Trần Thùy Mai: Từ Dụ Thái Hậu

12 Tháng Ba 20247:35 SA(Xem: 1746)

VĂN HÓA ONLINE – VĂN HỌC NGHỆ THUẬT - THỨ BA 12 MAR 2024


LTS: Tòa soạn Văn Hóa Online vừa nhận được trọn bộ Tiểu thuyết ‘Từ Dụ Thái Hậu' của Nhà Văn Trần Thùy Mai gởi tặng. Truyện – Tác phẩm gồm Quyển Thượng và Quyển Hạ.


Truyện – Tác phẩm lấy bối cảnh hậu cung để làm nền cho câu chuyện về cuộc đời bà Phạm Thị Hằng, vợ vua Thiệu Trị, mẹ vua Tự Đức, sau trở thành hoàng thái hậu Từ Dụ.


Thời gian câu truyện trải dài 30 năm, qua ba triều vua Nguyễn: Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị, từ lúc Phạm Thị Hằng 13 tuổi theo cha ở phương Nam về kinh đô, chịu bao thăng trầm dâu bể rồi trở thành người đứng đầu hậu cung.


Ngoài trục trung tâm xoay quanh bà Từ Dụ, tác giả mở rộng biên độ với các nhân vật tương ứng mối quan hệ quân thần, huynh đệ. Những yêu ghét, hận thù, toan tính, thủ đoạn cùng tồn tại trong hậu cung, được hóa giải bằng tình yêu, lòng từ bi, nổi bật là hình tượng Từ Dụ Thái hậu - người phụ nữ ở trung tâm quyền lực triều Nguyễn.


Bộ tiểu thuyết "Từ Dụ Thái hậu" do Nhà xuất bản Phụ nữ ấn hành. Ảnh bìa: NXB Phụ nữ.


Trân trọng cảm tạ Nhà Văn Trần Thùy Mai đã gởi đến bạn đọc Văn Hóa Online bộ tiểu thuyết được giới nhà văn trong nước hiện nay đánh giá là hay nhất, mở ra một kỷ nguyên mới về văn chương văn học.


Truyện khá dài (500 trang), tòa soạn đăng tải làm nhiều kỳ. Mời quí bạn thưởng ngoạn. (lkt)


Từ Dụ Thái Hậu

image001

Nhà văn Trần Thùy Mai

image004

QUYỂN THƯỢNG


Chương 1

Lệnh vua


Buổi trưa hôm ấy, cả nhà quan Tham tri Phạm Đăng Hưng náo loạn lên vì một lệnh khẩn


cấp từ triều đình ban xuống.


Lúc sáng sớm, Phạm Đăng Hưng vẫn còn đang tận hưởng một buổi sáng nhàn nhã. Trong


vườn nhà, quan tham tri ngồi trên tấm ghế đá dưới gốc xoài, thong thả dạy cho con gái nhỏ đọc


mấy bài thơ trong cuốn Kinh Thi.


Tiểu thư nhà họ Phạm là Phạm Thị Hằng năm ấy lên mười tuổi, ngồi ngay ngắn bên cha,


nhẩm đọc. Đôi bím tóc xinh xinh buông xuống hai bên đôi má phính hồng.


Phạm phu nhân đang ngồi quay tơ lách cách dưới mái hiên tranh, lên tiếng:


- Quan lớn ơi, con mình là con gái. Cho học chữ nhiều quá, mai sau giỏi hơn chồng là


phiền lắm đó!


Phạm Đăng Hưng cười:


- Bà cứ lo xa, bộ con mình không lấy nổi tấm chồng giỏi như cha nó sao?


Phu nhân cười không nói, đứng dậy xếp guồng tơ, đi lấy lúa vãi cho đàn gà đang chờ ăn


trên sân. Tuy là danh sĩ của phương Nam, thi đậu thủ khoa tam trường, làm tới chức tham tri,


nhưng Phạm Đăng Hưng quá thanh liêm nên của nả chẳng có gì, trước sau vẫn chỉ có ngôi nhà


ba gian hai chái. Ba năm trước, thân phụ qua đời, theo lệ hễ cha mẹ mất thì con phải cáo quan,


cư tang ba năm. Phạm Đăng Hưng về quê hương Giồng Sơn Quy chịu tang, số lương hàng tháng


đã ít lại bị cắt giảm càng ít hơn. Vì vậy tiếng là nhà quan lớn nhưng chẳng thuê người hầu, mọi


việc phu nhân đều tự mình cáng đáng.


Nhìn đàn gà xúm xít mổ thóc trên sân, bà nhắc chồng:


- Ngày mãn tang thân phụ mình sắp đến rồi đó. Việc cỗ bàn, quan lớn định mời những ai,


để tôi còn lo liệu.


- Việc lễ nghi cốt ở lòng thành. Mình chỉ mời bà con trong họ và những chỗ tình xưa


nghĩa cũ. Phu nhân liệu cơm gắp mắm giúp tôi.


Phạm phu nhân ngần ngừ:


- Tôi nghĩ đằng nào cũng phải mời quan phủ Tân An, rồi quan huyện, rồi chức sắc trong


vùng... Quan lớn là bậc triều quan, không giao du với quan tỉnh sở tại, người ta lại nói mình cao


ngạo.


Phu nhân chưa dứt lời, Phạm Đăng Hưng đã lắc đầu ngay lập tức:


- Thôi, thôi, mấy cái chuyện giao đãi đó không có cần đâu! Đừng làm theo cái thói thông


thường, cái thói vô đạo, đem việc thờ cúng cha mẹ ra làm cớ để mời mọc xu phụ nhau.


Phu nhân không dám cãi, nhưng trong lòng phân vân dữ lắm. Nín thinh hồi lâu, bà mới


hạ giọng thăn thỉ, thổ lộ nỗi lo thầm kín trong lòng:


- Quan lớn mấy năm nay về Nam cư tang, chức cũ đã có người ngồi, phải chờ bổ nhiệm


chức mới. Mình về đây xa xôi, lại không giao du với ai, không có lễ vật thư từ gì. Ở đây quan


tỉnh không nhắc, ngoài kinh đô bộ Lại họ cứ lờ đi, thì uổng phí thời giờ của quan lắm!


- Hừ, bổ nhiệm quan lại là phận sự của triều đình, chẳng cần mình phải lo. Cùng lắm thì


tôi đi cày nuôi bà, đã chết ai đâu mà phải làm cái chuyện luồn cúi.


“Thật đúng là Thiên hạ đệ nhất gàn”, phu nhân thầm nghĩ.


Thật ra Đăng Hưng chẳng phải không nóng lòng trở lại quan trường. Lúc bấy giờ đang


buổi đầu triều Nguyễn, vua Gia Long lên ngôi chưa đến mười năm, đế chế chỉ mới đang dần dần


hoàn thiện. Đấy chính là cơ hội để người tài ra phò vua giúp nước, đâu có phải thời suy mạt mà


kẻ sĩ phải tính chuyện về nhà đi cày. Nhưng tại sao ông cứ nấn ná việc quay lại triều đình, việc


ấy tất phải có lý do.


Cái lý do ấy, không ai hiểu, kể cả vợ ông.


Lúc ấy đang đầu xuân, hoa nở chim hót, cũng là lúc các cô gái mới lớn đẹp rực rỡ, má


thắm môi hồng. Vì vậy, cứ ba năm một lần, triều đình ban lệnh tuyển cung nữ ngay sau rằm


tháng Giêng. Quan lại địa phương phải kê khai nhà dân nào có con gái từ mười ba đến mười sáu


tuổi chưa chồng, nữ quan của triều đình sẽ về xem xét lựa chọn. Những cô gái này, nếu được


chọn sẽ được đưa về Đại nội, được dạy lễ nghi quy tắc rồi sung làm thị nữ hầu hạ trong cung.


Trong lúc làm người hầu cho các bà hoàng, thỉnh thoảng cũng có cô nhờ nhan sắc, nhờ


tinh khôn mà lọt vào mắt xanh của vua, rồi nhảy lên địa vị phi tần, vượt mặt cả chủ nhân. Tuy


vậy chuyện đó ít khi xảy ra, đa số đều tiêu mòn dần tuổi thanh xuân trong cung cấm lạnh lẽo.


Mặc dù được trả lương bổng hậu hĩ, cha mẹ ở quê được miễn sưu dịch, nhưng người cung nữ


phải xa lìa nhà cửa quê hương, ít nhất cũng mười năm sau mới được quay về.


Chính vì vậy mà vào dịp cuối đông, các nhà dân có con gái đều đua nhau gả con để thoát


cái lệ tuyển cung nữ. Cứ sắp đến Tết Nguyên đán là pháo đã nổ rộn ràng khắp nơi, lâu dần tháng


Chạp đã được dân gian mặc nhiên xem là mùa cưới.


Đó là với nhà dân dã, chứ còn với nhà quan thì khác hẳn.


Con nhà dân, dù giàu dù nghèo, vào cung đều phải làm thị nữ. Con quan không như vậy.


Ngoài triều đình quan tước chia thành Cửu phẩm từ thấp đến cao, thì các tiểu thư khi nhập cung


cũng mặc nhiên theo chức phẩm của cha mà được xếp vào chín bậc Cửu giai: cao nhất là Nhất


giai phi, thấp nhất là Cửu giai Tài nhân. Dù cao dù thấp, với nhà quan, có con gái tiến cung là


một vinh dự lớn. Chẳng những là vinh dự, mà còn là mối lợi trông thấy trước mắt: ít nhất, con


mình ở trong cung, thì không có quan trên nào dám đè ép hoặc lấn lướt mình. Thứ hai, nhiều


quan chức ranh ma khéo léo, ỷ vào việc con gái mình ở gần mặt trời, họ kết giao với những chỗ


quyền thế rồi “chạy” cho người ta việc này việc nọ, cũng thu được bao nhiêu mối lợi.


Vì vậy các quan đua nhau chạy chọt cho con gái mình nhập cung. Bộ Hộ và Tôn Nhân


phủ nhận quà biếu từ các quan lớn, nên đã dần dần điều chỉnh tuổi ứng tuyển của các tiểu thư


thấp xuống rất nhiều. Đầu thời Gia Long là mười ba tuổi, nhưng đến nay nhiều tiểu thư chỉ cần


lên mười đã được đưa vào danh sách.


Mùa xuân này, để tổ chức cho các đoàn Phụng cung Thượng tuyển đi lại, ăn ở, bộ Hộ đã


xin triều đình chi ra đến hai vạn quan tiền. Trong dịp tế khai canh vào rằm tháng Giêng ở Giồng


Sơn Quy, bên mâm rượu với các chức sắc trong hương thôn, Phạm Đăng Hưng nói vui:


- Ba năm trước Hưng còn tại chức, lãnh nhiệm vụ chánh chủ khảo kỳ thi Hương, toàn thể


chi phí cho kỳ thi chỉ hơn một vạn. Xưa nay vua chúa lên ngôi, thường lập tức ra lệnh tuyển mỹ


nữ, còn sớm hơn xuống chiếu cầu hiền tài. Hèn chi ngày xưa đức Khổng Tử đã than: Ta chưa


thấy ai yêu đạo đức hơn yêu sắc đẹp, bây giờ Hưng ngẫm lại thấy đúng lắm!


Câu nói đùa trong lúc trà dư tửu hậu, ai ngờ lại truyền miệng đến tai quan phủ. Quan phủ


lấy làm sợ hãi, vội báo lại với Tổng trấn Gia Định thành.


- Tham tri họ Phạm là thượng quan của triều đình về cư tang tại địa phương, bỗng dưng


lại có lời nói bất kính với hoàng thượng. Hạ quan là bậc dưới, không biết xử lý thế nào nên phải


trình lên Đức ông Tổng trấn.


Lúc đó chức Tổng trấn thành Gia Định được xem như Phó vương, thay mặt vua toàn


quyền sinh sát trong cả miền Nam. May cho Đăng Hưng, tổng trấn lúc đó là Tả quân Lê Văn


Duyệt. Ông Duyệt nghe, đã không bắt tội mà còn vỗ đùi khoái trá, bật lên lời khen:


- Cái ông Hưng này hay thật, nói sao mà đúng thế!


Quan phủ nghe vậy, vội vâng vâng, dạ dạ, không dám cãi. Trong lòng quan lo âu: Sợ e


Đăng Hưng biết được chuyện “mách lẻo” này sẽ đem lòng ghét mình. Vì vậy, để vớt vát lại,


quan lập tức làm một cử chỉ thịnh tình đặc biệt cho nhà họ Phạm: Đưa Phạm tiểu thư vào hàng


đầu danh sách tuyển phi.


Thịnh tình này, không ngờ lại làm Phạm Đăng Hưng chết điếng. Cái vinh hạnh đưa con


vào cung, lại là chuyện mà ông “Thiên hạ đệ nhất gàn” này sợ nhất.


- Quan lớn ơi, tôi lo lắm. Lệnh vua đòi mà không tuân, rồi triều đình có bắt tội con gái


mình không? - Phu nhân thăn thỉ hỏi chồng.


- Bà đừng có yếu bóng vía. Hoàng đế đã ngoài năm mươi tuổi, trong cung đông đúc lắm


rồi, thực tâm cũng không chí thú cái chuyện tuyển phi này đâu. Có điều mấy ông quan ai cũng


nài nỉ tiến con vào cung, nên ngài mới phải chiều theo thói thường đó thôi.


- Thì đó! Có con làm phi tần là danh giá cả nhà, người ta ai cũng ham mà sao quan lớn lại


không chịu.


- Bà ơi, ai ham kệ họ, chứ tôi không có chịu đem con làm cái mồi mua danh kiếm lợi đâu.


Mình chỉ có một đứa con gái, tìm người hiền lương tài giỏi mà gả, chẳng hơn là đem đun vào


cung cấm thui thủi lạnh lẽo sao?


Phu nhân biết tính chồng, cả đời không nghĩ gì giống người ta. Bà lặng lẽ vá xong tấm


áo. Vừa đứng dậy xuống bếp định nấu cơm, phu nhân giật mình: ngoài cửa sao ồn ào lạ thường,


tiếng vó ngựa vừa dừng, tiếng trẻ con hò reo.


Cô bé Hằng từ ngoài sân chạy vào đứng bên mẹ, đôi mắt bồ câu mở to bỡ ngỡ.


Một đoàn nha lại đang dừng ngựa trước ngõ, láo nháo kéo vào nhà, tống đạt công văn.


“Phủ Tân An vừa nhận được thánh chỉ: lệnh truyền lập tức đưa Tham tri Phạm Đăng


Hưng ra kinh đô!”


Phu nhân ôm mặt kêu lên:


- Chết rồi, tôi nói có sai đâu! Triều đình bắt tội, quan lớn có làm sao thì thiếp chết mất!


Thời ấy, vua là tối thượng. Vua là cao nhất rồi mới đến cha, chữ Trung cao hơn chữ


Hiếu. Phạm Đăng Hưng không kịp làm lễ đại tường mãn tang cho thân phụ, vội vã lên đường ra


Phú Xuân.


Trước lúc ra đi, ông dặn lui dặn tới:


- Nhất định phu nhân phải giữ con ở nhà, không cho tiến cung, dù ai có thúc ép bao nhiêu


cũng không nghe.


Đâu ai biết vì sao triều đình lại bắt Phạm Đăng Hưng phải băng bộ ra đi như vậy? Chẳng


phải như Phạm phu nhân lo lắng: vua bắt tội vì trái lệnh triều đình. Nhà vua đâu có quan tâm đến


việc cỏn con nơi xa xôi như thế.


Nguyên nhân trực tiếp khiến nhà vua gọi Đăng Hưng lại là một chuyện nhỏ trong cung –


hay nói cho đúng là từ trong Ngự trù – nơi chuẩn bị đồ ăn thức uống cho hoàng đế. Nói cho


chính xác hơn, thì là câu chuyện về một người nữ tỳ.


Chương 2

Người nữ tỳ


Hôm ấy, trong Bếp hoàng cung, nô tỳ là Hạnh Thảo đang lúi húi ngâm nếp, đãi đậu,


chuẩn bị sáng mai nấu món xôi ngũ sắc dâng vua. Chung quanh cô, mười chín nô tỳ khác đang


làm việc, không ai nói với ai một lời. Theo lệ thường, từ sau giờ Tuất, tất cả thái giám, cung nữ,


cấm binh đều phải tuyệt đối im hơi nín tiếng.


Vì vậy, Hạnh Thảo giật mình nghe tiếng gọi khẽ của bác Quản Kim, đội trưởng:


- Hạnh Thảo, hoàng hậu truyền gọi con.


Hạnh Thảo tưởng mình nghe lầm, buông cái rá đầy nếp thơm La Khê, khiến nó chìm


xuống trong chậu đồng to đầy nước. Cô định cúi xuống vớt lại, thì bác Quản đã giục:


- Cứ để đó, nhanh lên, người trên đang chờ.


“Người trên” đây là cung nữ Hà Nhi, thị nữ thân tín của hoàng hậu. Hạnh Thảo vừa đi


vừa quơ tay cài lại khuy áo dài, vuốt lại hai vạt áo mà mỗi khi làm bếp cô vẫn giắt vào lưng quần


cho gọn. Tim đập loạn xạ, cô đánh bạo hỏi:


- Chị ơi, hoàng hậu gọi em có việc chi rứa?


Hà Nhi, quê ở phủ Thanh Hoa, theo hầu hoàng hậu từ khi còn nhỏ, nay cũng đã cứng tuổi


rồi nhưng theo quy định trong cung vẫn chỉ được gọi bằng chị.


- Ta đâu dám bép xép, đắc tội với bề trên! - Hà Nhi vừa bước nhanh vừa lắc đầu.


Hạnh Thảo càng thêm hoang mang… Chợt Hà Nhi quay lại, hỏi nhỏ:


- Có phải cô chính là người làm món bánh gai hôm qua, trong tiệc mừng sinh nhật Tam


phi?


Hạnh Thảo ngớ ra một lúc mới nhớ. Hôm kia, bác Quản Kim, đội trưởng đội Thượng


thiện đã gọi cô, bảo là hoàng hậu sai làm tiệc sinh nhật cho Tam phi Ngọc Bình. Tam phi là


người được hoàng thượng sủng ái, tiệc này hoàng thượng đích thân làm chủ yến nên bề trên đã


dặn phải làm thật đặc biệt.


Hạnh Thảo mới vào làm nô trong Ngự trù được hơn nửa năm, ban đầu cũng chỉ được bác


Quản Kim giao cho việc rửa rau, xách nước lặt vặt thông thường. Dần dần bác phát hiện ra:


không biết do trời phú hay do học của ai, người nô tỳ này có tài nấu nướng khác người, món gì


quý lạ đến đâu cũng biết. Trong khi đó, bác Quản Kim xuất thân là hỏa đầu quân trong đội giáp


binh hộ vệ nhà vua. Thắng trận về kinh đô, các quan cứ tính theo công trạng thời chiến mà phong


chức tước. Bác Quản được sung làm đội trưởng đội Thượng thiện, hàm Tòng thất phẩm. Tuy sở


trường nấu nướng, nhưng bác cũng chỉ biết đồ ăn trong quân ngũ. Mỗi lần có tiệc tùng bác xoay


xở rất vất vả, bởi vậy nay có Hạnh Thảo, bác mừng như bắt được vàng.


Nhớ lại bữa tiệc hôm qua, Hạnh Thảo hỏi, giọng run run:


- Chị ơi… Bánh gai em làm có sao không?


Hà Nhi không đáp, chỉ rảo bước nhanh hơn, dẫn Hạnh Thảo vào một hành lang nhỏ, chỉ


cho cô một dãy ghế gỗ:


- Hoàng hậu đang còn tụng kinh. Cô ngồi đây, một chút nữa tôi sẽ ra gọi.


Ánh đèn lồng trên vách tỏa xuống gương mặt lo âu của cô bé nô tỳ tội nghiệp. Thấy vậy,


Hà Nhi thương tình vỗ vai:


- Em đừng sợ, hoàng hậu rất nhân từ. Chút nữa lệnh bà hỏi gì, em cứ bình tĩnh mà thưa.


Hạnh Thảo hơi đỡ lo, khẽ gật đầu nhìn Hà Nhi với ánh mắt biết ơn.


Trong cung Khôn Thái, hoàng hậu Tống Thị Lan vừa tụng xong ba thời kinh Phổ Môn.


Rời chiếc chiếu hoa, bà đứng dậy. Hoàng hậu năm nay đã ngoài năm mươi, đầu gối bắt đầu đau


nhức nên bà không khỏi loạng choạng, hai thị nữ ứng hầu phải vội chạy đến nâng hai bên.


- Tâu hoàng hậu, người nô tỳ ở đội Thượng thiện đã đến hầu.


Hoàng hậu khẽ gật đầu:


- Hãy để ta an tĩnh một lát.


