ thuật khác nhau: bằng kỹ thuật cán tấm hoặc cuộn và kỹ thuật mái chèo.


• Công cụ bằng đá: Công cụ bằng đá là những công cụ bằng đá đẽo nhỏ dựa trên các mảnh vụn, với dao cạo, bánh quy, đường đạn nhỏ, mũi khoan, vết khía và răng giả. Kỹ thuật chế tạo công cụ bằng đá búa cứng và búa mềm. Tầng cổ nhất có một tỷ lệ nhỏ các công cụ bằng đá được đánh bóng, đặc biệt là so với các cấp độ thời kỳ đồ đá mới.


• Dụng cụ xương: lao và mũi nhọn đánh cá, kim, đầu mũi tên, và dao gọt vỏ.


• Thực vật và động vật: Chủ yếu là hươu, nai, chim, sò, rùa và phytoliths lúa hoang.


Hiện vật thời kỳ đồ đá mới sơ khai ở Tiên Nhân Động có tiến bộ đáng kể. Gốm có thành phần đất sét đa dạng hơn và nhiều loại gốm được trang trí bằng các thiết kế hình học. Bằng chứng rõ ràng cho việc trồng lúa, với sự hiện diện của phytoliths cả O. nivara và O. sativa. Ngoài ra còn có sự gia tăng các công cụ đá mài, với ngành công nghiệp chủ yếu là đá cuội bao gồm một vài đĩa đá cuội đục lỗ và đá cuội phẳng.


Thông báo của các nhà khảo cổ chứa đựng thông tin vô cùng giá trị. Nó cho thấy rằng, tuy có mặt ở Nam Dương Tử từ 40.000 năm trước nhưng người Hòa Bình phải mất 15.000 năm du cư mới bắt đầu cuộc sống định cư 25.000 năm trước. Nhưng chỉ sau khi định cư 5000 năm đã chế tác đồ gốm đầu tiên trên thế giới. Nó cũng cho biết, 13.000 năm trước, cây lúa hoang xuất hiện. Một câu hỏi: lúa hoang từ đâu ra? Ta biết rằng, lúc này đang trong Kỷ Băng hà nên loại cây thảo như lúa hoang khó có thể xuất hiện trên vùng lạnh giá này. Chỉ có khả năng là được con người mang từ Việt Nam lên. Tôi cho rằng, người từ Hòa Bình đi lên mang theo giống lúa trồng khô chưa được thuần hóa. Trong môi trường đầm lầy ẩm ướt, cây lúa được đưa xuống ruộng nước. Người Tiên Nhân Động trồng và thu hoạch hạt lúa hoang Oryza nivara. Được chăm sóc tốt hơn trong điều kiện cách ly với cây hoang dã nên không còn bị tạp giao khiến lúa được thuần hóa dần. Tới 12.400 năm trước, lần đầu tiên trên thế giới, cây lúa thuần hóa Oryza sativa ra đời, ghi nhận thành tựu vĩ đại thứ hai của người Việt Cổ. Thời kỳ này, công cụ đá mài cũng đươc đưa lên từ văn hóa Bắc Sơn, tiếp sức cho việc trồng lúa.


Trên đất Trung Quốc, Tiên Nhân Động là di chỉ sớm nhất có phytoliths của cả lúa hoang và lúa thuần nên có cơ sở xác dịnh là nơi thuần hóa lúa đầu tiên. Nhưng trên thực tế, hầu hết học giả thế giới mà dẫn đầu là Dorian Fuller của Đại học Luân Đôn cho rằng lúa được thuần hóa sớm nhất tại Bát Lý Cương Trung lưu Dương Tử khoảng 6500 – 6000 năm trước. (3) Tôi hỏi Fuller: “Tại sao không công nhận lúa được thuần hóa 12.400 năm trước ở Tiên Nhân Động?” Ông trả lời: “Ở đấy không có hạt lúa và cơ sở xương gai (spikelets bases) …” Tôi thưa lại: “Hạt là bằng chứng có mặt của lúa. Nhưng tiêu chí đáng tin nhất để phân biệt lúa hoang và lúa trồng là phytoliths của lúa. Tại Tiên Nhân Động đã xuất hiện phytoliths của lúa thuần có nghĩa là ở đó có cây lúa đã được thuần hóa!” Ông không trả lời tôi và đương nhiên, tiếp tục quan điểm của mình, cũng là của số đông.


Thông thường, nhà nghiên cứu vạch ra định hướng rồi đi theo hướng mà mình xác định. Cũng như đa số học giả khác, Dorian Fuller thuộc trường phái ủng hộ “Con đường di cư phía Bắc cho ra nông dân Trung Quốc rồi nông dân Trung Quốc mang theo cây lúa thay thế người bản địa làm nên dân cư cùng nông nghiệp Đông Nam Á.” Một xu hướng như vậy tất phải coi cây lúa 9000 năm trước ở Giả Hồ là lúa hoang. Phải xuống tới Bát Lý Cương ở trung lưu Dương Tử 6000 năm trước lúa mới được thuần hóa. Tiếp theo là khoảng 4000 năm trước, cây lúa được đưa xuống Đông Nam Á lục địa. Tại đây một bộ phận lúa nước được đưa lên trồng khô, phát sinh phương thức lúa rẫy…