Bà ngồi xuống tràng kỷ, dựa lưng vào chiếc gối thêu, đưa mắt nhìn lên vách. Nơi đó có


treo bức vẽ, trong hình là một cậu bé khôi ngô tuấn tú, đầu đội khăn vấn thắt hoa, mình mặc sắc


phục đỏ. Đó là hoàng thái tử Nguyễn Phúc Cảnh khi còn nhỏ. Đã nhiều năm rồi, đêm nào hoàng


hậu cũng nhìn bức tranh này, để sống lại những ngày xa xưa…


Năm bà mười hai tuổi, kinh thành Phú Xuân của chúa Nguyễn bị quân Trịnh từ ngoài


Bắc vào chiếm đóng. Cô tiểu thư Tống Thị Lan phải theo cha chạy vào miền Nam, bắt đầu cuộc


đời gian nan của những triều thần chạy loạn. Bốn năm sau, có người đưa lễ vật đến xin cưới,


người đó lại chính là hoàng tôn Nguyễn Phúc Ánh vừa mới xưng vương. Nguyễn vương Phúc


Ánh khi ấy còn rất nghèo, cơ nghiệp của chúa Nguyễn đã mất hết phải gây dựng lại từ hai bàn


tay trắng. Nàng dâu trẻ phải theo chồng nay đây mai đó trong xứ phương Nam đầy bưng biền lầy


lội. Hoàng tử Cảnh, đứa con đầu lòng của hoàng hậu ra đời trong những ngày tháng long đong


mà vô cùng hạnh phúc ấy.


Hoàng tử Cảnh... Đứa con thân thương giờ đây đã thành tro bụi, chỉ còn lại linh hồn trong


di ảnh. Mỗi đêm, sau thời kinh tối, lúc nào hoàng hậu cũng dành thời gian lặng ngắm bức tranh


này.


Một hồi lâu sau, hoàng hậu mới dời mắt, vẫy tay, hai thị nữ chầu hầu đồng loạt lui ra.


Ngoài cửa, Hà Nhi vén màn, ra hiệu cho Hạnh Thảo tiến vào, quỳ lạy.


Hoàng hậu nhìn chăm chú người nữ tỳ trẻ tuổi. Khuôn mặt thiếu nữ hiền hậu, đoan trang.


Ánh mắt e dè, phảng phất buồn. Người nữ nô này, thân phận thấp hèn, công việc lam lũ, sao lại


có dáng dấp thanh mảnh như thế này.


- Các món ăn trong tiệc hôm qua, có phải chính tay con làm không? - Hoàng hậu hỏi.


- Dạ tâu lệnh bà, chính con.


- Ta gọi con đến đây là để ban khen. Lâu nay mỗi bữa hoàng thượng chỉ dùng chút ít ngự


thiện, mà rất ít khi vừa miệng. Tiệc hôm qua thật đặc biệt, ngài rất vui lòng.


Hạnh Thảo như trút được một gánh nặng. Đôi mắt vốn u buồn chợt sáng lên, rạng rỡ:


- Con xin tạ ơn lệnh bà.


Hoàng hậu gật đầu:


- Ta muốn con ở lại cung Khôn Thái, làm đầu bếp riêng cho ta.


- Ô, tâu…


Hạnh Thảo ngạc nhiên, chới với. Từ lúc vào cung, cô chỉ biết một góc Ngự trù, gian nhà


ngói rộng thênh ám khói. Bây giờ mình sẽ vào ở trong tòa điện cao quý này ư?


Nhưng ở Ngự trù hay ở cung vàng điện ngọc, phận nô tỳ liệu có khác gì không? Cô ngẩn


người ra, còn đang suy nghĩ thì Hà Nhi đã nhắc:


- Còn băn khoăn gì nữa, mau tạ ơn hoàng hậu đi!


Như cái máy, Hạnh Thảo dập đầu tạ ơn.


- Hạnh Thảo, từ nay, con đã là người của ta. - Hoàng hậu nói. - Ta tụng kinh niệm Phật,


thanh đạm quen rồi. Nhưng lâu lâu hoàng đế ngự đến, ngài cần phải được chăm sóc đặc biệt. Ta


muốn con sẽ làm cho cung Khôn Thái những món ngon như hôm qua.


Hạnh Thảo bây giờ đã tỉnh hồn, cô hiểu rằng được vào làm đầu bếp riêng cho hoàng hậu


là một vinh dự. “Tâu vâng, con xin hết lòng vì hoàng hậu”. Chợt nhớ lúc nãy Hà Nhi hỏi về món


bánh gai, cô đánh bạo hỏi:


- Tâu hoàng hậu, món bánh gai con làm hôm qua, lệnh bà có vừa ý không ạ?


Vừa nghe, hoàng hậu bỗng đổi ngay sắc mặt, nín lặng một giây rồi nhíu mày:


- Món bánh gai rất ngon, nhưng con chớ nên làm, nhất là khi có hoàng đế ngự tới. Hãy


nhớ lời ta.”


Hạnh Thảo ngẩn người. Cô không dám hỏi tại sao, vì hoàng hậu đã ra hiệu cho lui.


Còn lại một mình, hoàng hậu vịn vai thị nữ, chậm rãi bước về nội tẩm. Chỗ hoàng hậu


ngủ trang hoàng rất nhã đạm, màn trướng đều một màu lam, màu của chiếc áo tràng bà thường


mặc khi tụng kinh niệm Phật.


Đã lâu lắm rồi, hoàng đế Gia Long không còn ngự qua đêm ở cung Khôn Thái nữa.


Ngài chỉ đến thăm hoàng hậu một tháng đôi lần. Những bữa ăn chung giữa hai vợ chồng


vương giả càng lúc càng ngắn lại. Nhà vua đã lớn tuổi, ăn uống khó khăn và kén chọn, không


còn như thời lưu lạc ở phương Nam, thuở hai vợ chồng trẻ còn chia nhau chén cơm với món tôm


chua trộn quế. Hoàng hậu đặt lưng xuống nệm, bất giác mỉm cười hạnh phúc khi nhớ lại ngày


hôm qua, lâu lắm rồi, bà mới thấy người chồng thương yêu của bà ngon miệng như thế, sảng


khoái như thế…


Trong khi đó, Hạnh Thảo đang đi qua hành lang sáng mờ, lầm lũi bước ra khỏi cung.


Lòng băn khoăn về số phận của món bánh gai, cô thầm nghĩ: chuyện gì trong cung đình cũng


thật là khó hiểu.


Chương 3

Tam phi Ngọc Bình


Lúc ấy, trong viện Tần Trang, Tam phi Ngọc Bình cũng đang nhớ về bữa tiệc hôm qua,


nhưng với một tâm trạng khác hẳn.


Nằm vùi trong đống gối thêu, Tam phi nhắm mắt, vẻ mặt đượm một nỗi buồn tê tái. Vú


Sửu, người đã theo nàng từ Thăng Long vào Phú Xuân, bưng bát cháo yến lại gần, vỗ về:


- Xin lệnh bà chịu khó nhấp môi vài thìa nhỏ. Sáng giờ chưa có chút gì vào bụng, nhỡ


kiệt sức thì nguy?


Tam phi lắc đầu, nghẹn ngào:


- Vú ơi…


Trong cả hoàng cung rộng lớn này, Tam phi chỉ tin được người nhũ mẫu trung thành này


thôi. Mỗi ngày, nàng nín buồn, nín khổ, chỉ những lúc còn một mình với nhũ mẫu, nàng mới


dám khóc. Hôm qua, trước mắt mọi người thì nàng là người đàn bà diễm phúc nhất, là phi tần


được sủng ái nhất. Quả thật, vốn Tam phi rất khảnh ăn, món nào cũng chỉ gẩy đũa nhưng hôm


qua nàng rất vui thích với bữa tiệc đặc biệt. Các món ăn tuy dân dã mà tinh tế lạ thường.


Cho đến lúc tàn tiệc, nô tỳ dâng đồ tráng miệng, món bánh ít lá gai làm rất khéo. Lớp vỏ


bánh bằng bột nếp thơm sánh mịn, quyện lá gai giã nhuyễn đen nhánh, lấm tấm mè rang thơm


dòn, nhụy bánh đậu xanh ngọt thanh dẻo mềm, và lớp nhân dừa bùi béo bên trong…


Tam phi không biết, mà cũng chẳng ai biết rằng nô tỳ Hạnh Thảo, người thực hiện bữa


tiệc đã làm món bánh này đặc biệt cho riêng nàng. Dù chưa bao giờ gặp Tam phi, nhưng cô cũng


như các đầu bếp khác trong Ngự trù đều phải biết mỗi người trong hoàng gia xuất thân là người


vùng nào, sức khỏe và sở thích ăn uống ra sao…


Đang vui thích cầm chiếc bánh gai, bỗng Tam phi giật mình vì Nhị phi Trần Thị Đang,


người đang ngồi bên phải hoàng hậu bỗng cất tiếng:


- Tâu hoàng thượng! Thật là một việc khinh quân phạm thượng, dù đang là tiệc vui


nhưng không nói không được!


Nghe Nhị phi nói, cả bàn tiệc đều giật mình buông đũa, bởi “khinh quân phạm thượng” là


một từ mỗi lần vang lên, rất thường có kẻ bị rơi đầu.


Hoàng đế Gia Long nhìn sang Nhị phi:


- Có chuyện gì vậy, ái khanh?


Nhị phi đứng dậy, đôi mắt phượng long lanh, sắc sảo:


- Cái bánh gai ni, vốn xuất xứ từ Bình Định, quê hương của Ngụy Tây Sơn. Nó là cái


bánh của Ngụy, ai dám đem lên trưng ra trước mặt hoàng thượng?


Cả bàn tiệc bất giác dồn mắt vào Tam phi. Bởi ai cũng biết, Tam phi Lê Thị Ngọc Bình


trước đây vốn là hoàng hậu của hoàng đế Quang Toản nhà Tây Sơn. Quang Toản thua trận, cả


nhà anh em con cháu đều bị tru diệt thê thảm trước cửa kinh thành. Chỉ riêng hoàng hậu Ngọc


Bình, nhờ có nhan sắc xinh đẹp nên đã được Gia Long hoàng đế miễn tội chết…


- Bọn Ngụy Tây Sơn lấy danh nghĩa phò Lê diệt Trịnh, từ trong Bình Định ra đây cướp


kinh thành của các chúa Nguyễn ta, đem theo cái thứ bánh ni. Cái bánh ni lẽ ra cũng phải chịu


tru diệt với bọn loạn thần tặc tử đó mới đúng! Sao lại dám ngang nhiên chường ra trước mặt


rồng?


Hoàng hậu thủng thỉnh, nhẹ nhàng:


- Ba anh em Tây Sơn cướp kinh thành của ông bà ta, chứ cái bánh gai có tội lỗi gì đâu


em.


Nhị phi vờ như không nghe, chỉ qua một món bánh khác trên dĩa:


- Thần xin vô phép, cái bánh phu thê ni cũng rứa. Bánh phu thê vốn gốc ngoài miền Bắc,


do Ngụy hoàng hậu Ngọc Hân khi lấy Quang Trung Nguyễn Huệ, vô Huế làm dâu mới đem theo


vô đây. Đúng là cái bánh không có tội, nhưng cần chi mình phải dùng thức ăn thức uống của


quân Ngụy. – Nhị phi bỗng cao giọng: - Tam phi, ngày xưa em làm dâu nhà Tây Sơn đã từng


dùng những thứ bánh ni, bây giờ em đã làm dâu nhà Nguyễn, không lẽ còn lưu luyến thức xưa


vật cũ?


Vua Gia Long lừ mắt nhìn Tam phi. Tam phi đang cắn dở miếng bánh, vội dừng lại, xanh


mặt, run rẩy:


- Các món ăn là do đội Thượng thiện dâng lên, em nào có dính líu gì đâu?


Nhị phi quay mặt đi, không thèm nhìn:


- Bởi vậy, phải phạt nặng tên đội trưởng Thượng thiện! Ít nhất cũng phải đuổi cổ ra khỏi


Ngự trù.


Hoàng hậu thấy không khí nặng nề quá, ghé đầu về phía nhà vua, nói nhỏ:


- Thiếp xin thỉnh ý hoàng thượng… Theo thiếp thì đang trong tiệc vui mừng, hà tất phải


việc bé xé ra to như thế! Hơn nữa, đội trưởng Thượng thiện ngày trước trung thành với ta lắm.


Cái năm mình phải chạy ra đảo Thổ Chu, mấy ngày chỉ ăn cơm nhạt. Có người hỏa đầu quân


dâng món tôm chua trộn với quế chi, hoàng thượng khen mãi, chính là Quản Kim này đó! Nay


tuy sơ suất, xin hoàng thượng tha tội cho một lần.


Vua Gia Long gật đầu, ra hiệu cho hoàng hậu cứ ngồi yên.


- Hãy truyền ý trẫm: - Ngài nhìn Nhị phi: - Cái gì liên quan đến nhà Tây Sơn, nhất thiết


bỏ đi không được dùng đến. - Nhìn Tam phi, ngài tiếp: - Riêng Ngọc Bình, nay đã một lòng theo


trẫm thì là người của trẫm, can gì mà sợ? - Ngài lại quay sang hoàng hậu: - Đội trưởng Thượng


thiện rất đáng khiển trách, nhưng nể lời hoàng hậu trẫm tạm tha cho lần này, lần sau còn vô ý sẽ


giao Tổng quản thái giám định tội.


Mọi người trong tiệc thở phào nhẹ nhõm. Tam phi nín thít, gắng gượng nhấp chung trà,


mà cũng chẳng biết mình đang nhấp thứ gì trên môi. Nhị phi cảm thấy hả hê, bà cố ý nói lớn:


- May phúc cho tên đội trưởng! Bận sau mà còn như vầy thì đầu không còn trên cổ đó! -


Bà vừa liếc nhìn Tam phi, vừa nói với kẻ hầu người hạ đứng quanh: - Các ngươi phải nhớ, xóa


sạch dấu vết nhà Tây Sơn, không được để lại một cái chi liên quan đến chúng cả, biết chưa?


Vua Gia Long tán thành:


- Đúng đấy, không lưu lại một dấu vết gì cả.


Hoàng hậu kín đáo mỉm cười. Tam phi cúi gầm mặt.


Giờ đây, bên vú Sửu, Tam phi mới dám khóc, khóc tức tưởi, tủi hờn. Đây không phải lần


đầu nàng bị người ta làm cho hổ nhục. Vú Sửu xót xa, chỉ biết ôm nàng vào lòng, vỗ về.


Thị nữ Hạnh Nhi bước vào:


- Bẩm lệnh bà, thái giám vừa báo tối nay sau giờ Tuất, hoàng thượng sẽ ngự đến. Xin bà


đi tắm và điểm chút phấn son. Luật lệ trong cung, không trang điểm mà ra mắt hoàng thượng là


mắc tội đó, thưa bà.


Tam phi lau nước mắt, ủ dột:


- Ta còn tội gì mà chưa mắc nữa đâu? Trong hoàng cung này, ta chỉ là một tử tội còn


sống mà thôi.


Hạnh Nhi ra rồi, vú Sửu lấm lét nhìn theo, nói nhỏ:


- Xin bà nói năng cẩn thận một chút. Cái cô Hạnh Nhi ấy, chắc chắn là tay chân của Nhị


phi Trần thị.


Tam phi đang gượng dậy cầm chén trà, chợt đổ hắt vào khay, trừng mắt:


- Ta cần gì vú phải nói mới biết!


Vú Sửu thở dài. Ngọc Bình vụt ôm lấy nhũ mẫu, nức nở:


- Ta khổ lắm, vú ơi!


- Vú biết, vú thương con lắm…


Vú Sửu bất giác gọi Ngọc Bình là con. Tự đáy lòng, bà vẫn thương Tam phi với tấm lòng


người mẹ.


- Từng ngày từng giờ, bà ấy không chừa một dịp nào mà không bêu riếu ta. Vừa hôm


qua, hoàng hậu gọi các cung đến để đọc sách, thế là bà ta không bỏ lỡ dịp, sai cung nữ chọn ngay


truyện Ngu Cơ mà đọc.


- Truyện Ngu Cơ là sao ạ?


Tam phi bứt tóc:


- Ngày xưa bên Tàu, Ngu Cơ là vợ Hạng Võ, Hạng Võ thua trận tự sát, Ngu Cơ cũng tự


đâm vào cổ mà chết. Ý Nhị phi muốn bêu ta, muốn rủa ta sao không chết theo vua Tây Sơn cho


rồi, còn cố sống làm gì. Nghe xong truyện, bà ta lanh lảnh ca ngợi Ngu Cơ, ta biết, mỗi câu ca


ngợi là một câu dúi ta xuống hố sâu tủi nhục…


Tam phi lại nấc lên, đập đầu xuống nệm. Trong đầu nàng vang lên cái giọng liến láu của


mấy cung nữ theo nịnh Nhị phi: “Ngu Cơ tiết liệt đoan trinh, thiệt là tấm gương cho chị em mình


noi theo. Đâu có như bọn phản chúa, lộn chồng đáng kinh tởm…”


Thấy Tam phi quằn quại khóc không thành tiếng, vú già cũng nước mắt chảy quanh:


- Khổ thân con! Hồi mới bị bắt, con đập đầu tự sát, hoàng thượng bắt ngự y cứu chữa cho


bằng được. Họ canh giữ con cả ngày cả đêm, một cái trâm nhọn cũng tước đi không cho con


cài… Mà con cũng hiền quá nên bà ấy mới bắt nạt. Sao con không nhân lúc gần gũi đem hết


nông nỗi tâu với hoàng thượng?


Tam phi nghẹn ngào:


- Không nên đâu, vú ơi…


Vì sao mà không nên, nỗi niềm ấy chỉ có Tam phi hiểu được mà thôi. Vú Sửu dù thân cận


đến đâu cũng khó biết được những gì rất tế vi giữa vua và Tam phi trong chốn chăn màn. “Sao


lại không nên? Hoàng thượng sủng ái con, thường xuyên ngự ở đây, cả hoàng cung này ai chẳng


biết?”


Ngoài màn chợt có tiếng động khẽ, nhũ mẫu vội vàng im bặt.


Thị nữ Hạnh Nhi đang đứng bên ngoài, ghé tai. Thấy bên trong vụt im, Hạnh Nhi vội


đánh tiếng:


- Bẩm lệnh bà, hoàng cung mới có loại son yên chi đẹp lắm, con muốn đưa vào cho lệnh


bà dùng thử.


Nhũ mẫu vội ra đỡ hộp phấn son, đem vào cho Tam phi.


Tam phi hất tay, son phấn lăn đổ khỏi hộp. Vú Sửu luống cuống nhặt lên, ghé tai chủ nói


nhỏ:


- Xin lệnh bà cẩn thận, lỡ sinh chuyện thì phiền lắm!


Tam phi vẫn buông xuôi:


- Chuyện gì cũng chỉ chết là cùng. Nếu không lỡ sinh ra Ngọc Ngôn thì ta cũng chẳng


thiết ở trên đời làm gì nữa.


Nghe nhắc đến tên mình, nàng công chúa nhỏ đang tha thẩn chơi với mấy cái gối thêu


hoa chợt cười sằng sặc, chạy đến nhặt hộp son phấn đổ vãi trên nền gạch.


Ngọc Ngôn, đứa con gái của Tam phi với Gia Long hoàng đế, bị bệnh ngớ ngẩn từ lúc


mới sinh ra. Dù mỗi tháng hoàng đế ngự ở Tam cung vài mươi đêm, nhưng rất ít khi ngài thấy


mặt công chúa. Theo lệ trong cung: cái gì khuyết tật, không hoàn hảo thì không được ra mắt vua.


Hôm nay cũng như mọi hôm, trước khi vua ngự đến, Ngọc Ngôn sẽ được ẵm sang một


cung khác.


Chương 4

Nhị phi và Tả quân


Cùng lúc ấy, trong cung Đoan Trang, Nhị phi trằn trọc mãi không ngủ được. Chỗi dậy, bà


bước ra trước hiên, gọi người hầu pha trà hoa cúc. Tuy hôm qua đã nhân chuyện cái bánh ít gai


mà cho tình địch trẻ tuổi một đòn tối tăm mặt mũi, nhưng bà cũng chỉ hả hê được một chút, rồi


lại đâu vào đấy. Cảm giác tức bực vẫn cứ quanh quẩn trong lòng.


Trong số hơn trăm người đàn bà trong hậu cung, ba người có địa vị cao nhất là hoàng


hậu, Nhị phi và Tam phi. Trong ba người ấy, Nhị phi tuy không phải Chánh cung, nhưng là


người nắm nhiều quyền lực nhất. Bởi hoàng hậu vốn hiền lành, mà lại thường xuyên đau yếu;


Nhị phi thì lanh lợi, mạnh mẽ quyết đoán, nên quyền thưởng phạt trong sáu cung thực sự nằm


trong tay bà.