 Chúng tôi theo hướng ngược lại, cho rằng, chỉ có con đường duy nhất phía nam đưa người di cư châu Phi tới Việt Nam 70.000 năm trước, cho ra người Việt cổ chủng Australoid. Người Việt cổ sớm trồng rau củ, quả, bổ sung thực phẩm nên tăng số lượng, đi lên chiếm lĩnh Hoa lục 40.000 năm trước. Khoảng 15.000 năm trước, người Việt bắt đầu trồng kê và lúa khô theo lối bán tự nhiên. Do chăm sóc không đầy đủ, lại không được cách ly với quần thể hoang dã nên cây lúa và kê không được thuần hóa. Khoảng 13.000 năm trước, lúa và kê chưa thuần hóa được đưa lên trồng ở Tiên Nhân Động. Trong môi trường ẩm ướt, lúa được đưa xuống nước. Nhờ chăm sóc tốt hơn nên khoảng 12.400 năm trước, cây lúa thuần Oryza sativa ra đời. Trong khi đó, kê là cây trồng phụ, vẫn được trồng theo lối cũ nên chưa được thuần hóa. Khoảng 10.000 năm trước, Kỷ Băng hà kết thúc, mùa Xuân đến với phương Bắc. Người từ Nam Dương Tử đi lên lưu vực Hoàng Hà, mang theo giống kê và lúa. Khoảng 9000 năm trước cây lúa thuần O. sativa được trồng tại Giả Hồ còn kê chưa thuần hóa được trồng ở Bùi Lý Cương. Ở vùng cao phía Bắc Sơn Đông và Ngưỡng Thiều thuộc cao nguyên Hoàng Thổ, do khô hạn nên kê trở thành cây trồng chủ lực. Nhờ được chăm sóc tốt và cách ly với cây hoang dã nên khoảng 8000 năm trước, tại khu vực này cây kê được thuần hóa. Như vậy, con người xuất hiện sớm nhất ở Việt Nam sau đó chiếm lĩnh Hoa lục, đưa nghề nông tới lưu vực Hoàng Hà.


Cố nhiên ý tưởng “lạc loài” của tay nghiên cứu nghiệp dư sẽ không được công nhận. Và hẳn một lần nữa, lại có người nói lời từng nghe quen: “Phải biết mình là ai chứ? Tuổi mấy mà dám tranh cãi với học giả quốc tế? Anh chỉ là cử nhân, trong khi người ta là giáo sư tiến sỹ!” Vâng, biết thân biết phận của mình nên hơn một lần tôi đề nghị những bậc thầy khoa học thế giới trả lời hai câu hỏi để tôi được mở mang đầu óc:


  1. Nếu thực có con đường phía Bắc đưa người châu Phi tới Đông Á thi đó là những ngươi Mongol, Altaic, Tungusic, Eskimos…  thuộc chủng North Mongoloid, sống trên đất Siberia phía Bắc Hoàng Hà. Trong khi đó, “nông dân Trung Quốc” thuộc chủng South Mongoloid sống chủ yếu tại Nam Hoàng Hà. Họ từ đâu ra và xuất hiện khi nào? 
  2. Nếu thực có số đông nông dân Trung Quốc tràn xuống, thay thế người bản địa, làm nên dân cư Việt Nam thì đương nhiên, người Việt Nam phải là con cháu người Trung Quốc. Và cũng hoàn toàn tự nhiên, độ đa dạng sinh học của người Việt Nam phải thấp hơn người Trung Quốc. Trong khi đó, trên thực tế, các khảo cứu DNA dân cư châu Á đã khẳng định: “Dân cư châu Á thuộc chủng South Mongoloid, trong đó người Việt Nam có đa dạng sinh học cao nhất, nên là dân cư cổ nhất.” (4)

Rõ ràng là, phương án “nông dân Trung Quốc thay thế người bản địa làm nên dân cư Viêt Nam” không thể trả lời những câu hỏi trên. Chỉ có phương án duy nhất hợp lý là người từ Việt Nam đi lên khai phá Hoa lục. Trên con đường Bắc tiến, Tiên Nhân Động là địa điểm đầu tiên người Việt định cư 25.000 năm trước. 20.000 năm trước chế tác công cụ gốm đầu tiên và 12.400 năm trước thuần hóa thành công cây lúa Oryza sativa.


Mong rồi có một ngày đẹp trời, con cháu chúng ta sẽ tới Tiên Nhân Động huyện Vạn Niên tỉnh Giang Tây dựng đài kỷ niệm bước chân khai phá phương Đông của tổ tiên.


Sài Gòn, 8. 2022


Hà Văn Thùy


Tài liệu tham khảo.


1.  Qiaomei Fu et al. Tianyuan DNA analysis of an early modern human from Tianyuan Cave, China

https://www.pnas.org/content/110/6/2223

2.   K. Kris Hirst. Yuchanyan and Xianrendong Caves - Oldest Pottery in the World

https://www.thoughtco.com/yuchanyan-cave-hunan-province-china-173074

3.  Dorian Q Fuller et al. The spread of agriculture in eastern Asia: Archaeological bases for hypothetical farmer/language dispersalshttps://www.researchgate.net/publication/320917812_The_spread_of_agriculture_in_eastern_Asia_Archaeological_bases_for_hypothetical_farmerlanguage_dispersals
4.  S.W. Ballinger et al. Southeast Asian Mitochondrial DNA Analysis Reveals Genetic Continuity of Ancient Mongoloid Migrations
5.  https://www.ncbi.nlm.nih.gov/pmc/articles/PMC1204787/pdf/ge1301139.pdf