Mặc dù hầu như cả năm hoàng đế không ngự tới cung Đoan Trang của Nhị phi, nhưng bà


vẫn có ảnh hưởng rất lớn đến những quyết định của ngài. Ngài vẫn thường nói với các triều thần


thân tín: “Các khanh à, trẫm quý nhất là hoàng hậu, thích nhất là Tam phi, nhưng nể nhất chính


là Nhị phi đó!”


Tại sao lại nể, đầu đuôi câu chuyện là thế này.


Trần Thị Đang xuất thân là tùy nữ của bà Chính phi Nguyễn Thị Hoàn, mẹ của Nguyễn


Phúc Ánh, tức là Gia Long hoàng đế sau này. Lúc thành Phú Xuân mất về tay quân nhà Trịnh,


Nguyễn Phúc Ánh chạy vào Nam, Đang theo mẹ và các chị em gái của ngài lẩn tránh trong dân


gian. Ba năm sau, Nguyễn Phúc Ánh xưng vương, sai người lén về Kinh đón cả nhà vào. Cô bé


Trần Thị Đang cũng được đi theo từ ấy.


Cô bé Đang xinh xắn, nhanh nhẹn, can đảm, đã trải gian nan nguy hiểm với chủ nhân,


nên được mẹ vua tin cẩn. Thuở ấy tuy đã xưng vương, nhưng vua luôn bị quân Tây Sơn truy


đuổi, phải lẩn tránh nay đây mai đó. Thái hậu đã già, không thể bôn ba theo con được, lại phải


tiếp tục ẩn náu trong những nhà phú hào ở miền Nam. Nguyên phi Tống Thị Lan là vợ chính của


vua, tất phải chịu hy sinh ở lại phụng dưỡng mẹ chồng. Lo cho con trai nay đây mai đó không


người chăm sóc, thái hậu mới khuyên vua thu Trần Thị Đang làm Tả cung tần, cho theo hầu hạ


trong quân. Tên hiệu Nhị phi bắt đầu có từ đó.


Kể từ ấy, Nhị phi theo vua đi khắp nơi, lúc chạy ra Phú Quốc, lúc sang Xiêm La cầu viện.


Thực tình, nhà vua lúc đó lao tâm khổ tứ về việc khôi phục, nên chẳng mấy quan tâm đến nữ sắc.


Tống Thị Lan, người vợ yêu quý đang phải chịu thương chịu khó chăm sóc mẹ chồng, hy sinh


thiệt thòi như thế, nhà vua không khỏi xót xa. Lấy Nhị phi là để cho thái hậu yên lòng, chứ


không xuất phát từ mong muốn của vua. Thêm nữa, đàn ông với đàn bà thu hút nhau cũng vì


duyên trời xui nên, mà đối với vua lúc ấy, Nhị phi không có chút hấp dẫn gì hết. Vì vậy mà mười


năm trời theo vua, Nhị phi vẫn không sinh nở …


Nhị phi trưởng thành trong gian khó, tính tình quả cảm, hiếu thắng, đã muốn gì thì quyết


đạt cho bằng được. Về sau này, bà vẫn lấy làm thẹn về việc không được vua gần gũi trong bao


nhiêu năm, nên thường thêu dệt thành câu chuyện nói với tả hữu: “Thuở ấy còn khó khăn, giặc


Tây Sơn ngày đêm truy đuổi, nên ta thường thắp hương khấn vái cho đừng có con. Sợ nhỡ khi bị


giặc truy bức, vứt bỏ con thơ thì thương, mà đem theo thì không khỏi làm bận cho thánh


thượng.”


Sau mười năm trời lênh đênh đây đó, nhà vua mới chiếm lại được miền Nam, xây thành


Gia Định, đón thái hậu và Nguyên phi Tống Thị Lan về đoàn tụ. Mọi việc yên bề đến mấy năm


sau, Nhị phi mới sinh được con trai đầu lòng. Kể từ đó, vận của Nhị phi đã tới: bà liên tiếp sinh


một lèo bốn con trai, trong đó con đầu là hoàng tử Đảm thông minh, quả quyết, mạnh mẽ chẳng


khác gì mẹ.


Nhị phi thường tự nghĩ, thời gian bà nhọc nhằn chia sẻ gian nguy với hoàng đế tính ra


còn dài hơn thời gian Nguyên phi Tống thị ở với nhà vua. Công lớn, tình sâu, vậy mà đến ngày


chiến thắng, về kinh đô Phú Xuân, bỗng một người đàn bà trẻ hơn, đẹp hơn, xuất thân danh giá


hơn bỗng xuất hiện, giành mất cái quyền được kề cận đức vua. Nhị phi ghen hờn, uất ức cũng


phải. “Công chúa nhà Lê! Khi nào hoàng thượng cũng nói nạp hắn vào cung là để tỏ lòng bao


dung với nhà Lê ngày trước. Hừ, hắn đã đi lấy hoàng đế Ngụy Tây Sơn thì phải gọi là Ngụy Hậu


mới đúng. Ngụy hoàng hậu – Nhị phi dằn từng tiếng - Ngụy hoàng hậu, chứ công chúa nhà Lê


cái chi nữa.”


Thái giám họ Trần, một thái giám thân tín, cùng quê, cùng họ với Nhị phi, nghe chủ nhân


nói vậy liền tán theo:


- Dạ, danh giá chi con người đó, cái loại người trốn chúa lộn chồng, dù địa vị là hoàng


hậu công chúa chi chi đi nữa cũng không đáng kể là con người.


- Đúng! Đúng! Thiệt không xứng là con người. Vậy mà hoàng thượng còn ban hiệu cho


hắn là Đức phi nữa chớ! Cái thứ vô đạo đức như rứa mà còn gọi là Đức với Hạnh, thiệt là lấp


liếm trắng trợn hết sức. Nghe mà ngứa cả tai.


- Dạ, lệnh bà nói chí phải, mỗi lần nghe hô danh hiệu Đức phi con thấy trong bụng nực


cười lắm, chỉ vì sợ mạo phạm hoàng thượng nên không dám lộ ra ngoài mặt.


Nhị phi nghe Giám Trần nhiếc móc Tam phi, trong lòng cũng nhẹ nhàng đôi chút. Giữa


lúc đó, tỳ nữ Hạnh Nhi từ bên cung Tần Trang bước vào, xin có việc bẩm riêng.


- Nhà ngươi cứ nói, ông Giám Trần đây là người thân tín của ta, không phải ngại.


Nghe Hạnh Nhi xong, Nhị phi hừ một tiếng:


- Con yêu nghiệt ấy lại còn dám oán trách à? Thiệt là đồ vong ơn bội nghĩa.


Nói rồi bà lập tức quay sang Giám Trần, dặn sáng mai gọi phu kiệu sớm để bà đến bệ


kiến hoàng đế.


***


Gia Long hoàng đế ngồi trong điện Văn Minh, bên cạnh chỉ có thái giám Trung Tín đứng


hầu. Hôm nay ngày chẵn, ngài không thiết triều, đang chờ tiếp kiến một đại công thần mới từ


trong Nam ra: Đức ông Tả quân Lê Văn Duyệt.


Lê Văn Duyệt từ ngoài vào, sải những bước chân vững chãi, gương mặt rắn rỏi sạm đen


nắng gió. Thấy hoàng đế, ông đặt gối định quỳ lạy tung hô, nhưng Gia Long đã đích thân bước


xuống, đỡ dậy:


- Khanh đứng lên đi. Khi trẫm mới lên ngôi, đã đặc biệt cho khanh cái quyền Nhập triều


bất bái, không phải quỳ lạy vua, để giữ cái tình thân ái như khi vua tôi còn chinh chiến bên nhau.


Nay vào Nam, xa trẫm không bao lâu mà khanh lại sanh ra khách sáo vậy?


Lê Văn Duyệt nhếch nụ cười không tươi:


- Nhập triều bất bái, cái vinh dự ấy lớn lắm, làm sao thần dám quên. Chỉ sợ là lâu nay xa


mặt cách lòng, chưa biết ý vua thế nào cho nên phải thận trọng giữ phận thần tử.


Vua Gia Long nghiêm mặt:


- Xa mặt cách lòng là sao? Khanh còn nói vậy trẫm sẽ phạt đó. Ta đối với các công thần


như chân với tay, ngày trước gian khó mình thân thiết ra sao, nay giàu sang vẫn vậy.


Nhà vua rất giỏi ứng xử, đối với ai cũng thân ái mà rất đúng mực. Đã từng phụng sự Gia


Long bao năm, Lê Văn Duyệt biết rõ đấy là một phần của nghệ thuật làm vua.


- Tâu, thời thế thay đổi, nhiều cái cũng khác trước rồi! Hồi xưa, hoàng thượng ở trong


trại quân, lúc có việc, dù đêm hôm khuya khoắt Duyệt tôi chạy ào vào cũng chẳng bị quở trách.


Bây giờ, Duyệt về Kinh đã mười ngày, hôm nay mới được ơn gọi đến…


Gia Long cười giả lả, vỗ về:


- Trẫm biết khanh có ý trách trẫm rồi đó… Chẳng qua là trẫm nghĩ khanh mới đi đường


xa mệt nhọc, để khanh nghỉ ngơi cho lại sức đã mà!


- Nhờ hồng phúc của hoàng thượng, thần vẫn được khỏe như thời còn xông pha dưới cờ.


Cũng như xưa, thần luôn chờ được hoàng thượng sai khiến, đâu có thiết gì đến nghỉ ngơi!


Nghe đến mấy tiếng “xông pha dưới cờ”, vua Gia Long nghĩ thầm trong bụng: “Khổ thật,


từ công thần cho đến hậu phi, ai cũng kể lể nhắc nhở, ngày xưa thế này, ngày xưa thế nọ, rầu quá


đi mất!” Tuy vậy, hoàng đế tuyệt nhiên không để lộ vẻ khó chịu: ngài hiểu rõ qua mười lăm năm


dựng nghiệp, ngài đã tiêu tốn rất nhiều mồ hôi, nước mắt, máu và sinh mạng của hàng vạn quân


tướng. Đó thực sự là một món nợ rất lớn không bao giờ xóa được.


- Trẫm hiểu rồi, hiểu rồi! Trí nhớ của trẫm vẫn còn tốt mà, khanh không phải nhắc đâu.


Trẫm nói rất thực lòng, trẫm không bao giờ quên cái thời vua tôi nằm gai nếm mật có nhau.


Mặt Lê Văn Duyệt lúc này mới bắt đầu tươi lên. Cung nữ tiến vào, dâng rượu. Vua ân


cần tự tay bưng chén ban cho. Lê Văn Duyệt cảm động uống cạn.


Khoảng cách vua tôi như ngắn lại. Gia Long hoàng đế hỏi han:


- Việc nhà khanh thế nào rồi? Cái năm mới về Kinh, ta ban cung nữ Đỗ Thị Phấn cho


khanh lấy làm vợ. Cô ấy làm phu nhân có tốt không?


Lê Văn Duyệt cúi đầu:


- Tạ ơn hoàng thượng thăm hỏi. Thần đi dẹp loạn hết Quảng Ngãi lại đến Thanh Hóa,


vắng nhà luôn luôn, may có Thị Phấn trông coi chăm sóc cha già mẹ yếu. Cũng là nhờ ơn thánh


thượng mới được như vậy!


- Tốt lắm! Việc kế thừa nối dõi, khanh đã tính chưa?


Lê Văn Duyệt trầm giọng:


- Thần xuất thân là thái giám, có vợ cũng chỉ để có người trông coi cơ nghiệp chứ không


hy vọng gì về con cái. Vì vậy thần đã nuôi đứa con người em làm con thừa tự.


- Cũng tốt! Vô nam dụng nữ, vô tử dụng tôn. Trẫm sẽ cho con nuôi của khanh được tập


ấm như là con đẻ vậy. Hôm nào đó khanh hãy đưa vào cho trẫm xem mặt, nếu nó phương phi


cao ráo, trẫm sẽ chọn công chúa gả cho!


Lê Văn Duyệt cười:


- Tạ ơn hoàng thượng quá thương. Chỉ tiếc là Lê Yên con nuôi của thần năm nay mới có


tám tuổi…


Vua Gia Long bật cười:


- Ha ha! Vậy hả? Trung Tín đâu?


Thái giám Trung Tín lại gần:


- Tâu hoàng thượng?


Vua Gia Long chỉ tay:


- Ghi lại lời ta nói hôm nay đi, làm vua không thể nói chơi. Sau này khi Lê Yên lớn lên


sẽ tuyển làm phò mã.


Lê Văn Duyệt trong lòng cảm kích sâu xa, bất giác đứng dậy đến trước án vua, quỳ sụp


xuống tự nguyện làm lễ quân thần:


- Bệ hạ chu toàn đối với thần như vậy, dù có chết để báo đền cũng không dám tiếc.


Lần này, vua để yên cho Duyệt quỳ lạy.


- Khanh hãy nhớ, trẫm muốn gia tộc họ Lê của khanh đời đời cùng với hoàng gia có phúc


cùng hưởng, có họa cùng chia.


Giữa giây phút cảm động ấy, chợt bên ngoài có tiếng xôn xao.


Nhị phi vừa xuống kiệu, đang định tiến vào. Thị vệ ngăn lại:


- Bẩm lệnh bà, hoàng thượng đang tiếp kiến quan lớn Tổng trấn từ trong Nam ra chầu


Kinh.


Nhị phi giương đôi mắt phượng - đôi mắt qua tuổi bốn mươi tuy đã hết long lanh, nhưng


vẫn còn rất tinh anh sắc sảo:


- Tưởng ai chứ ông Duyệt thì có xa lạ gì với ta? - Bà cao giọng - Mười mấy năm chinh


chiến ta theo bên mình hoàng thượng, quan tướng nào mà ta chẳng gặp, chẳng coi như người


nhà?


Thị vệ khúm núm:


- Dạ nhưng bẩm lệnh bà, hoàng thượng có lệnh không cho ai vào cả, để ngài với quan


lớn bàn chuyện quân quốc trọng sự.


Nhị phi nạt lớn:


- Thì ta cũng vào bẩm chuyện quân quốc trọng sự đây…


Nói rồi bà cứ thế xông xênh đi vào, thị vệ không dám ngăn.


Hoàng đế nhìn ra, hơi chau mày:


- Ái khanh?


Nhị phi điềm nhiên:


- Hoàng thượng vạn tuế! Xin chào ông Duyệt! Xin hoàng thượng tha tội, vì có chuyện hết


sức nghiêm trọng nên thần thiếp phải mạo muội đến tâu trình. Không ngờ ông tổng trấn đang ở


đây…


Vua Gia Long nghiêm mặt:


- Có chuyện gì vậy? Ông Duyệt cũng như người trong nhà, khanh cứ nói!


- Tâu, thần thiếp vừa phát hiện kẻ gian trong cung. Sợ nói ra chậm e ảnh hưởng đến an


nguy của hoàng thượng, nên không dám chậm trễ một giây.


Vua Gia Long đã quen với những tin tức nóng bỏng của Nhị phi, ngài bán tín bán nghi:


- Kẻ gian? Ai vậy?


Nhị phi dõng dạc:


- Tâu hoàng thượng, nếu trong triều có kẻ miệng ăn lộc của hoàng thượng mà lòng phản


trắc, thì triều đình phải xử ra sao ?


Vua Gia Long nhướng mày:


- Tất nhiên là phải chém đầu làm gương, còn gì phải hỏi.


- Hoàng thượng thật sáng suốt. Vậy trong cung, nếu có phi tần một dạ hai lòng, dám


buông lời oán trách hoàng thượng, hoàng thượng có cho phép chúng thiếp đem ra trị tội hay


không?


Vua Gia Long ngờ ngợ, giọng đầy vẻ đề phòng:


- Ai vậy? Oán trách thế nào? Này ái khanh, chuyện gì cũng phải có bằng cớ, chứ nói


suông là không được đâu…


Nhị phi xác quyết:


- Dạ, thiếp có bằng cớ, có nhân chứng hẳn hoi!


- Ái khanh à, bây giờ thế này, chuyện đâu còn có đó, ái khanh cứ về cung nghỉ ngơi. Tối


nay trẫm đến chỗ ái khanh tìm hiểu ngọn ngành, lúc đó ái khanh muốn nói gì cứ nói! Bây giờ để


trẫm với ông tổng trấn còn bàn việc triều đình, ái khanh hiểu chưa?


Nhị phi nghe đến mấy tiếng “Tối nay trẫm đến” thì dịu ngay nét mặt, đổi giọng ngọt


ngào:


- Dạ, xin hoàng thượng đã phán thì đừng quên, thế nào tối nay cũng tới cho thần thiếp


bày tỏ. Việc này không nhỏ, xin hoàng thượng chớ xem thường.


Nhị phi ra rồi, Lê Văn Duyệt mỉm cười im lặng.


Vua Gia Long thở hắt ra:


- Khanh cũng biết đó, những chuyện rắc rối giữa các cung cứ thường xuyên xảy ra, cái gì


họ cũng chồm chồm lên đòi trẫm phân xử!


- Tâu, tính Nhị phi xem ra vẫn như xưa. Hồi đó chúa tôi, chồng vợ sống chết bên nhau,


cứ như nhà dân dã chẳng có điển lệ quy tắc gì. Thần cứ tưởng bây giờ vua tôi thân phận đã định,


Nhị phi chắc cũng phải thùy mị khiêm cung hơn.


Vua Gia Long tỏ vẻ ngao ngán:


- Làm gì có chuyện thùy mị với khiêm cung? Nói thực với khanh, giờ đây trẫm đau đầu


với mọi người hơn thời còn nằm gai nếm mật nhiều lắm đó!


- Thần nghe các quan than phiền rằng lệnh bà thường xen vào các cuộc bệ kiến, làm họ


nhiều khi không tâu được hết ý riêng với hoàng thượng.


Vua Gia Long gật đầu:


- Trẫm biết, trẫm biết! Đó, khanh đã nói đúng vào chuyện đang làm trẫm rất khó xử. Quy


tắc triều nghi hiện nay vẫn còn rất lỏng lẻo. Các ông trong triều cũng giống các bà trong cung, hở


một tí là nhắc nhở công trạng ngày xưa. Các quan bộ Lại, bộ Lễ thì ngại động chạm, không dám


mạnh tay thiết lập thể thức. Cái gì họ cũng đùn đẩy cho trẫm, mà trẫm lại là người khó nói


nhất… Trẫm không muốn tự mình nói những lời từ chối, trẫm không muốn họ miễn cưỡng tuân


hành mà trong bụng lầm bầm rằng trẫm là kẻ vô ơn… Khanh hiểu chứ?


Lê Văn Duyệt gật đầu, đi thẳng vào việc:


- Thần hiểu. Hoàng thượng đang cần một người. Một người có thể nói những lời chối từ,


răn đe, ràng buộc thay cho hoàng thượng.


- Đó, đó, trẫm cần một người đủ cương nghị, thẳng thắn để chấn chỉnh kỷ cương. Làm


sao cho vua ra vua, tôi ra tôi, thế mới thực là một triều đình. Khanh thấy có ai xứng đáng không?


Lê Văn Duyệt ngẫm nghĩ rất nhanh: “Hoàng thượng đang nghĩ đến ta. Còn ai xứng hợp


để làm bia chịu đạn thay cho hoàng thượng hơn ta nữa?”


Lê Văn Duyệt đã đoán đúng. Nhưng thật tình, ông không thích thú làm việc đó. Lập tức,


ông tâu với một giọng chắc nịch:


- Theo thần thì có một người, nhất định sẽ làm hoàng thượng vừa ý.


- Ai?


Lê Văn Duyệt chắp tay, kính cẩn:


- Hoàng thượng đã tin mà hỏi, thần xin hết lòng tiến cử. Người này tuy không có quyền


thế lớn trong triều, nhưng thanh danh và uy tín còn cao hơn những công thần bậc nhất. Người ấy


biết đạo lý, sống ngay thẳng, làm việc nước thì hết sức công tâm. Khiêm nhường, giản dị nhưng


chẳng biết sợ ai, chỉ sợ lẽ phải mà thôi.


Gia Long hoàng đế tủm tỉm cười, nhắc nhở:


- Không sợ ai thì tốt, nhưng ít nhất cũng phải sợ vua chứ?


Lê Văn Duyệt chữa lỗi:


- Tâu, làm bề tôi tất nhiên phải tuyệt đối trung thành với hoàng thượng. Hoàng thượng


cũng như Trời, đâu có gồm chung với thiên hạ được? Nhưng nếu có lúc hoàng thượng cần can


gián, thần chắc người này cũng sẽ can đảm dâng lời!


Vua Gia Long trước nay vẫn tin tưởng tài dùng người của Lê Văn Duyệt.


- Này khanh, thực lòng ta mong muốn khanh chứ không phải muốn ai khác. Nhưng ta


cũng lường tính phần nào rồi, khanh là con chim bằng vùng vẫy ở bốn phương, việc ngồi ở triều


trung bàn lễ nghi phép tắc không phải chí của khanh. Thôi, người đó là ai, khanh hãy nói cho ta


biết.


Lê Văn Duyệt mỉm cười. Mình đã đoán đúng. Chậm một chút là sẽ bất tiện vô cùng khi


phải chối từ hoàng đế.


Bao giờ cũng vậy, Lê Văn Duyệt luôn có hành động nhanh, quả quyết và chính xác. Một


lần nữa, ông cung kính chắp tay:


- Tâu hoàng thượng, người đó là Phạm Đăng Hưng, hiện đang ẩn cư tại phủ Tân An gần


thành Gia Định!


Ngay hôm ấy, thái giám Trung Tín viết lệnh, Ngự thư phòng soạn chỉ, đóng ấn, kỵ sĩ hỏa


tốc phi ngựa hai ngày đường không nghỉ vào phủ Tân An, rồi quan phủ lập tức thảo công văn gửi


đến tận nhà họ Phạm.


Chương 5

Ván bài tứ sắc


Sau bảy ngày rong ruổi đường dài, Phạm Đăng Hưng đến kinh đô, cả người lấm bụi. Bộ


Lại đã xếp đặt chỗ tạm trú cho ông trong nhà Công quán.


Buổi đầu Phạm Đăng Hưng vào yết kiến, Gia Long hoàng đế chưa vội nói, chỉ đưa cái


nhìn sắc sảo quét một lượt từ đầu đến chân con người được mệnh danh là danh sĩ phương Nam.


Một lúc lâu, nhà vua mới phán hỏi:


- Đăng Hưng, ngươi đối với Tả quân Lê Văn Duyệt là thủ hạ hay là thân thích?


Đăng Hưng không khỏi ngạc nhiên.


- Tâu hoàng thượng, thần không phải thủ hạ, cũng không phải thân thích của Tả quân.


Hơn chục năm trước, hồi Tả quân đi đánh thành Phú Yên, thần có theo tùng sự trong quân. Từ


đó đến nay, nhiều năm không còn được gặp.


Nhà vua gật đầu. Ngài chuyển sang hỏi han về gia cảnh, Phạm Đăng Hưng chỉ tâu bày


qua loa ngắn gọn. Ông thầm nghĩ: Hoàng thượng thường ngày hỏi han biết bao nhiêu kẻ dưới,


chắc chắn ngài hỏi vậy thôi nhưng sẽ chẳng nhớ gì đâu.


Gia Long hoàng đế hơi thất vọng. Thực sự Đăng Hưng không đem lại cho ngài một ấn


tượng gì đặc biệt. Vì vậy, ngài trù trừ chưa biết nên làm gì với con người có vẻ khá tẻ nhạt này.


“Đăng Hưng, trẫm có lời khen nhà ngươi đã nhanh chóng về Kinh phụng mệnh. Giờ ngươi hãy


lui về công quán, tiếp tục chờ lệnh triều đình.”


Đăng Hưng chưng hửng, nghĩ thầm: việc khẩn cấp là thế này đây ư, bỏ cả giỗ cha đi hộc


tốc về Kinh để rồi ngồi chơi xơi nước trong Công quán hay sao? Nghĩ vậy nhưng ông chẳng có


cách nào hơn là quỳ lạy tạ ơn rồi bước ra, nhường chỗ cho các triều thần khác đang chờ ngoài


thềm điện.


Đăng Hưng ra khỏi điện Văn Minh, đi thủng thẳng gần đến cửa Hiển Nhơn, trong lòng


rầu rĩ. Chợt một đoàn quân khiêng kiệu đi vào.


Lê Văn Duyệt đang ngồi trên kiệu, cất tiếng:


- Đăng Hưng đó phải không? Sao ra Kinh không đến thăm ta?


Đăng Hưng chắp tay thi lễ:


- Bao năm không gặp, thật không ngờ Đức ông vẫn nhớ Đăng Hưng.


Lê Văn Duyệt xuống kiệu.


- Gặp ông ở đây rất hay. Hãy cùng ta vào cung một chút. Ta có một việc cần ông tham


vấn, ta đang rất cần sự thẳng thắn của ông.


- Đức ông muốn gì Đăng Hưng cũng xin vâng. Nhưng nếu là vào chầu hoàng thượng thì


Đăng Hưng mới vừa chầu xong, không lẽ lại quay vào.


Lê Văn Duyệt sải bước, ra hiệu cho Đăng Hưng theo mình:


- Không, hôm nay ta không vào bệ kiến hoàng thượng. Ta vào đây vì lời mời của Nhị phi.


Hà hà, ta thường có thói quen lường trước mọi việc, vì vậy mới phải suy nghĩ đau đầu đây.


Vốn là hoạn quan, lại được hoàng gia xem như thân thích, nên Lê Văn Duyệt những lúc


về chầu Kinh vẫn vào ra cung điện. Hơn nữa, buổi đầu triều, luật lệ hoàng cung còn lỏng lẻo, các


bà có chức danh lớn vẫn có thể tiếp bà con thân hữu ở Mộc Lan đình. Hôm ấy Nhị phi sai thị nữ


bày sẵn chè sen cùng với trái cây trên sập gụ giữa đình, lại bảo Giám Trần đặt sẵn bộ bài tứ sắc.


“Ông Tả quân suốt năm suốt tháng bận rộn việc nước, cũng phải dành đôi lúc nghỉ ngơi thư nhàn


một chút chứ! Nay ông về Kinh tuy chưa đến mùa nhãn lồng, mùa sen, nhưng nhãn với sen này


ta đã cất dành từ mùa trước, quý lắm. Mời ông thưởng thức, nhân dịp chơi vài ván tứ sắc cho


vui!”


Nghe Lê Văn Duyệt giới thiệu Phạm Đăng Hưng là danh sĩ trong Nam, Nhị phi trong


lòng mừng thầm: “Ta mời ông Duyệt là mong gặp một người anh hùng, nay lại bỗng nhiên được


gặp thêm một bậc trí giả. Chắc là Trời phù hộ, đưa người tới cho ta.” Nghĩ vậy nhưng bà không


để lộ tâm cơ ra nét mặt. Thị nữ tiến lên, pha trà, dâng bánh. Giám Trần chia bài. Nhị phi và Lê


Văn Duyệt, Phạm Đăng Hưng ngồi ba góc sập, góc còn lại Giám Trần ngồi trên một chiếc ghế kê


thấp hơn.


Nhị phi vẻ vô tư:


- Thâm cung vắng lặng, ngày ngày nhàn rỗi, ta chỉ biết lấy tứ sắc làm vui. Nhưng cái bộ


bài này cũng không phải chỉ là trò chơi đâu các ông ạ. Đã là người có cơ trí thì trò chơi cũng là


cuộc rèn luyện cơ trí. Có phải không các ông?


Nhị phi xuống bài. Lê Văn Duyệt vừa đánh tiếp, vừa nói:


- Bẩm lệnh bà, đúng vậy. Suy cho cùng nhiều việc liên quan đến tính mạng, danh giá của


con người, thực ra cũng là những ván bài sinh tử mà thôi!


Nhị phi bắt lời ngay, nửa đùa nửa thật:


- Ông nói vậy là hiểu đời lắm! Hôm nay tôi mời ông chơi tứ sắc, cũng là muốn xem thử


cách xuống bài của ông thế nào đó.


Lê Văn Duyệt cười to, có vẻ muốn đánh trống lảng. Nhưng đã muộn, vì Nhị phi không bỏ


lỡ dịp. Ván bài kết thúc, bà liếc mắt, Giám Trần lập tức thu dọn quân bài. Thị nữ rót trà lần nữa,


rồi tất cả nhất loạt lui ra.


Nhị phi tay nâng tách trà, quay qua nói với Đăng Hưng:


- Hôm nay ta mời ông Duyệt vào đây là muốn hỏi một điều thắc mắc trong lòng. May lại


gặp cả Phạm danh sĩ ở đây, phải chăng là Trời xui khiến?


Đăng Hưng dè dặt:


- Bẩm lệnh bà, hạ quan tình cờ được tháp tùng Đức ông vào ra mắt lệnh bà. Xin tạ ơn


lệnh bà đã tiếp rất hậu. Công việc còn nhiều, giờ đây có lẽ đã đến lúc phải cáo từ.


Nhị Phi lấy giọng ngọt ngào:


- Hãy nán một lúc! Ta muốn hỏi ông Duyệt vì biết ông có trong tay binh hùng tướng


mạnh, một cái đưa mắt của ông đủ điều khiển bao nhiêu văn võ triều thần. Ta cũng muốn hỏi ông


Hưng vì ông lừng danh là bậc túc nho trí giả. Điều ta sắp hỏi đây, - Nhị phi nhấn mạnh: - rất


quan hệ đến tiền đồ mai sau của các ông!


Lê Văn Duyệt thận trọng:


- Lệnh bà quá khen, chúng thần không dám.


Nhị phi khoát tay:


- Không cần phải khiêm cung trước mặt ta. Hai chữ nhún nhường, hãy để cho bọn người


hèn yếu không dám bộc lộ bản lĩnh của mình. Các khanh là người am hiểu thời thế, hãy góp


phần tạo nên thời thế!


Đăng Hưng nghiêm trang:


- Bẩm lệnh bà, lệnh bà cần hỏi gì, xin cứ nói rõ.


Lê Văn Duyệt đưa mắt lừ Phạm Đăng Hưng, kín đáo nhích một ngón tay, ra hiệu đừng


nói.


Nhưng chừng ấy đả đủ. Nhị phi chỉ chờ có thế, gật đầu cười tươi, đĩnh đạc:


- Hay lắm. Các ông tuy ở ngoài, chắc cũng biết rõ tình hình trong cung. Chuyện trong


cung không chỉ là chuyện thường tình nhi nữ giữa các hậu phi, mà đôi khi chính là đầu mối


những chuyện của triều đình, của đất nước.


- Đúng vậy. Điều này lệnh bà dạy chí phải. - Lê Văn Duyệt nói.


Giọng Nhị phi trở nên đanh thép:


- Vì vậy mà muốn sắp đặt cho tốt việc ngoài xã hội, trước hết phải sắp đặt thật ổn việc


trong cung! Các khanh có thấy việc gì trong cung hiện nay thật vô lý, thật bất ổn không? Ta tin


rằng các ông đều biết!


Lê Văn Duyệt đánh trống lảng:


- Thần chỉ thấy có việc ngang trái nhất là việc hoàng thượng thu Ngụy hậu Ngọc Bình


làm Đệ Tam hoàng phi, trước đây triều thần nhều người bất phục! Nhưng chuyện qua cũng đã


lâu, Tam phi nay đã hạ sanh công chúa với hoàng thượng. Những lời chỉ trích từ lâu cũng đã


lặng dần. Giờ cũng khó mà nhắc lại nữa.


Nhị phi hậm hực:


- Ngụy hậu Tây Sơn mê hoặc hoàng thượng, đến nay nó vẫn còn mê hoặc ngài. Nhưng


thôi chuyện đó ta chưa cần nói đến. Thân phận nó tuy tiếng là Đệ Tam phi, thực ra cũng chỉ là


một tù binh bị bắt làm tỳ thiếp mà thôi! Ta đang quan tâm việc khác lớn hơn!


- Lại còn việc nào lớn hơn nữa ạ?


- Ông thật không biết, hay ông vờ như không biết? Này các ông, các ông chắc biết cái lệ


Mẫu dĩ tử quý trong cung cấm từ xưa? Thường địa vị người mẹ cao hay thấp là tính từ địa vị đứa


con mà ra. Hiện nay trong cung, con trai của ai có địa vị cao nhất?


Lê Văn Duyệt thấy Nhị phi đã lật ngửa quân bài, biết không nói cũng không được, đành


phải đáp lời:


- Trước đây địa vị cao nhất trong các hoàng tử là hoàng thái tử Cảnh, con trai hoàng hậu.


Bây giờ thái tử Cảnh đã mất, địa vị cao nhất là hoàng tử Đảm con trai của lệnh bà.


Nhị phi rạng rỡ hẳn lên:


- Vậy là ông đã nhìn thấy! Sự xếp đặt trong hoàng cung hiện nay rõ ràng là vô lý, cần


phải thay đổi!


- Bẩm lệnh bà, thần vẫn chưa hiểu ý!


Nhị phi cười khanh khách:


- Ông Duyệt, đừng có vờ vĩnh qua mắt ta. Ông là người sắc bén mạnh mẽ, nhìn qua là


quyết ngay việc gì cần làm, ta còn lạ gì ông? Ông mà chậm hiểu như thế thì ngày trước giữa


chiến trường đâu có lừng danh là dũng tướng!


- Năm tháng qua, tuổi tác hạ thần đã cao, đâu có bén nhạy như ngày trước nữa? Xin lệnh


bà tha tội.


Nhị phi chững lại, cố vui vẻ nhưng vẫn không giấu được chút bực mình:


- Thôi được, ta hỏi ông Hưng, ông có biết ta đang nói đến việc gì không?


Lê Văn Duyệt khẽ hắng giọng. Đăng Hưng hiểu ý, dè dặt:


- Đức ông đã không có ý kiến gì, hạ quan cũng đâu dám trứng khôn hơn vịt.


Nhị phi không chịu:


- Ông cứ nói. Ta muốn xem Đăng Hưng nổi tiếng ngay thẳng, có dám nói điều mình nghĩ


không. Ông cũng như ta, là người không sợ chơi bài ngửa. Hãy ngửa bài ra đi.


Đăng Hưng đành phải nói:


- Bẩm lệnh bà, theo như hạ quan hiểu, lệnh bà hiện có người con trai hùng mạnh được


hoàng thượng ưu ái nhất. Theo lệ xưa, mẫu dĩ tử quý, địa vị của mẹ tính từ địa vị của con, thì bà


là người xứng đáng có địa vị cao nhất trong hàng hậu phi.


Nhị phi nghe Đăng Hưng nói vậy thì nở từng khúc ruột, mỉm cười thỏa mãn, liếc nhìn Lê


Văn Duyệt.


- Ông Hưng nói thế, ông Duyệt nghĩ sao?


Lê Văn Duyệt vẫn trù trừ:


- Bẩm lệnh bà, việc này nghe thì nhẹ như lông hồng, mà làm thì nặng như núi Thái Sơn.


Hạ thần xin phép suy nghĩ thêm...


Nhị phi uy nghi tựa vào gối thêu, vươn cao cái cằm kiêu hãnh:


- Nếu việc mà nhẹ như lông hồng, thì cần chi đến tài trí và oai danh của dũng tướng Lê


Văn Duyệt! Người tài trí ở đời nắm được thời cơ chỉ vì biết nắm lấy cơ hội, gieo Thái Sơn nhẹ


tựa hồng mao!


Đăng Hưng đứng dậy, cung kính:


- Bẩm lệnh bà, phần hạ quan chẳng cần chi phải suy nghĩ thêm một phút...


- Giỏi lắm! Thế mới đúng là bậc trí giả. Hôm nay ta chẳng lầm khi hậu đãi ông.


- Bẩm lệnh bà, xin nghe hạ quan nói hết lời. Đúng là trong cung đình có lệ mẫu dĩ tử quý.


Nhưng đạo lý của người xưa vẫn truyền tụng câu “Tao khang chi thê bất khả hạ đường”. Với


người vợ lấy khi còn nghèo khó, không bao giờ được truất ngôi chánh thất. Nay nhà vua với


chánh cung hoàng hậu kết tóc với nhau từ thưở gian nan khổ cực, nay sao lại vì cớ không con mà


phế bỏ? Việc đó trăm phần không hợp lòng người, xin lệnh bà đừng nghĩ đến.


Nhị phi nghe Đăng Hưng nói một thôi một hồi như vậy thì điếng người, tái mặt. Trong


lòng bà thầm nguyền rủa: Đồ hủ nho gàn dở, dám giỡn mặt với ta sao!


Nghĩ vậy nhưng bà ta nhanh nhẹn giấu kín sự hụt hẫng, cười phá ra vui vẻ làm như chẳng


có gì hệ trọng:


- Đăng Hưng giỏi lắm! Ta chỉ muốn thử lòng ngay thẳng của ông, quả nhiên tiếng đồn


không sai. Lời ông nói đó chính rất hợp ý ta. Thị nữ đâu, đem đồ ban thưởng ra đây.


Thị nữ bưng ra hai quả hộp phủ gấm. Nhị Phi lấy lại sắc mặt tươi tỉnh:


- Đây là quà ta ban cho các ông. Ông Duyệt, lẽ ra hôm nay ta phạt ông về cái tội nể nang.


Hãy xem Đăng Hưng đó, phải thẳng thắn như vậy mới được. Ta lúc nào cũng đứng về phía


những người chính trực.


Lê Văn Duyệt và Phạm Đăng Hưng vội vàng vái tạ lui ra.


Chờ hai vị đại thần đi khuất, Giám Trần từ sau màn bước ra, chạy lại gần chủ.


- Trong các triều quan, thần chưa thấy ai thật thà đến mức ngu ngốc như cái lão này.


Nhị phi nghiến răng, nhìn theo:


- Thật thà, hừ, đừng tưởng, thật thà là cha quỷ quái. Chúng nó khôn lắm, chúng đã tính


toán rồi.


- Ý lệnh bà nói… họ không muốn theo ta, họ ngả về phía bên kia?


- Có thể lắm.


- Dạ, vậy để con dò xem, rồi con sẽ đưa tin cho bà biết. - Giám Trần thưa.


Nhị phi gật đầu, lấy trong tay áo chiếc ống nhòm nhỏ đưa cho thái giám.


Chiếc ống nhòm vào thời ấy là một bảo vật, do các nhà buôn Tây dương dâng lên nhà


vua làm quà ra mắt. Thấy Nhị phi thích quá, vua đã ban cho bà vào ngày sinh nhật cách đây một


năm.


Chương 6

Bữa tiệc trong cung Khôn Thái


Cuối tuần trăng ấy, trong cung Khôn Thái, nô tỳ Hạnh Thảo được lệnh chuẩn bị tiệc nhỏ:


Hoàng hậu đã sai vời Anh Duệ vương phi Tống Thị Quyên cùng hai con trai vào dự tiệc cùng


hoàng đế.


Tống Thị Quyên là con dâu góa của hoàng hậu, vợ của Anh Duệ hoàng thái tử Nguyễn


Phúc Cảnh đã quá cố. Thái tử Cảnh là người con có công lớn trong việc gây dựng cơ nghiệp nhà


Nguyễn: Mới lên bốn, hoàng tử đã được nhà vua cử đi theo giám mục Bá Đa Lộc sang Pháp xin


cầu viện để đánh lại Tây Sơn. Việc cầu viện không thành, nhưng về sau thái tử lớn lên lại tham


gia chiến trận, lập nhiều chiến công, được lòng tướng sĩ.


Hồi đó ở Thanh Hoa có hai dòng họ lớn nhất: một là dòng họ Nguyễn ở làng Gia Miêu,


chính là dòng họ của các chúa Nguyễn; hai là dòng họ Tống, cũng cùng ở huyện Tống Sơn, đời


này sang đời khác làm thông gia với nhà Chúa.


Hoàng hậu Tống Thị Lan vốn là con gái họ Tống này, khi kén vợ cho con là thái tử Cảnh,


bà cũng chọn Quyên là con gái trong họ. Lúc lấy vợ, thái tử và vương phi đều mới mười sáu tuổi,


một cặp trai tài gái sắc rất đẹp đôi. Ngờ đâu số mệnh khắc nghiệt, đến năm hai mươi mốt tuổi


thái tử lên đậu qua đời, để lại hai đứa con trai còn thơ dại: Hoàng tôn Đán và hoàng tôn Kính.


Chiều nay, Đán và Kính vui mừng theo mẹ vào cung thăm ông bà nội. Tống vương phi


đã đến rất sớm để được gặp riêng mẹ chồng, nằn nì than thở với bà những nỗi sầu khổ thiệt thòi


của đời góa bụa.


Hoàng hậu tính hiền lành, chỉ biết an ủi bằng cách khuyên con dâu tu hành cho quên


những nỗi đau ở thế gian. “Con à, dù sao con vẫn còn hai đứa con trai sớm tối với con. Chứ như


ta đây… Nếu không tâm niệm lẽ đời vô thường, để mà buông bỏ tất cả thì ta còn sống làm sao


được?”


Tống vương phi ấm ức:


- Mẫu hậu mất thái tử nhưng vẫn là quốc mẫu, ở ngôi chí tôn cao quý, trăm người đều


phải nể vì. Chứ như con đây, thái tử mất đi là con mất tất cả, còn ai thèm nhìn đến nữa đâu.


Hoàng hậu thở dài, khuôn mặt võ vàng mệt mỏi. Đã nhiều năm nay từ khi con mất, bà


thường bị mệt tim. Ngự y đã dâng thuốc rất nhiều nhưng vẫn không khỏi. Hoàng tôn Kính thấy


vậy, chạy tới bên bà nội:


- Bà ơi, bà ơi, bà đau ở đâu hở bà?


Hoàng hậu cảm động cầm tay cháu, âu yếm:


- Bà đau ở chỗ này này… Nhưng mà thấy cháu bà vui quá, cái đau nó chạy đi đâu hết cả


rồi. - Hoàng hậu quay qua con dâu: - Nhanh quá, lúc thái tử qua đời thì thằng bé này đang còn


ẵm ngửa. Bây giờ càng lớn, càng giống cha như đúc. Mà này, Quyên ạ, hai cháu đều đã lớn rồi,


con đừng nên đi đâu cũng quàng vai bá cổ như thế, mẹ với con trai thân mật quá cũng không


nên!


Tống Thị Quyên rơm rớm nước mắt:


- Dạ… Mẫu hậu cũng biết thái tử khi còn sống đối với vợ con âu yếm thân mật lắm, bây


giờ các cháu nó vẫn quen cung cách đó…


Hoàng hậu nhìn lên vách, chỗ có bức họa vẽ hình hoàng thái tử Cảnh mặc Âu phục:


- Mẹ biết, đó là vì thái tử ngày trước mới bốn tuổi đã phải đi theo giám mục Bá Đa Lộc.


Ở bên đó mấy năm trời, nên thái tử nhiều lúc nói năng cử chỉ như người Tây. Nhưng nước mình


nó khác, con phải nhắc các cháu, đừng để mình khác người chung quanh quá, không nên đâu.


Tống Thị Quyên không để ý nhiều đến lời dặn của hoàng hậu, vì đang còn mải nhìn trước


nhìn sau. Thấy không ai chung quanh, Quyên hạ giọng, thì thào:


- Mẫu hậu! Mẫu hậu có biết không? Con mụ Nhị phi rất to gan, mấy hôm trước dám hẹn


mấy ông lớn triều thần ở ngoài Mộc Lan đình, xúi giục mấy ông ấy xin hoàng thượng đưa mụ ta


lên ngôi chánh hậu!


Hoàng hậu cười, không tin:


- Con nghe ai nói đấy? Trong cung kẻ hầu người hạ thường kiếm chuyện nói xấu người


khác để lấy lòng chủ. Cung này bài xích cung kia, đặt điều vẽ chuyện kiện cáo lẫn nhau là


chuyện thường. Con không nên để tai nghe mà nhọc tâm trí.


- Trời đất, chính thị nữ của mụ ta hớ hênh nói lộ ra ngoài, con cam đoan là chính xác!


Trắng trợn đến nỗi tam cung lục viện ai cũng biết, vậy mà mẫu hậu cứ bịt tai chẳng nghe. Mình


hiền quá nên người ta mới tính chuyện xỏ chân lỗ mũi.


Hoàng hậu hơi nao núng, nhưng vẫn gạt đi:


- Dù có vậy đi nữa ta cũng chẳng bận lòng. Hoàng thượng rất anh minh. Mỗi người cứ ở


cho đúng bản phận của mình thì không ai làm gì mình được.


Tống Thị Quyên mếu máo:


- Mẫu hậu, người ta âm mưu hất cẳng mẫu hậu ra khỏi ngai hoàng hậu, chỉ cốt để người


ta làm chính cung, để con trai người ta thành đích tử nối ngôi. Xin mẫu hậu cố gắng bảo vệ


quyền lợi cho đứa cháu mồ côi là Đán. Con nghe triều thần hiện nay rất nhiều người ủng hộ Đán


kế thừa ngôi thái tử. Nhất là quan Tổng trấn tiền quân Nguyễn Văn Thành…


Hoàng hậu đang khép mi mệt mỏi, nghe đến mấy tiếng “ngôi thái tử” vụt mở choàng mắt:


- Con im ngay. Việc lớn của triều đình không phải chuyện bọn nữ lưu chúng ta nhúng tay


vào được. Hoàng thượng mà biết thì tội chẳng nhỏ.


Tống Thị Quyên vẫn không thôi:


- Mẫu hậu, hoàng thượng thương mẫu hậu lắm mà, hoàng thượng cũng thương Đán lắm,


mỗi lần gặp con, người ân cần vui vẻ biết bao. Mẫu hậu sợ gì mà không nói một tiếng để giành


phúc lộc cho các cháu...


- Quyên con, đã dựa cửa quyền uy, sao con còn non nớt vậy. Đừng thấy hoàng thượng


vui vẻ mà tưởng dễ nhờn. Con hổ khi đang nằm chơi trông cũng rất hiền lành, nhưng đừng vì


vậy mà tưởng là con mèo con ạ!


Tống Thị Quyên vùng vằng:


- Mẫu hậu cứ nhẫn nhịn như vậy, thảo nào người ta hiếp đáp, hiếp đáp cả con cháu...


Đang còn định níu áo nằn nì mẹ chồng cho bằng được, nhưng Quyên phải vội im bặt vì


Hà Nhi vụt bước vào, báo tin hoàng thượng đã tới. Cả ba mẹ con vội vàng bước ra, làm lễ mừng


hoàng đế giá lâm.


Giữa lúc ấy, từ trong hành lang cung Đoan Trang - nơi ở của Nhị phi, Giám Trần đang ẩn


mình sau hàng cột, tay cầm chiếc ống nhòm nhìn sang. Giữa vòng tròn của thấu kính, cảnh tượng


đầm ấm bên cung Khôn Thái đang hiện ra: hoàng đế, hoàng hậu cùng với Tống vương phi và hai


hoàng tôn đang vui vầy bên mâm tiệc. Để cho không khí được ấm cúng, hoàng hậu đã cho thái


giám và cung nữ lui hết, chỉ giữ lại Hà Nhi và Hạnh Thảo đứng hầu tiệc.


Giám Trần nhìn thật kỹ, ghi nhớ từng khuôn mặt rồi đút ống nhòm vào tay áo, lùi lũi đi


thẳng vào chỗ Nhị phi:


- Bẩm lệnh bà, hoàng thượng đang ngự bên chánh cung. Ăn uống sum vầy vui vẻ lắm. -


Ông ta dừng một chút, dáo dác nhìn quanh - Có cả thằng hoàng tôn Đán ở đó nữa.


Trong tiệc có hai hoàng tôn, nhưng Giám Trần quan tâm nhất là hoàng tôn Đán. Bởi vì,


hiện nay triều đình đang chia làm hai phái: một phái ủng hộ hoàng tôn Đán, cháu đích tôn của


hoàng hậu; phái kia ủng hộ hoàng tử Đảm, con trai của Nhị phi. Thường ngày, Nhị phi tuy ra mặt


kình địch với Tam phi Ngọc Bình, nhưng chẳng qua là ghen tuông thường tình, nói cho cùng


cũng là chuyện nhỏ. Ngọc Bình chỉ có một đứa con gái, lại ngây ngô khờ khạo, chẳng đáng quan


tâm. Bao nhiêu tâm cơ đề phòng của Nhị phi thực ra tập trung cả về phía hoàng hậu.


Nghe Giám Trần báo cáo, Nhị phi sa sầm mặt:


- Sướng hí. Đêm thì ngài ngủ ở cung Tam phi. Ngày thì ngài ăn ở cung hoàng hậu. Hoàng


hậu lâu nay nghe nói ăn chay, sao nay lại bày tiệc tùng, có ý gì đây chắc?


Thái giám Trần hùa theo:


- Rứa mà ai cũng nói hoàng hậu hiền như Phật. Bữa ni mới biết thủ đoạn của bà ta cũng


ghê lắm.


Nhị phi cười khẩy:


- Hiền! Hiền! Đã nằm trong cái cung cấm ni thì không có ai hiền hết. Ngôi cao cửu ngũ,


ai thấy mà không ham? Mà không biết bà ta có cái thủ đoạn chi, năm mươi mấy tuổi rồi mà còn


mê hoặc rủ rê được hoàng thượng?


Thái giám Trần ghé sát thì thầm:


- Lệnh bà cứ bình tĩnh… Ban đầu con cũng thắc mắc như rứa đó. Nhưng mà dòm kỹ thấy


có mặt con tỳ ở bên đội Thượng thiện, là con hiểu ngay. Hoàng thượng mấy lúc này tới cung


Khôn Thái hoài chính vì con tỳ đó thôi.


Nhị phi nhíu mày, nửa tin nửa ngờ:


- Thật a? Con nhỏ đó đẹp cỡ nào mà mê hoặc được hoàng thượng?


- Dạ không phải, không phải, ý con không phải rứa. Con tỳ này có tài nấu ăn xuất chúng.


Trước đây chính nó làm bánh gai trong tiệc sinh nhật Tam phi. Hoàng hậu đã đưa nó về bên cung


Khôn Thái, giữ nó làm của riêng đó.


Nhị phi “À há” một tiếng, mặt đang sa sầm vụt sáng lên:


- Bà ấy cũng nhanh tay thật! Mưu kế cũng khá đó, nhưng không lo, ta đã nắm được thóp


rồi… Giám Trần, hạn cho ngươi hai ngày, ngươi tra hỏi thật kỹ nguồn gốc, lai lịch của con tỳ đó


cho ta.


***


Mấy hôm sau, vua Gia Long đang ngồi đọc bản tấu dưới ánh nến thì Trung Tín rón rén


đến gần.


- Tâu hoàng thượng, đêm nay hoàng thượng ngự đến cung nào ạ?


- Cung Tam phi.


Trung Tín cầm chiếc thẻ ngà lên, ghi ngày tháng cùng với mấy chữ: “Tam cung”.


Vua bỏ bút đầu rồng xuống, ngồi ngay người lên. Biết ý, Trung Tín đến gần, khẽ đấm


đều đều sau vai vua.


- Này, chuyện Phạm Đăng Hưng đối đáp với Nhị phi ở đình Mộc Lan là thật đấy chứ? -


Vua hỏi.


- Dạ, chắc chắn như vậy. Thị nữ bên cung Đoan Trang nghe ngóng được, kể lại với thần.


- Trung Tín tâu - Thần cũng lấy làm lạ, chuyện hệ trọng vậy mà lệnh bà lại đem nói với Đăng


Hưng.


- Thì bà ấy đã giục mãi, làm trẫm cứ phải tìm cách lảng đi. Ngay cả trẫm, bà ấy còn làm


áp lực, thì bà ấy sợ gì ai mà không dám nói. Đăng Hưng giỏi đấy! - Nhà vua cười hà hà, rồi bỗng


ngoảnh lại hỏi Trung Tín:


- Này, tờ biểu bổ nhiệm Phạm Đăng Hưng làm Thượng thư bộ Lễ, các quan đã đệ lên


chưa? Nếu chưa thì nhà ngươi nhớ nhắc bên bộ Lại, bảo họ là trẫm đang chờ.


Vậy là chức quan mới của Phạm Đăng Hưng đã được định đoạt, mà không ngờ lại do cái


chuyện đấu khẩu ở Mộc Lan đình.


Đúng lúc ấy, Nhị phi đột ngột xuất hiện ngoài cửa:


- Hoàng thượng! Hoàng thượng thức khuya quá, xin ngài đi nghỉ cho sớm kẻo mỏi mệt


mình rồng.


Vua Gia Long ngẩng lên, cau mày:


- Ái khanh! Sao ái khanh cứ hay tự tiện như vậy? Điện này là nơi trẫm làm việc, ngay cả


Chánh cung cũng không hề bước chân vào. – Thấy giọng mình quá nghiêm khắc, ngài hơi dịu


lại: - Trẫm bận việc triều chính đã đành, còn ái khanh có việc gì đâu mà cũng không chịu đi nghỉ


sớm?


Giọng Nhị phi thành khẩn pha chút oán trách:


- Hoàng thượng! Thiếp không mạo muội lên đây làm sao gặp được ngài?


- Hm… Trẫm nhiều việc quá, trong người không khỏe, thành ra lâu nay không thăm


viếng ái khanh…


- Thiếp biết! Thiếp đâu có dám tranh phần sủng ái với Chánh cung và Tam cung! Chỉ có


điều lòng thiếp cứ ngay ngáy lo cho sự an nguy của hoàng thượng. Thiếp chỉ tủi phận vì lời tâu


gan ruột của thiếp, hoàng thượng chẳng kịp để vào tai.


Vua Gia Long ngờ ngợ:


- Nàng đã nói gì? À, trẫm nhớ rồi, chắc lại chuyện đứa nô tỳ nấu ăn ở bên Chánh cung…


- Dạ, thiếp cứ nhìn thấy hoàng thượng vào dùng ngự thiện ở đó là thiếp nóng ruột nóng


gan như có lửa đốt trong lòng. Đứa nô tỳ ấy, thiếp đã điều tra, nó là dòng dõi của lũ giặc Tây


Sơn! Lỡ ra nó có dã tâm đầu độc hoàng thượng thì giang sơn xã tắc này sẽ ra sao?


Vua Gia Long xua tay:


- Có thật không? Một cái bánh gai mà đủ kết luận dòng dõi một người sao? Dù sao


khanh cứ yên lòng đi! Các thức ăn trẫm dùng, Hoàng hậu đều nếm trước cả. Không sao đâu!


Nhị phi không chịu:


- Vậy nếu lỡ có chuyện chi xảy ra cho hoàng hậu? Chánh cung với thiếp tình nghĩa như


chị em. Tính mạng, sức khỏe của Chánh cung, thiếp còn lo hơn của chính thiếp!


Vua Gia Long sực nghĩ ra:


- Ừ… Lỡ mà Chánh cung có mệnh hệ gì… Ái khanh nói cũng phải. Phải lắm.


Nhị phi thấy vua vừa xiêu xiêu, liền lập tức phục xuống khóc lạy:


- Thiếp hết lòng hết dạ mong hoàng thượng hãy thương đến chúng thiếp mà giữ gìn mình


rồng.


Vua Gia Long vội vã cúi xuống đỡ Nhị phi:


- Đứng lên đi, đứng lên đi… Thôi ái khanh cứ về đi, chút nữa trẫm sẽ đến với khanh.


Thái giám Trung Tín chưng hửng, vội lấy thẻ ngà ra xóa hai chữ Tam cung, sửa lại thành:


Đệ nhị cung.


Mấy hôm sau, có tiếng đồn đại râm ran trong hoàng cung. Đồn tới tai Hà Nhi, rồi tới tai


hoàng hậu… Đồn rằng nô tỳ Hạnh Thảo là dòng giống của Ngụy, tâm địa chẳng lành, khôn khéo


luồn lách đến tận trong cung Khôn Thái, chờ dịp để hại vua.


Hoàng hậu vốn đã không khỏe, nghe vậy hoang mang lo lắng. Bệnh tim đã sẵn lại càng


thêm nặng, bà nằm lịm đi suốt ngày không dậy.


Quỳ bên giường hoàng hậu, Hạnh Thảo dâng bát thuốc vừa sắc xong. Cữ thuốc thứ tư,


ngự y cho uống vào đầu giờ Sửu. Người hầu đã đi ngủ cả chỉ còn Hà Nhi và Hạnh Thảo thức


hầu.


Hoàng hậu mở mắt. Bà nhìn Hạnh Thảo, cái dáng gầy gầy, mấy sợi tóc mai buông rũ


trước trán, đôi mắt đăm đăm hiền dịu. Ừ, cũng lạ thật, thảo nào người ta nghi kỵ. Một nô tỳ thân


phận thấp hèn sao lại có cốt cách thanh tú thế kia. Lại nữa, theo lời Hà Nhi, sở dĩ Hạnh Thảo nấu


ăn tài nghệ như vậy là vì có được một cuốn cẩm nang viết bằng chữ nôm. Là con gái, ngay cả


các tiểu thư con quan cũng chưa chắc đã được học hành, sao một nô tỳ mà lại biết chữ. Chừng ấy


cũng đủ cho người ta phải thắc mắc.


Hoàng hậu định hỏi, nhưng rồi lại thôi. Đã từng trải qua nhiều cuộc biển dâu, bà hiểu,


nguồn gốc, địa vị của một người đôi khi chẳng nói lên gì cả. Dù Hạnh Thảo là ai thì bà cũng tin


chắc cô là người hiền lương. Từng miếng ăn cô dâng lên, từng lời nói, cử chỉ, tất cả đều mộc


mạc, chân thành, tận tụy. Tuy thời gian Hạnh Thảo về cung Khôn Thái chưa lâu, nhưng đã đem


lại cho hoàng hậu một cảm giác rất gần gũi, thân thương.


- Để thuốc đấy, từ từ ta sẽ uống. Cho con đi nghỉ, kẻo khuya rồi.


Nghe giọng hoàng hậu yếu ớt, Hạnh Thảo rưng rưng nước mắt.


- Hoàng hậu cứ để cho con canh giấc. Lần này chắc là lần cuối con được dâng thuốc cho


lệnh bà…


Hoàng hậu xúc động:


- Ta mến con lắm, rất muốn giữ con lại với ta. Nhưng trong cung nhiều người tai ác quá.


Nếu là ý Nhị phi, ta còn bênh vực cho con được, dù sao bà ấy vẫn còn phải nể. Ngặt nỗi lần này


chính hoàng thượng đã có khẩu dụ, ta làm sao dám trái lời.


Hạnh Thảo cúi đầu, nước mắt rơi. Tuy còn ít tuổi, sự từng trải đủ cho cô hiểu: người tốt


vẫn thường thua trong mọi cuộc tranh đoạt.


- Tâu hoàng hậu, xin hãy nhẹ lòng, đừng vì con mà thương tâm nữa…


Hạnh Thảo không dám nói thêm, vì thấy vai hoàng hậu rung rung, mắt khẽ nhắm lại kìm


nén một tiếng nấc.


Hạnh Thảo biết mình ra đi là đem theo niềm vui nhỏ nhoi của bà hoàng tội nghiệp: niềm


vui được đón người chồng hoàng đế bên mâm cơm ngon ngọt, cạnh những đứa cháu thân


thương, để cùng sống lại ký ức về đứa con trai đã mất…


Hạnh Thảo rời cung Khôn Thái. Trước đó mấy hôm, Nhị phi đã đến gặp hoàng hậu.


- Thưa chị, em đã ướm hỏi khắp, nhưng chẳng có cung phòng nào chịu nhận nô tỳ ấy cả.


Nghe nói người của Tây Sơn, ai cũng sợ. Chỉ còn cách…


- Cách gì?


- Chỉ còn một cách… cho xuất cung!


- Thôi đi em. Dù sao cũng phải nể ta một chút chứ! Dù sao cũng đã từng là người của ta!


Xuất cung là gì, là bị đuổi ra khỏi cung chứ còn gì nữa?


- Xin chị bình tĩnh. Em rất ân hận lỡ lời làm chị buồn!


Hoàng hậu vừa nói vừa quay mặt đi, không nhìn Nhị phi:


- Rút ngay lại lời nói ấy đi. Ta có chết cũng không để cho Hạnh Thảo bị đuổi khỏi cung.


Nó đã có tội gì đâu. Sao lại cứ gán cho nó những tội ác mà nó chưa hề nghĩ tới.


Nhị phi đấu dịu:


- Xin chị bớt giận, để em tính lại. Bây giờ, đã thế theo em chỉ còn một cách cuối cùng…


- Cách gì, nói mau đi.


- Chỉ còn cách đưa nô tỳ ấy về cung Tam phi. Tam phi chẳng có lý do gì mà không chịu


nhận nô tỳ ấy, chính Tam phi cũng là người của Tây Sơn kia mà.


Nhị phi vừa nhấn mạnh vào mấy tiếng “người của Tây Sơn” vừa cười khinh bỉ.


Chương 7

Đêm trong điện Hoàng Nhân


- Chị có phải con cháu nhà Tây Sơn không? - Hạnh Nhi tò mò vặn hỏi.


Vú Sửu khẽ liếc mắt, ra hiệu. Hạnh Thảo dè dặt trả lời:


- Tôi mồ côi từ nhỏ, không biết cha mẹ là ai. Không biết ai gán ghép cho tôi cái tội dòng


dõi Tây Sơn.


- Vậy sao chị không kêu oan với lệnh bà Nhị phi.


- Tôi đã không biết cha mẹ là ai, thì người ta bảo tôi là dòng dõi Tây Sơn, làm sao tôi biết


phải hay không phải.


Hạnh Thảo thì thực tình, mà Hạnh Nhi thì nghĩ con bé này đang trả treo với mình, liền


cười mũi một cái rồi bỏ đi. Vú Sửu đưa một ngón tay lên môi, ý bảo Hạnh Thảo giữ mồm giữ


miệng.


“Đừng có chọc giận cái con nặc nô ấy, phiền lắm.” Vú rỉ tai.


Hạnh Thảo lặng lẽ đút cơm cho Ngọc Ngôn. Đã lên tám nhưng công chúa chỉ biết nói


những câu ngắn cộc lốc, thỉnh thoảng lại ré lên cười.


Lệ thường, mỗi lần hoàng đế ngự đến thì cung nhân lại bồng công chúa sang bên cung


Khôn Thái của hoàng hậu. Nhưng lâu nay, hoàng hậu ốm mệt, nên Hạnh Thảo đành ôm Ngọc


Ngôn ngồi dưới nhà ngang. Công chúa khóc ngặt nghẽo, Hạnh Thảo phải lấy quả cầu nhỏ bày trò


đánh thẻ. Ngọc Ngôn quả nhiên thích, đưa hai bàn tay nhỏ xinh chụp lấy quả cầu đùa nghịch.


Ở gian kế bên, Tam phi vừa từ trong hồ tắm bước lên, được thị nữ lấy khăn bông thấm


nước, khoác áo lụa mỏng lên người. Chiếc áo mong manh làm nổi bật cơ thể nõn nà.


Nàng bước ra trước sảnh, vẻ mặt ủ dột.


Ngoài cửa, hai hàng tiểu thái giám xách lồng đèn vàng đang đưa nhà vua tiến vào. Đoàn


tùy tùng đến cửa thì rẽ ra hai bên, cầm đèn đứng hầu trước hành lang.


Toàn thể cung nhân quỳ hai bên cửa cung, rạp đầu.


- Hoàng thượng vạn tuế!


Nhà vua bước qua, phẩy tay. Tất cả đứng dậy rút đi êm. Nhà vua vào thẳng trong màn


gấm.


Thái giám Trung Tín cởi áo ngoài cho vua rồi cũng lùi ra hành lang, đứng chực bên cửa.


Tam phi quỳ trước giường trong bộ xiêm y mỏng manh.


Vua Gia Long vẫn nằm trong màn, ra lệnh:


- Đến đây.


Tam phi lết bằng đầu gối đến sát bên giường.


Nhà vua nâng mặt Tam phi lên nhìn.


- Sao chẳng bao giờ trẫm thấy nàng cười vậy? Đến bây giờ vẫn còn oán trách trẫm sao?


Tam phi cúi đầu:


- Thần thiếp là phận sâu kiến, đâu dám oán bệ hạ!


Vua Gia Long gằn giọng:


- Nàng không oán ta là đúng. Cả triều đình Tây Sơn bị tận diệt, cả nữ tướng Bùi Thị


Xuân một thời lừng lẫy cũng đã bị xéo nát dưới chân voi. Nàng có nhớ không?


Tam phi rùng mình:


- Thiếp làm sao quên được.


Vua Gia Long nhếch cười:


- Địa vị nàng trong triều Tây Sơn còn lớn hơn Bùi Thị Xuân. Nếu ta muốn thì nàng cũng


có thể bị xéo nát dưới chân voi! Nhưng ta đã tha cho nàng, lại còn đưa nàng lên địa vị cao quý.


Nàng có biết vì sao như vậy không?


Tam phi lặng lẽ giây lâu rồi bỗng bật ra:


- Thần thiếp biết. Vì... Vì bị voi giày chỉ đau đớn có một lần. Còn sống để chịu giày xéo


mỗi ngày mới thật là đau đớn vạn lần!


Vua Gia Long nhổm dậy:


- Á à... Nàng dám nói vậy sao?


Không nén được tức giận, ngài xô Tam phi ngã sóng soài dưới chân giường.


- Ngọc Bình, nàng thật ngu dại. Ta đã giải thoát cho dân chúng khỏi ách của Tây Sơn,


giải thoát cả cho nàng! Thế mà nàng dám nói là đang chịu giày xéo! Ta cho đuổi cổ cả hai mẹ


con bây giờ!


Tam phi sợ hãi, lết tới níu lấy áo nhà vua:


- Hoàng thượng, xin tha tội thần thiếp lỡ lời. Có lúc thiếp không biết mình đang nói gì


nữa.


Vua Gia Long dịu lại:


- Ngọc Bình, nàng bị giặc Tây Sơn cưỡng ép kết hôn. Nay trẫm đã giải thoát cho nàng,


nàng hãy xóa sạch ra khỏi tâm trí cái khoảng thời gian theo giặc. Nghe chưa?


Tam phi ôm mặt khóc.


Vua Gia Long quát:


- Nín!


Tam phi sợ hãi im bặt, lấy tay áo lau nước mắt.


Thấy bộ dạng Ngọc Bình thảm hại như vậy, không hiểu sao trong lòng nhà vua dâng lên


một cảm giác hứng thú vô bờ bến. Vua ôm nàng vào lòng, âu yếm vuốt ve:


- Trẫm thương nàng lắm. Thấy nàng khóc lóc trẫm cứ tưởng như cái ngày chiến thắng ấy


mới xảy ra hôm qua đây thôi...


Tam phi đang run rẩy chợt mở to mắt.


- Vậy là thấy thần thiếp đau khổ thì bệ hạ mới thỏa lòng, phải không?


Vua Gia Long không đáp, kéo Tam phi nằm xuống.


Áo khoác mỏng của Tam phi rơi xuống bên giường.


Từ dưới nhà ngang, cách mấy lớp cửa son, Hạnh Thảo đang dỗ Ngọc Ngôn bỗng nghe


Tam phi rú lên một tiếng.


Đứng trực ngay dưới thềm, Trung Tín nghe tiếng nhà vua ôn tồn vọng ra từ trong màn


gấm:


- Trẫm có làm nàng đau đâu?


Trên nệm phỉ thúy, Tam phi oằn mình thở hổn hển, mắt mở to đầy vẻ hãi hùng. Không,


nàng kinh sợ không phải vì đau: nhà vua là một người đàn ông trầm tĩnh, nhẹ nhàng và lịch lãm.


Nhưng nàng thét lên vì trong lúc ấy nàng vừa thấy vua Tây Sơn Quang Toản hiện ra,


người đầm đìa máu.


***


Sáng sớm hôm sau…


Vua vừa thức dậy. Tam phi nằm sấp trong một góc giường, phơi tấm lưng trần trắng nõn.


Tóc nàng xõa tung rũ rượi trên chăn nệm.


Trong gian kế cận, Hạnh Thảo đang sửa soạn trà bánh.


Bỗng ngoài cửa cung, có tiếng Giám Trần vọng vào.


- Lệnh bà Nhị phi xin yết kiến!


Thái giám Trung Tín giật mình, vội tiến ra ngăn lại.


Tam phi vùng dậy, vơ lấy áo khoác mặc vào, chạy biến ra phía sau.


- Tâu hoàng thượng, khi cho nô tỳ Hạnh Thảo về đây, thần thiếp đã dặn Tam phi: làm gì


thì làm, nhất định không cho ả ta đụng vào các đồ ngự dụng của hoàng thượng. Vậy mà không


nghe, lại còn sai ả sắp soạn đồ ngự thiện điểm tâm. Nguy hiểm biết chừng nào? Thiếp phải tức


tốc đến liền, xin hoàng thượng thứ tội.


Nhà vua cảm thấy bực bội, chỉ muốn tống cổ ngay Nhị phi ra khỏi cung Tần Trang.


Nhưng dù sao… ngài không muốn làm bà mất mặt. Con người mạnh mẽ của Nhị phi thực sự


cũng có một cái uy, khiến cho kẻ dưới lẫn người trên đều ngại đương đầu.


Về đến điện Càn Thành, vua quát lên với Trung Tín:


- Quá quắt lắm, ai đời trẫm đang ngự ở Tam cung mà bà ấy cũng đến phá rầy.


- Tâu, vì bệ hạ thường nể nang không quở trách, nên Nhị phi càng lúc càng lấn tới ạ.


- Quở trách thì trẫm không nỡ. Vả lại lúc nào bà ấy cũng tìm ra lý do nghe có vẻ rất đúng


đắn.


Trung Tín gật gật đầu:


- Tâu, thần biết rồi, lại chuyện nô tỳ gì đó nguy hiểm, bây giờ rời cung hoàng hậu sang


hầu Tam phi chứ gì?


- Thì vẫn chuyện đó. Trẫm mệt tai lắm rồi, khanh hãy thu xếp, tính sao cho tiện thì tính


đi.


Sáng hôm sau, một thái giám đến cung Tần Trang, đọc lệnh từ điện Càn Thành truyền


xuống:


“Nô tỳ Hạnh Thảo xuất thân không tốt, không thể dung nạp trong nội đình. Nay hạ lệnh


cho xuất cung, trả về quê quán.


Nhân việc này, từ nay tuyển cung nhân phải tra xét kỹ, kẻ nào có lai lịch liên quan đến


Ngụy triều Tây Sơn đều tuyệt đối không được chọn. Lệnh này ban ra, phải thi hành ngay.”


Hạnh Thảo sững sờ. Xuất cung! Người ta xuất cung thì về lại quê nhà với ông bà, cha


mẹ. Mình xuất cung thì sẽ về đâu?


Cái tin Hạnh Thảo phải xuất cung, tất cả cung nhân đều phải bị tra xét về lai lịch đến tai


hoàng hậu, khiến bà lặng đi. Lệnh từ cung vua, nhưng không nghi ngờ gì nữa, có bàn tay lèo lái


của Nhị phi trong đó.


Nằm nghiêng trên gối, hoàng hậu để dòng nước mắt rơi lặng lẽ. Dù không bao giờ nói ra


lời, không phải bà không biết: Nhị phi mỗi ngày một lấn tới, giành quyền lực nội cung về tay


mình. Câu chuyện Hạnh Thảo là một chuyện nhỏ, nhưng qua đó, bà biết, trong cung điện này, bà


chỉ còn là Chánh cung trên danh nghĩa thôi. Thực quyền đã hoàn toàn sang tay người khác.


- Hà Nhi, bệnh ta càng lúc càng nặng, đã đến lúc ta không còn bảo bọc cho ai được nữa.


Sau này, nếu ta nhắm mắt rồi, con hãy thận trọng, biết liệu đường mà giữ thân.


Hà Nhi ôm mặt khóc.


Tối hôm ấy hoàng hậu chóng mặt hoa mắt, thở rất khó nhọc, nhưng nhất định không cho


người hầu báo lên hoàng đế.


- Ta muốn đến điện Hoàng Nhân một chút. - Vịn tay Hà Nhi, hoàng hậu lảo đảo bước đi.


Điện Hoàng Nhân là nơi thờ thoi vàng tín vật của hoàng đế và hoàng hậu ngày xưa. Ngày


ấy, trước khi từ biệt mẹ và vợ để sang Xiêm La, vua lấy một dật vàng chặt làm đôi, giao một nửa


cho hoàng hậu, một nữa mình giữ để làm tin. Hai mươi năm sau, lấy lại được kinh thành, xây lại


hoàng cung, hoàng đế cho gắn lại hai nửa dật vàng, đem thờ ở điện này.


Hoàng hậu quỳ xuống chiếu. Trên cao, hai ngọn đèn lưu ly tỏa sáng trên dật vàng năm


xưa. Trong ánh vàng lấp lánh, chợt hiện lại hình ảnh những ngày long đong gian khổ. Lương


thực thiếu thốn, quần rách áo vá, nhiều lần bà phải tự tay khâu áo trận cho các tướng. Có tướng


chết không có áo quan để chôn, vua phải cởi áo mình đang mặc làm vải liệm… Vậy mà lòng vẫn


luôn tin yêu, hy vọng…


Hoàng hậu cứ thế ngồi lặng trên chiếu hồi lâu, vẻ mặt mơ màng không dứt.


Hà Nhi se sẽ lại gần, rụt rè thưa:


- Tâu hoàng hậu… Đêm đã khuya, Người đang bệnh, xin hãy mau về cung.


Hoàng hậu sực tỉnh, ngẩng lên. Thật lạ lùng, bao nhiêu cảm giác đau đớn, mệt mỏi dường


như tiêu tan hết.


Bà đứng dậy. Hà Nhi dìu chủ nhân chầm chậm bước.


Bỗng nhiên hoàng hậu sụm xuống, môi tím lại. Đôi mắt bà mở to, hai tay quờ quạng đưa


ra trước, miệng mấp máy:


“Con ta…Con đã về đón mẹ …”


Hà Nhi hét lên thất thanh. Người hầu từ ngoài túa vào, xúm nhau đỡ.


Hoàng hậu ngã vật ra, lịm dần.


Khi hoàng đế đến nơi thì hoàng hậu đã ngừng thở. Bà nằm trên chiếu hoa, dưới ánh đèn


mờ ảo từ bệ thờ tỏa xuống. Trên vẻ mặt thanh thản như có phảng phất một nụ cười.


Chương 8

Con đẻ của hoàng hậu


Hạnh Thảo lúc ấy đã ra khỏi Tử Cấm Thành, nhưng còn ngủ tạm lại điếm canh nơi cửa


Hòa Bình. Trời vừa sáng, nàng xách tay nải gạo đi đường, xuất cung.


Ra khỏi cửa hoàng thành, một mình nàng đứng bơ vơ trước con đường mòn hiu hắt. Đi


đâu? Về đâu?


Chợt từ trong hoàng thành, tiếng chiêng trống bắt đầu nổi lên, hòa với tiếng khóc than


rầm rĩ khắp nơi. Theo lệnh chung từ Tổng quản thái giám, mọi người trong cung, già trẻ quý tiện


đều phải đồng thanh kêu khóc.


Hạnh Thảo còn đang ngẩn ngơ lo sợ, bỗng nàng thấy cổng Hòa Bình lại mở. Một toán thị


vệ đang khiêng một cái cáng đi ra.


Trên cáng có một người đàn bà nằm bất động.


Tốp lính vòng theo góc thành đến một ngôi nhà nhỏ. Ngôi nhà này được xây khá kỳ lạ:


Tuy nằm ngoài hoàng thành, lẽ ra phải quay mặt ra đường cái, nhưng ngôi nhà này lại quay lưng


ra đường, mặt hướng vào trong Đại nội.


Hạnh Thảo nhìn, giật mình: người nằm trên cáng chính là Hà Nhi.


“Chị Hà Nhi!” Hạnh Thảo chạy theo. Đến trước ngôi nhà, nhìn lên tấm bảng có ba chữ


sơn đen trước cửa: “Bình An đường”, Hạnh Thảo như chết điếng.


Bình An đường là tòa nhà nằm bên ngoài hoàng cung, nơi những cung nhân bệnh nặng


được đưa ra nằm chờ chết. Bởi theo luật lệ hoàng triều, trừ vua và hoàng gia, không một ai được


chết ở trong cung.


Hạnh Thảo chạy theo, kêu lên:


- Các bác ơi, sao chị ấy lại ra nông nỗi này?


Một thái giám trẻ dẫn đầu đám lính, nói với vẻ lầm lì:


- Cô ấy vì trung thành với hoàng hậu nên đã thắt cổ tự vẫn để đi theo bà xuống suối vàng.


Hạnh Thảo sững sờ. Vậy ra hoàng hậu đã chết, và Hà Nhi cũng đã chết.


Mắt Hà Nhi trợn trừng như sợ hãi điều gì. Run run, Hạnh Thảo đưa tay vuốt mắt người


cung nữ xấu số. Thân thể Hà Nhi vẫn còn chưa lạnh.


Cũng giờ ấy, trong tẩm điện, hoàng hậu đã được khâm liệm, nằm lặng lẽ, mắt nhắm


nghiền. Cả trăm tiếng khóc vây quanh, nhưng thực sự đêm qua, bà hoàng đã ra đi trong cô đơn.


Vua Gia Long ngồi trước giường, cúi nhìn đăm đăm. Trong lòng ngài, một tiếng nói thầm


thĩ vang lên:


- Ái khanh! Ái khanh có nhìn thấy trẫm không? Có nghe trẫm đang nói với ái khanh


không?


Khuôn mặt người đã khuất vẫn im lìm. Một chiếc hoa đèn trên đầu giường bỗng rơi


xuống, lóe lên như một tia mắt huyền bí rồi tắt lịm.


Vua cúi xuống nắm lấy hai bàn tay hoàng hậu đang úp trên ngực, lắc mạnh:


- Bây giờ nàng nhắm mắt rồi, bỏ trẫm rồi, trẫm còn biết làm gì cho nàng đây?


Bao giờ cũng vậy, khi người thân mất rồi, người ta mới nhận ra và ân hận: Sao mình đã


sống vô tâm như thế. Vua Gia Long giờ đây cũng vậy, đang chìm đắm trong xót thương và ân


hận. Trung Tín tìm cách an ủi vua:


- Tâu xin hoàng thượng bớt buồn thương. Khi còn sống hoàng hậu ngày đêm chỉ lo cho


mình rồng của hoàng thượng được khỏe. Nay cứ trằn trọc như vậy, lệnh bà dưới suối vàng sẽ rầu


lòng lắm đó!


Vua Gia Long bất giác khóc rống lên. Mấy giây sau, ngài gượng trấn tĩnh lại:


- Trung Tín, ngươi mau truyền lệnh ta: Cái gì lúc sinh thời hoàng hậu ưa thích, từ cái ăn


cái mặc, người hầu kẻ hạ, nay phải dâng cúng y như vậy. Trong tẩm điện này, cho gọi các nô tỳ


thân tín của bà đến, bắt chúng nó túc trực để phụng sự cho thật đúng ý hoàng hậu.


Một thái giám đứng gần đó thưa:


- Tâu, hai thị nữ hoàng hậu yêu nhất là Hà Nhi và Hạnh Thảo. Nhưng Hạnh Thảo đã bị


xuất cung…


Trung Tín ngắt ngang:


- Ai bảo ngươi là Hạnh Thảo đã xuất cung? Im ngay!


***


Sáng hôm ấy, được cấp báo, Phạm Đăng Hưng đã vội vào hoàng cung lo việc lễ tang


hoàng hậu. Gần đến giờ Ngọ, ông ra khỏi cửa Hiển Nhơn định quay về công đường. Đang cho


ngựa đi nước kiệu, chợt thấy cô gái đang khóc lóc bên bụi cây, Đăng Hưng dừng ngựa. Ông cứ


tưởng cô gái này đang thi hành lệnh “khóc hoàng hậu” từ trong cung ban ra. Tuy không chính


thức thành văn, nhưng người ta cứ rỉ tai nhau thành một lệnh miệng, thế là cả kinh thành náo


loạn lên vì khóc.


Theo lệ các đời vua trước, thì mỗi lần hoàng đế, hoàng hậu, thái hậu qua đời, toàn thể


quan dân dù đang ở đâu, làm gì, khi nghe tin đều phải vật mình lăn khóc. Bởi vậy mỗi lần có


quốc tang là khắp nơi, trên đường, ngoài ruộng, chỗ nào cũng rền vang tiếng khóc gào. Các việc


cưới gả, vui chơi xướng hát và các y phục có màu sắc nhất nhất đều phải bỏ hết.


Nhưng đó là chuyện cũ rồi, vì từ đời Nghĩa vương Nguyễn Phúc Thái, Chúa Nguyễn đã


định lại lệ mới. Theo lệ mới, quân dân chỉ để tang cho đến rằm tháng bảy thôi, việc bắt buộc gào


khóc thương tiếc cũng giảm bỏ. Đăng Hưng dừng ngựa, lên tiếng:


- Nàng kia, vì sao mà khóc? Triều đình từ lâu đã ban lệnh mới, dân gian thiên hạ cứ bình


thường theo công việc làm ăn, bất tất phải đấm ngực khóc kể.


40


Hạnh Thảo nghe quan lớn hỏi, vội lau nước mắt, kể lể sự tình.


- Thiếp mồ côi cha mẹ, làm nô tỳ trong cung. Nay bị đuổi về quê nhà, nhưng cũng chẳng


biết quê nhà ở đâu mà về. Tiến thối lưỡng nan nên chỉ còn biết khóc!


Đăng Hưng trong lòng ái ngại:


- Qua cách nàng nói, rõ là lương thiện nết na, sao trong cung lại đuổi không dùng?


Hạnh Thảo cúi đầu:


- Chuyện của tiện thiếp kể ra thì dài lắm! Tiện thiếp chăm chỉ làm việc, lại có chút tài nấu


nướng. Nếu quan lớn có cần người bếp núc, xin cho tiện thiếp được sung làm nô tỳ trong phủ.


Đăng Hưng ngần ngại. Trong phủ đúng là chưa có người nấu bếp, nhưng ông ăn uống


đạm bạc, chỉ cần mấy người lính hầu nấu nướng sơ sài cũng đủ rồi! Ít lâu nữa thì thu xếp đón


phu nhân ra là ổn. Đâu cần thêm người làm chi?


Định từ chối nhưng rồi ông lại áy náy: Đầu xanh tuổi trẻ như nàng này, nếu trôi giạt


không ai bảo bọc thì dễ bị bọn lưu manh làm hại lắm! Chép miệng, Đăng Hưng bảo:


- Nếu khó quá thì nàng tạm thời cứ đến phủ ta làm đỡ vài hôm. Ta sẽ tìm nơi cho nàng


nương náu lâu dài sau.


Hạnh Thảo nghe nói, vội vòng tay tạ ơn. Bỗng một tốp lính từ phía sau ào tới, lôi kéo:


- Đây rồi! Chị ta đây rồi!


Hạnh Thảo sợ hãi kêu thất thanh:


- Trời ơi, chi vậy, các ông muốn chi?


Lính vừa lôi nàng đi vừa quát:


- Có lệnh trên hủy bỏ việc xuất cung, gọi nô tỳ Hạnh Thảo trở lại gấp!


- Hôm qua vừa đuổi tôi đi, giờ tôi đã quyết đi thì bắt lại, thế là thế nào?


- Chúng tôi không biết, chỉ biết lệnh trên ra sao cứ vậy thi hành. Chính lệnh thay đổi từng


giờ, chị có dám thắc mắc thì cứ vô cung rồi kiếm bề trên mà hỏi!


Tốp lính dẫn Hạnh Thảo đi.


Phạm Đăng Hưng chẳng hiểu thế nào, chỉ còn biết nhìn theo, lắc đầu.


Hạnh Thảo về lại hoàng cung, được sung vào đội thị nữ chầu chực linh sàng, ngày đêm


túc trực bên linh cữu hoàng hậu.


Hôm sau. Chiếc áo quan bằng gỗ xạ hương được đậy lại, trước giờ hoàng gia tề tựu làm


lễ phục tang.


Trong cung Đoan Trang, Nhị phi dậy rất sớm, y phục chỉnh tề ngồi trên đoản kỷ. Dù mặc


tang phục, vẻ mặt bà không giấu nổi vẻ rạng rỡ.


- Gọi hoàng tôn Tông cho ta. - Nhị phi truyền lệnh.


Hoàng tôn tên là Nguyễn Phúc Tông, là con đầu lòng của hoàng tử Đảm, cháu nội đầu


của Nhị phi.


Mẹ của Tông là cung tần Hồ Thị Hoa, người vợ đầu tiên của hoàng tử Đảm. Sinh ra Tông


được hơn mười hôm thì Hồ Thị Hoa mắc sản hậu mà chết khi mới mười tám tuổi.


Từ ấy, Tông lớn lên trong cung Đoan Trang của Nhị phi.


Lệnh Nhị phi truyền ra, một lát sau, trên bậc cửa xuất hiện một thiếu niên mặt mũi khôi


ngô trắng trẻo.


- Tông đâu? - Nhị phi gọi.


-Trình tổ mẫu, cháu đây. - Hoàng tôn Tông đáp bằng một giọng rụt rè.


Nhị phi lấy giọng uy nghi:


- Tông, ngươi đi với ta. Ta muốn dạy ngươi bài học đầu tiên, để sau này ngươi nhớ mà tự


sinh tự tồn. Loài cỏ cây chen lấn nhau để giành đất sống, loài người cũng vậy. Trong chốn cung


đình này càng như vậy! Một là đạp người khác xuống để vươn lên, hai là chịu giày xéo dưới gót


chân người khác. Có phải thế không?


Hoàng tôn Tông im lặng không đáp. Giám Trần đang đứng hầu bên cạnh, đỡ lời:


- Dạ, lệnh bà dạy chí phải. Nay lệnh bà đã chính thức làm chủ hậu cung, con lại nhờ ơn


bà, rồi sẽ đứng đầu hàng thái giám. Giờ đây ý muốn của bà là tối cao, chẳng còn sợ chi ai nữa.


Nhị phi nghe Giám Trần nịnh thì rất vui lòng, nhưng vẫn xua tay ra hiệu im đi.


- Cuộc chiến mới bắt đầu thôi. Đừng vội bép xép, nhà ngươi nên nhớ, cái miệng làm hại


cái thân đó.


Giám Trần cúi rạp đầu:


- Dạ dạ, con xin nghe theo lời vàng ý ngọc.


Hoàng tôn Tông quay nhìn nơi khác.


Nhị phi rảo bước, ra hiệu cho cả hai đi theo mình:


- Nhanh chân lên. Các ngươi biết vì sao ta vội không? Lát nữa đây hoàng thượng sẽ quyết


định ai là người đọc văn tế trong lễ tang hoàng hậu. Ta nghe nói Tổng tài Nguyễn Văn Thành có


ý không ủng hộ chuyện hoàng tử Đảm con trai ta đứng ra đọc văn tế, phải vậy không?


Giám Trần xác nhận:


- Dạ đúng rứa rồi. Ông ta đã dám nói với hoàng thượng là: Hoàng tử Đảm đứng đọc văn


tế e không hợp lễ.


Nhị phi mím chặt môi:


- Y nói như vậy là có ý gì?


Giám Trần hạ giọng:


- Rõ rồi, ý ông ta là muốn thằng hoàng tôn Đán đứng vào cái vị trí đó.


Nhị phi cười gằn:


- To gan. Ta còn sống sờ sờ đây chứ đã chết đâu mà để cho thằng trẻ ranh ấy ngoi lên.


- Dạ, quyết định cuối cùng là ở bệ hạ thôi. Phen này lệnh bà phải thật cứng mới được.


Nhị phi bươn bả bước vào điện Hoàng Nhân.


Mùi hương trầm ngào ngạt. Những ngọn nến leo lét cháy trên nắp áo quan.


Vua ngồi cạnh, vẻ mặt buồn rười rượi.


Nhị phi bước lại gần.


- Tâu hoàng thượng, hoàng thượng thức cả đêm sao? Sao hoàng thượng không đi nghỉ để


dưỡng mình rồng? Mọi việc thiếp đã lo liệu cả rồi! Ngày mai hoàng tử Đảm phải đọc văn tế,


thiếp đã dặn Đảm phải ăn chay nằm đất, sửa soạn thật tinh tấn cho xứng với linh hồn cao quý của


hoàng hậu.


Vua Gia Long cau mày.


- Ai bảo với ái khanh là Đảm sẽ đọc văn tế? Việc này trẫm còn phải hội ý với các đại


thần, chuyện vẫn còn phiền phức lắm chưa ổn đâu.


Nhị phi vờ ngạc nhiên:


- Tâu hoàng thượng, trong các hoàng tử thì Đảm là lớn nhất, cuộc lễ này Đảm không


đứng làm chủ tế thì còn là ai nữa?


Vua Gia Long lắc đầu:


- Ái khanh à, ta đang bực mình lắm đây, biết làm sao cho mấy ông quan già ấy hiểu rằng


việc đứng tế không đồng nghĩa với việc lên ngôi thái tử. Không ai nghĩ đến việc tỏ lòng chí


thành với người đã khuất, mà cứ nhăm nhăm gán những ý riêng tư vào đây. Trẫm còn sống khỏe


thế này mà họ cứ hăm hở bàn đến thừa kế, làm như trẫm sắp chết không bằng!


Nhị phi thiết tha:


- Hoàng thượng! Hòang thượng có còn xem thiếp là người vợ chia ngọt sẻ bùi ngày trước


không? Giang sơn này là của bệ hạ, thiếp cũng được dự phần, lẽ nào bệ hạ chẳng tin lời thiếp


hơn lời lẽ người ngoài?


Vua Gia Long thở dài:


- Trẫm tin nàng. Giờ đây là việc nhà, hoàng hậu đã mất, không dựa vào nàng thì trẫm còn


biết dựa vào ai? Nàng nói đi.


Nhị phi tiến sát gần vua:


- Việc trong gia đình vua chúa không dễ như việc ngoài thứ dân. Nhất cử nhất động, thiên


hạ trông vào đó sẽ suy ra đường đi nước bước của một vương triều. Hôm nay trên chiếc chiếu tế


này, trăm quan nhìn vào sẽ suy ra ý định của bệ hạ, dù bệ hạ có nói sao đi nữa.


Vua Gia Long gật đầu:


- Trẫm cũng biết các quan người thì phò Đán, kẻ thì phò Đảm. Mà ái khanh cũng biết,


những người phò Đán đều xuất phát từ tình cảm với hoàng thái tử Cảnh từ trước. Nay hoàng hậu


vừa mất, ai ai cũng đang dành tình cảm cho Đán vì Đán là đích tôn của hoàng hậu!


Nhị phi quyết liệt:


- Tâu hoàng thượng, đâu phải thế. Cũng có những triều thần sáng suốt hơn, họ sẵn sàng


đứng về phía Đảm vì họ nhận ra, nước có vua lớn tuổi là điều may mắn cho xã tắc. Chỉ có những


triều thần ích kỷ mới mong có vua nhỏ tuổi để tha hồ tranh quyền đoạt lợi, lũng đoạn triều chính


mà thôi!


Thái độ Nhị phi rõ rệt quá, khiến nhà vua đang muốn cởi mở tấm lòng với bà, chợt rụt lại


thủ thế:


- Ai phò ai thì cũng xuất phát từ lòng trung thành keo sơn cố kết, dù ý ta ra sao thì họ


cũng khăng khăng thế thôi.


- Tâu hoàng thượng, hoàng thượng lầm rồi. Có những người phò Đán đến chết vẫn phò


Đán, có người phò Đảm đến chết vẫn phò Đảm, ta không cần phải thuyết phục những người ấy.


Ta cần thuyết phục những người đứng giữa, những triều thần không có chủ kiến, đang chờ đón ý


trên để đầu cơ phần mình trong canh bạc quyền thế này. Những người đón gió đó đang mỏi cổ


chờ xem ai đứng trên chiếc chiếu tế ngày mai! Hoàng thượng không thể tự nói là không biết đến


sự thực ấy!


Vua Gia Long lộ rõ vẻ mỏi mệt:


- Ái khanh, những gì nàng nói ra đều là sự thực, nhưng tại sao sự thực từ miệng nàng bao


giờ cũng nhuốm một màu đen tối ảm đạm khiến nhiều khi trẫm sợ phải nghe!


Nhị phi vẫn không chịu lui:


- Hoàng thượng! Ngài nhớ không, đã bao lần nhờ những sự thực đáng buồn từ miệng


thiếp mà ngài tránh được bao nhiêu là tai họa! Làm sao điều khiển được hàng vạn con người, nếu


ngài không chịu nhìn vào chỗ sâu tối nhất trong lòng họ? Hay chính ngài cũng không chịu nhìn


thẳng vào lòng ngài? Xin hoàng thượng hãy nói đi, người có ý định truyền ngôi cho hoàng tôn


Đán hay không?


Thấy Nhị phi đang muốn dồn mình đến chân tường, vua Gia Long dịu giọng:


- Nàng hãy bình tĩnh. Đảm hay Đán lúc này đều là quá sớm. Việc kế thừa đã vội gì đâu,


chớ nên thúc bách ta. Điều làm ta bận tâm là hoàng hậu vừa nhắm mắt, ta không muốn mang


tiếng chưa chi đã gạt đứa cháu ruột của bà ra ngoài…


Nhị phi cảm thấy cờ đã đến tay:


- Tâu hoàng thượng, cháu ruột có bằng con ruột không? Đảm chính là con đẻ của hoàng


hậu mà? Hoàng thượng đã quên câu chuyện lúc còn ở thành Gia Định rồi sao?


Vua Gia Long vỗ trán:


- Chuyện gì nhỉ? Sao trẫm không nhớ? À, mà…


Bao nhiêu năm qua, trăm ngàn chuyện đã phủ lên cái ký ức xa mờ. Bây giờ Nhị phi cố


moi lại, khiến những hình ảnh cũ mập mờ tái hiện trong tâm trí nhà vua.


… Một trong những ngày đen tối nhất trong cuộc đời bà hoàng tội nghiệp: Hoàng tử


Cảnh lâm trọng bệnh, vừa qua đời giữa chiến trường Diên Khánh. Tin dữ báo về thành Gia


Định. Hoàng hậu suy sụp, hốc hác, nằm lịm trên giường, không còn nước mắt để khóc.


Thị nữ Hà Nhi, lúc đó mới khoảng mười ba tuổi, bưng chén thuốc đến bên. Từ ngoài, vua


mặc áo giáp đội mũ trụ tiến vào.


- Nguyên phi, trẫm thương nàng lắm. Nàng cố uống thuốc cho mau khỏe.


Hoàng hậu hé mắt, trước sau chỉ nói một lời:


- Con chết rồi, mẹ sống cũng vô ích, thiếp chỉ còn muốn chết.


Vua an ủi:


- Bậy nào, nàng là vợ chánh thất của ta, là mẹ của cả đàn con ta, đứa nào dù ai sinh ra


cũng là con của nàng hết. Bây đâu gọi Đảm vào đây, từ nay ta cho nàng lấy Đảm làm con đẻ.


Tiếng nói của Nhị phi bên tai đưa nhà vua trở về thực tại:


- Chính hoàng thượng đã nói cho Đảm làm con đẻ của hoàng hậu! Hoàng thượng có nhớ


không?


Nhà vua đã nhớ ra. Dù vẫn thường làm vua mệt mỏi với cái tính hiếu thắng và nhiễu sự,


nhưng Nhị phi luôn tìm được cách gỡ rối mỗi lúc ngài lâm thế bí.


Ngày mai lại, từ tờ mờ sáng, các đại thần và tôn thất đã xếp hai hàng tề tựu trong sân. Hai


vị công thần đầu triều: Tiền quân Nguyễn Văn Thành và Tả quân Lê Văn Duyệt đang ngồi chờ


trong nhà Thần khố trước điện. Thấy Thượng thư bộ Lễ Phạm Đăng Hưng bước vào, Nguyễn


Văn Thành lên tiếng:


- Ông Phạm! Hôm qua chúng tôi đã dâng lời tâu xin cho hoàng tôn Đán đứng đọc tế văn.


Sao hôm nay bộ Lễ các ông tự ý sửa lại, để cho hoàng tử Đảm đứng đọc?


Phạm Đăng Hưng điền tĩnh:


- Bẩm Đức ông, hạ quan tuy đứng đầu bộ Lễ nhưng chỉ dám quyết những việc thuộc về


quy tắc lễ nghi. Còn ai đứng đọc thì lại là việc riêng của nội bộ hoàng gia, Hưng tôi đâu dám


tranh quyền?


Nguyễn Văn Thành hạch hỏi:


- Hoàng gia là ai? Ai tự tiện thay đổi việc này?


- Là trẫm! - Vua Gia Long vừa tiến vào, vừa phán. - Chính trẫm đây. Trẫm đã quyết định


cử hoàng tử Đảm đứng ra tế hoàng hậu.


Toàn thể các đại thần nhất loạt đứng dậy. Nguyễn Văn Thành nói ngay:


- Tâu hoàng thượng! Người đứng tiễn hoàng hậu ra đi lẽ ra phải là Anh Duệ hoàng thái tử


tài đức vẹn toàn. Hoàng thái tử là trưởng nam, không may mất sớm, vị trí ấy tất phải dành cho


cháu đích tôn thừa kế. Để hoàng tử Đảm đọc, theo hạ thần là không phải lẽ!


Vua Gia Long bình thản:


- Đảm là con, thừa lệnh cha để tế mẹ, như thế có gì mà không hợp lẽ?


Nguyễn Văn Thành vốn là chiến hữu sa trường của nhà vua, cũng được đặc quyền nhập


triều bất bái như Lê Văn Duyệt, nghĩa là được hoàng đế xem như tay chân cốt thiết. Tính ông lại


cương trực, nên chẳng có chuyện gì không dám nói.


- Tâu hoàng thượng, Đảm không phải đích tử, nói là con hoàng hậu thì không sai nhưng


chẳng qua cũng là ép uổng thôi!


Thái giám Trần, nay đã là tổng quản trong cung, thấy nhiều đại thần đang tiến lên định


hưởng ứng Tiền quân Thành, liền vội vàng bước ra:


- Bẩm Đức ông, hoàng thượng nói hoàng tử Đảm là con hoàng hậu là đủ tình đủ lý. Năm


xưa ở Gia Định, hoàng thượng đã khiến Đảm lạy hoàng hậu làm mẹ ruột, các ông không biết nên


mới nói càn.


Nguyễn Văn Thành thấy tên thái giám này nhảy vào cản đường mình thì bực tức chỉ


muốn cho gã một nắm đấm. Ông cố kiềm chế, đưa mắt nhìn Lê Văn Duyệt. Duyệt vốn chưa


muốn lộ rõ lập trường trong chuyện này, muốn chờ thời cơ xoay chuyển ra sao rồi sẽ tính.


Nhưng thấy Thành đưa mắt cầu viện, nếu đứng im cũng không tiện, đành nói một câu:


- Tâu hoàng thượng, việc hoàng hậu nhận hoàng tử Đảm làm con đẻ, lâu nay chúng thần


chưa nghe ai nói, cũng không rõ đầu đuôi thế nào? Phạm thượng thư, chúng tôi là võ biền không


hiểu phép tắc, vậy theo ông, ông nghĩ sao?


Phạm Đăng Hưng biết câu nói của Lê Văn Duyệt tuy có vẻ vô tư nhưng thật ra rất sắc


sảo. Vốn tính ngay thẳng, ông cứ thực thà nói ra ý nghĩ của mình:


- Việc nhận con, theo luật thì phải có khế khoán làm bằng cứ, còn theo lễ thì trước hết lấy


tình cảm thương mến giữa con hiếu mẹ hiền làm cốt lõi. Lâu nay hoàng tử có thường lui tới vấn


an chăm sóc hoàng hậu quyến luyến như tình mẹ con ruột thịt không? Nếu có thế thì mới gọi là


đã làm con đẻ của hoàng hậu. Nếu không có vậy, mà khế khoán cũng không có, thì việc nhận


con ấy chẳng qua là việc nói cho vui, không thể lấy ra để định đoạt hương hỏa được.


Vua Gia Long lặng thinh. Bỗng bức màn sau lưng nhà vua lay động, một tiếng nói đột


ngột vang lên:


- Việc này có khế khoán, và khế khoán đó nhất định vẫn còn nằm trong thư khố của


hoàng hậu!


Các đại thần nhìn lên: Nhị phi đã tiến ra, đối diện với tất cả triều thần.


Im lặng ngỡ ngàng bao trùm tất cả. Đôi mắt người đàn bà tỏa ra một ánh sáng lạnh lùng


và cương quyết, khiến trong giây lát mọi người như bị thôi miên. Nhưng chỉ một phút sau,


Nguyễn Văn Thành đã lấy lại bình tĩnh:


- Bẩm lệnh bà, nếu thực có khế khoán, xin hãy đưa ra đây cho chúng thần thực lòng tâm


phục.


Vua Gia Long gật đầu, bảo Giám Trần:


- Nếu có, thì hãy gọi cung nữ nào quản thủ thư khố của hoàng hậu lục tìm ngay.


Hạnh Thảo lúc đó đang đứng hầu châm nước trong một góc điện. Vừa làm việc, cô vừa


lắng nghe cuộc tranh cãi. Một cảm giác lạnh buốt từ từ bao trùm khiến cô run rẩy.


“Thị nữ quản thủ của hoàng hậu là chị Hà Nhi chứ còn ai nữa. Trời ơi, mình hiểu rồi. Cái


chết của chị Hà Nhi… Nhất định không phải là chị ấy tự vẫn!”


Có thể lắm, người ta đã giết Hà Nhi để thay người khác vào đó! Hạnh Thảo lảo đảo,


muốn sụp xuống nhưng cố gắng gượng lại.


Ở bên ngoài, Lê Văn Duyệt đưa mắt nhìn Phạm Đăng Hưng ra hiệu. Phạm Đăng Hưng


khẽ xích lại gần. Duyệt nói khẽ:


- Thua rồi. Đừng cố nói nữa. Đừng hùng hổ như mấy ông thuộc nhóm ông Thành, thật


nguy hiểm.


Phạm Đăng Hưng đang còn chưa hiểu hết ý thì Tổng quản thái giám Trần đã quay lại:


- Xin các quan yên tĩnh! Đây là cung tỳ quản thủ của hoàng hậu!


Một ả cung nữ từ cung Khôn Thái đi qua hành lang bước vào, hai tay bưng tráp.


- Tiện tỳ là Nguyễn Thị Lê, xin ra mắt hoàng thượng và các quan lớn!


Cô ta mở tráp cho thấy một tờ giấy ố vàng.


- Trung Tín, đọc xem trong đó viết gì. - Nhà vua phán.


Trung Tín đọc:


- Tâu, đây là thủ bút của hoàng hậu, hạ thần xin đọc:


“Ta là Tống Thị Lan, Nguyên phi của Nguyên soái Nguyễn Vương, hôm nay nhận


Nguyễn Phúc Đảm làm con ruột, y theo lệnh của vương thượng và sự đồng thuận của Tả cung


tần Trần Thị Đang. Khế khoán này làm ngày Ất Dậu tháng Giáp Tuất năm Bính Tý tại thành Gia


Định.”


Nhị phi dõng dạc:


- Rõ rồi, khế khoán này xác nhận hoàng tử Đảm hiện nay là con đích tử của hoàng hậu.


Nguyễn Văn Thành vẫn hậm hực:


- Thật kỳ lạ! Hạ thần vẫn không sao tin được!


Vua Gia Long bực bội:


- Bằng chứng rành rành thế kia nhà ngươi còn không tin, thì đến cả trẫm ngươi cũng


không tin chăng? Từ nay tuyệt đối không cho ai nhắc đến chuyện Đảm hay Đán nữa!


Nguyễn Văn Thành trong lòng chưa phục, nhưng thấy nhà vua xẵng giọng nên đành miễn


cưỡng ngậm miệng.


Tiếng chiêng trống cất lên.


Hoàng tử Đảm tiến vào chiếu giữa. Buổi lễ bắt đầu.


Chương 9

Hoàng tử Đảm


Tan cuộc lễ, Phạm Đăng Hưng về phủ, lòng nặng trĩu phiền muộn. Vào triều làm quan,


quả là chật vật hơn ngồi ở địa phương nhiều lắm! Triều đình là nơi hội tụ các thế lực. Phải trái,


xấu tốt cách nhau chỉ trong gang tấc. Chỉ một tấm lòng, có đủ đâu?


Lính hầu vào dọn cơm, món nào cũng thô sơ nguội lạnh. Phạm Đăng Hưng gắp qua loa


mấy miếng rồi bỏ đũa.


Chợt người gác cổng vào thưa:


- Bẩm quan lớn, có người xin ra mắt.


- Ai vậy? Ta đang mệt lắm, có chuyện gì gấp không?


- Dạ bẩm quan lớn, thấy người ta khoác tay nải, chắc đi từ xa tới.


- Thôi được, con ra bảo họ vào đây.


Một người hiện ra trên ngưỡng cửa. Đăng Hưng nheo mắt một lúc vì nhìn ngược sáng.


Ủa, đây là người cung nữ mới gặp cách đây mấy hôm.


- Tiện thiếp xin chào quan lớn! Hạnh Thảo cúi đầu thi lễ, vẻ mặt nàng bơ phờ tiều tụy.


Đăng Hưng ngạc nhiên:


- Nàng đã được triệu về cung, sao lại đến đây?.


Hạnh Thảo quỳ xuống:


- Tiện thiếp đang gặp nguy, xin quan lớn rộng lòng cứu mạng.


- Có chuyện gì, nàng hãy đứng lên, nói ta nghe.


Hạnh Thảo biết Đăng Hưng tử tế, nên thực tình kể hết những chuyện tai nghe mắt thấy


trong cung. “Không dám giấu quan lớn, khi hoàng hậu còn sống thương nhất là Hà Nhi và thiếp.


Nay Hà Nhi chết rất bí ẩn, tiện thiếp lo cho phận mình nên nhân lúc tang ma lộn xộn, lánh mình


đến đây xin quan lớn mở cho một đường sống.”


Đăng Hưng nhíu mày:


- Nàng nói Hà Nhi là cung tỳ thân tín của hoàng hậu sao? Vậy cung tỳ Nguyễn Thị Lê là


ai?


- Bẩm quan lớn, cung tỳ Nguyễn Thị Lê trước đây tuy ở trong cung hoàng hậu nhưng


không hề được trao giữ đồ vật gì cả, chỉ mới thay Hà Nhi sau khi Hà Nhi chết mà thôi!


Đăng Hưng hiểu ngay, ông lặng đi ngẫm nghĩ. Việc này không phải nhỏ, người con gái


này trốn đi là phải, nhưng để nàng ta ở đây thì cũng rất dễ nảy sinh rầy rà cho ta. Nhị phi đã toàn


quyền cai quản cung cấm, nếu biết chuyện nhất định bà ấy không để cho ta yên.


Hạnh Thảo thấy Đăng Hưng ngần ngừ, vội sụp lạy:


- Xin quan lớn cứu mạng cho thiếp, thiếp cả đời xin hết sức hết lòng báo đáp.


Đăng Hưng trong lòng thực khó nghĩ, không biết tính sao. Giữ lại thì rước họa vào thân,


mà xua đuổi thì không đành lòng. Người con gái này, chắc chỉ hơn Hằng, con gái ta chừng bảy


tám tuổi gì đó. Liên tưởng đến con gái yêu ở quê nhà, lòng Đăng Hưng bỗng chùng lại, nao nao.


Ông thấy tội nghiệp cho Hạnh Thảo, cha mẹ không có, nếu không ai cưu mang thì cuộc đời sẽ


trôi nổi, danh tiết cũng khó bảo toàn. Chép miệng, Đăng Hưng thở dài bảo:


- Biết làm sao đây… Thôi, nàng hãy tạm lưu lại, cùng với lính hầu lo việc bếp nước, chờ


ta từ từ thu xếp.


Hôm sau, Đăng Hưng đến dinh Tả quân Lê Văn Duyệt, câu chuyện trong cung vẫn còn


day dứt trong lòng. Nghe Đăng Hưng tâm sự, Tả quân lấy làm mừng. Ông cẩn thận bảo hai thị


nữ đang hầu quạt:


- Cho hai ngươi lui, khi nào ta gọi hãy vào.


Thị nữ lui ra. Duyệt ra hiệu cho Đăng Hưng xích ghế lại gần hơn:


- Hay lắm! Ả nô tỳ đó là một bằng chứng rất quan trọng. Vậy là rõ, đã có cả một âm mưu


được sắp đặt để Đảm giành được vị trí chủ tế trong lễ tang hoàng hậu.


Đăng Hưng ngậm ngùi:


- Với Hưng, thì Đảm hay Đán đều là dòng máu của hoàng thượng. Ai lên ngôi, Hưng


cũng vẫn là bề tôi hết sức tận trung. Chỉ có điều Hưng lo nghĩ là, đã có một thế lực lộng hành


như vậy ngay trong chỗ cao sâu nhất của cung đình. Thật nguy hiểm.


Lê Văn Duyệt vỗ vai Đăng Hưng:


- Ông Hưng, tôi đã bảo ông rồi, nơi đâu có quyền lực, ở đó có âm mưu và tranh đoạt.


Chúng ta không thể tránh sự thực đó. Trái lại, phải biết biến nó thành có lợi cho ta, hoặc ít nhất,


cũng làm cho nó không làm hại được ta.


- Vậy trong tình hình hiện nay, chúng ta có thể làm gì?


- Chưa thể làm gì được cả. Phải chờ thôi. Ta chưa muốn quyết định một hướng nào.


Đăng Hưng cảm thấy hơi thất vọng:


- Thật lòng hạ quan cảm thấy rất mến phục thái độ dũng cảm, thẳng thắn của Đức ông


Nguyễn Văn Thành.


Lê Văn Duyệt cười:


- Ông Hưng! Ta biết tính cách ông lắm. Bởi thế ta khuyên ông hãy bình tĩnh. Ông Thành


là người quá tình cảm, quá lương tâm. Nhưng đã dự vào triều chính, chỉ lương tâm và tình cảm


không đủ. Để rồi ông xem, nếu ông ta cứ cái kiểu cách như thế, thì chưa biết chừng họa sát thân


sẽ tới. Mà khi cái thân đã không còn thì có thể phò ai chống ai được nữa?


- Vậy ý Đức ông ra sao?


- Hãy tính việc trước mắt cái đã. Ta khuyên ông nên giữ ả nô tỳ đó trong phủ. Đó là một


bằng chứng sống, rất cần thiết sau này. Nếu việc có lộ ra, Tổng quản thái giám có ì xèo gì, ta sẽ


đỡ cho.


- Vậy còn cái chết hàm oan của Hà Nhi, bao giờ mới có thể lên tiếng?


Lê Văn Duyệt cầm tay Đăng Hưng bóp mạnh, như có ý khuyên ông hãy kiên nhẫn:


- Thời cơ chưa đến, có nói ra cũng vô ích thôi!


Đăng Hưng buồn bã lên võng về phủ. Tưởng trang trải tâm sự cho vơi nỗi lòng, ngờ đâu


ra về lòng đã nặng còn nặng trĩu hơn!


Bữa ăn đã đến, lính hầu bưng mâm lên. Mâm cơm tươm tất đẹp đẽ khác hẳn mọi ngày.


Đăng Hưng gắp một miếng, nuốt vào đến đâu cảm giác ngọt bùi đến đấy.


- Bẩm quan, chị Hạnh Thảo nấu dọn đó! Quan thời có ngon miệng không? - Lính hầu


thưa.


Đăng Hưng gật gù:


- Ngon lắm! Nhưng có tốn kém nhiều không? Ta ăn uống thanh đạm quen rồi, bất tất phải


cao lương mỹ vị thế này.


Hạnh Thảo bước ra, khuôn mặt giờ đây vui vẻ khác hẳn vẻ bơ phờ hôm trước:


- Bẩm quan cứ yên tâm! Thiếp bỏ công tỉa vẽ nên món ăn ngon đẹp, chứ không tốn nhiều


tiền chợ đâu!


Đăng Hưng ăn thêm mấy miếng thấy hài lòng, liền dừng lại bảo các người hầu:


- Ngon lắm! Ta dùng chừng ấy đủ rồi, dành lại cho các ngươi, đem xuống ăn cho biết.


- Dạ dạ, cảm ơn quan lớn.


Thấy người hầu hí hửng bưng mâm đi, vẻ mặt vui sướng, Đăng Hưng thấy lòng nhẹ bớt


nỗi buồn…


Những ngày tế lễ xôn xao, tất bật rồi cũng qua đi. Hoàng cung lại đi vào nếp sinh hoạt


đều đặn, giống như mặt nước lặng lẽ che giấu bên dưới những dòng cuồng lưu dữ dội.


Lâu nay, từ khi hoàng hậu yếu mệt thì Nhị phi đã nắm gần hết việc thu phát, thưởng phạt


trong cung. Nay thì quyền Chánh cung thực sự thuộc về bà. Chưa được chính thức phong Hậu,


nên bà vẫn chưa dọn vào ở cung Khôn Thái. Tuy vậy, cung Khôn Thái nay vắng tanh vắng ngắt,


chỉ còn là một ngôi điện trống trải buồn hiu, trong khi cung Đoan Trang thì tấp nập cung nhân,


thái giám ra vào xin lệnh, các bà mệnh phụ chầu chực xin ra mắt hoàng phi để cầu cạnh ơn


trên…


Cái không khí rộn ràng ấy không khỏi ảnh hưởng đến cậu thiếu niên đang sống lặng lẽ


trong một biệt thất trong cung. Hoàng tôn Tông năm ấy mười một tuổi, hiền hậu, thông minh,


hơi nhút nhát. Tuổi thơ không có mẹ, cậu lớn lên trong cô đơn, mặc dù người hầu hạ vây quanh,


lại luôn được bà nội kèm cặp, răn dạy.


Người duy nhất mà cậu bé cảm thấy thân thiết là tiểu thái giám họ Lê, cũng trạc tuổi chủ


nhân. Sáng hôm ấy, hoàng tôn Tông đang ngồi đọc sách trong thư phòng thì Giám Lê chạy đến,


rút trong vạt áo ra một cái hộp. Trong hộp có bốn con dế.


Hoàng tôn Tông sáng mắt:


- Thích quá! Mình cho tụi hắn giao chiến một trận thử đi!


Thái giám Lê dáo dác ngó quanh:


- Dạ, khoan, để con đóng cửa lại đã. Sợ ông Giám Trần đi qua ngó thấy, ông méc lại với


lệnh bà Nhị phi thì chết con.


Thái giám Lê ra, định đóng cửa, bỗng chạy vụt vào, mặt tái mét:


- Hoàng tôn, hoàng tôn, chết, chết!


- Cái gì chết? - Tông vừa hỏi, thì Nhị phi đã hiện ra trên ngưỡng cửa. Giám Trần đi ngay


sau bà.


Hoàng tôn Tông giật bắn mình, đứng nghiêm chắp tay:


- Cháu xin ra mắt tổ mẫu.


Nhị phi nghiêm giọng:


- Chiều nay ta bảo ngươi làm chi, nhớ không?


- Dạ… Dạ cháu nhớ.


- Làm chi? Nếu nhớ thì nói đi.


- Dạ… Bà dặn cháu chiều nay đi vấn an hoàng tử phụ thân.


- Vậy sao đến giờ còn ở đây chơi nghịch? Cái tội bất tuân, đáng xử trị như thế nào đây?


Nói đi!


Hoàng tôn im lặng cúi đầu. Giám Lê lanh lẹ đỡ lời:


- Dạ bẩm lệnh bà, vì bên điện Thanh Hòa có tin chiều nay hoàng tử đặt yến tiệc riêng


trong hậu đình. Không thấy có lệnh vời, nên chúng con không dám quấy rầy ạ!


Nhị phi tức giận:


- Nói bậy! Làm chi mà có chuyện hoàng tử mở yến tiệc trong lúc đang cư tang mẹ đẻ!


Thái giám đâu lôi cổ nó ra cho một chục roi!


Hai thái giám lực lưỡng lập tức tiến vào lôi Giám Lê ra ngoài. Cái hộp đựng dế rơi xuống


nền nhà, mấy con dế bò ra lóp ngóp.


Có tiếng roi quất và tiếng rên khóc. Hoàng tôn Tông mặt xanh lét, đứng im.


Nhị phi lắc đầu, nhìn mấy con dế, vẻ ngao ngán:


- Tông! Ngươi là dòng dõi cao quý, sau này sẽ phải gánh giang san xã tắc. Vì vậy phải uy


nghi nghiêm cẩn, không được sa đà theo trò chơi trẻ ranh. Nếu còn một lần tắc trách ham chơi, ta


sẽ cho đuổi cổ thằng Giám Lê đó!


Hoàng tôn Tông khẽ liếc theo mấy con dế, cố kìm cho khỏi rơi nước mắt:


- Xin Tổ mẫu tha tội cho con, xin đừng đuổi Giám Lê. Con xin vâng lời tổ mẫu, đi vấn an


thân phụ con ngay.


Quay phắt người, Tông lật đật đi nhanh như tên bắn.


Nhị phi gọi giật:


- Tông, ta đã dạy ngươi, khi cáo từ bề trên thì đi đứng ra sao?


Hoàng tôn vội dừng lại, quay mình đối diện với bà nội, cúi rạp mình rồi bước giật lùi ba


bước trước khi quay đi. Một giọt nước mắt đã rơi xuống, cậu vội vàng lấy mu bàn tay chùi khẽ


thật nhanh.


Nhị phi hừ một tiếng:


- Giám Trần, ngươi mau theo hộ vệ hoàng tôn.


Bên hiên Điện Thanh Hòa, nơi ở của hoàng tử Đảm, một tiệc nhỏ đang bày trên bàn đá.


Cung tần Ngô Thị Chính đang ngồi dựa vào vai hoàng tử. Thị nữ của Chính tiến ra, người


cầm quạt, người châm rượu, người cầm sênh phách, đàn sáo.


Hoàng tử Đảm ngước nhìn, bảo Chính:


- Nàng cho cung nữ lui đi, nhất là nhạc khí phải dẹp hết.


Ngô Thị Chính nhỏ nhẹ:


- Điện hạ vất vả việc tang lễ cả tháng nay, đến giờ mới được nhàn hạ đôi chút. Thiếp sắp


sẵn rượu ngon và đàn sáo, mình nào có hát xướng gì đâu, chẳng qua chỉ để thiếp ngâm đôi bài


thơ giúp ngài khuây khỏa.


Hoàng tử Đảm cương quyết:


- Nàng khờ lắm, hãy mau theo lời ta đi. Ta đang cư tang hoàng hậu, tất cả nữ nhạc phải


lui hết.


Nữ nhạc ôm đàn sáo lui ra. Hoàng tử cầm bàn tay mềm mại của Ngô Thị Chính, mỉm


cười. Thật tình, hoàng tử vẫn thèm nghe tiếng ngâm thơ ngọt ngào của nàng lắm! Khi Ngô Văn


Sở, cha của Chính đem cả gia quyến về hàng nhà Nguyễn, duyên trời xui khiến làm sao vua Gia


Long lại sai hoàng tử Đảm ra tiếp nhận. Cũng vì nghe tiếng ngâm thơ áo não của người con gái,


mà hoàng tử nảy sinh lòng thương… Đã nới tay với cả nhà họ Ngô, hoàng tử còn thu nạp nàng


vào cung cho đến bây giờ. Từ đó đến nay, mặc dù Nhị phi đã kén thêm cho con trai hàng chục


cung tần mỹ nữ, nhưng hoàng tử vẫn chỉ thấy dễ chịu khi ở bên nàng.


Sau rặng hoa, hoàng tôn Tông vừa đi đến. Nghe tiếng cha và cung tần đang nói chuyện


vui vẻ, Tông rụt rè dừng lại, ẩn mình sau cây lá. Vẻ mặt thơ ngây hằn lên nỗi đắn đo, nửa muốn


bước vào, nửa không dám.


Giám Trần đi đến sau lưng Tông, đưa tay túm lấy Tông định đẩy vào.


Tông vùng ra, chạy đi. Giám Trần lệt bệt theo sau. Hoàng tử Đảm nhìn ra, nhác thấy


bóng con trai vừa vụt qua. Chén rượu trên tay bỗng khựng lại.


Tông chạy đến một ngôi miếu nhỏ trong góc vườn thượng uyển. Ngôi miếu lặng lẽ, cô


quạnh. Bên trong miếu là bàn thờ đơn giản với tấm bài vị ghi mấy chữ: Cung tần Hồ Thị Hoa chi


vị.


Hoàng Tôn Tông chạy vào, đến trước bài vị, tay ôm choàng lấy án thờ.


- Mẹ ơi!


Chỉ có im lặng trả lời. Hoàng tôn ngước lên. Cạnh án thờ, trên vách có bức họa hình một


phụ nữ còn rất trẻ.


Hoàng tôn thì thầm:


- Mẹ ơi, mẹ có thương con không? Sao mẹ bỏ con mà đi. Con thèm có mẹ lắm!


Tông lui cui lấy nhang thắp, rồi ngồi lặng trước án thờ nhìn đăm đăm khói nhang đang


bay lên.


Hoàng tử Đảm bước vào, đứng sau lưng cậu bé.


Nghe động, Tông quay lại, giật bắn người, sợ hãi.


- Phụ thân… Con xin ra mắt phụ thân điện hạ!


Hoàng tử Đảm nghiêm nghị nhìn con một lúc, rồi chợt dịu giọng:


- Tông con…


Hoàng tử bước đến, ôm chặt Tông vào lòng.


***


Đêm hôm ấy…


Trên một quãng đường vắng ở Kim Long, một nhà thờ nằm uy nghi trong ánh nắng


chiều. Có giáo dân nào đó vừa qua đời, tiếng chuông báo tử đang đổ dồn từng tiếng một.


Linh mục ngồi trước bục giảng, đang đọc sách kinh.


Chợt một người đàn bà xuất hiện ở ngưỡng cửa.


Linh mục ngẩng đầu lên, xếp sách.


- Kìa con, con đã tới.


Nhìn bộ y phục sang trọng, ông đã nhận ra Anh Duệ vương phi Tống Thị Quyên.


- Trình cha, con đây. Thưa cha, con xin cha giúp cho con được bình an trong lòng. Từ


nhiều đêm nay, con không sao ngủ yên giấc. - Quyên vừa nói vừa quỳ gối trước mặt linh mục.


Linh mục ân cần:


- Con băn khoăn điều gì, cứ nói cho cha được biết.


Tống Thị Quyên thổn thức:


- Thưa cha, con cảm thấy bơ vơ quá. Ngày trước khi phu quân con còn sống, cuộc đời


con thật vô tư sung sướng. Nhờ có sự giáo hóa của Đức cha Bá Đa Lộc mà phu quân con đã trở


thành một người chồng tốt nhất, lúc nào cũng thương yêu âu yếm vợ con. Người ta năm thê bảy


thiếp mặc kệ, chồng con trước sau vẫn quyết tâm chỉ có một vợ một chồng.


Linh mục gật đầu:


- Như vậy là con đã thấy rõ sự tốt lành của đạo Gia Tô và văn hóa Tây dương. Dù các


con chưa chính thức là con chiên, nhưng cũng đã được ơn chăn dắt.


- Dạ, con chỉ ước chi Đức cha Bá Đa Lộc còn sống mãi, ước chi chồng con còn sống mãi!


Đức cha mất, chồng con cũng mất, con chỉ còn biết dựa vào hoàng hậu để nhờ nâng đỡ cho mẹ


góa con côi. Nhưng bây giờ thì hoàng hậu cũng mất, con chẳng còn biết dựa vào ai trên đời này


nữa…


Linh mục ngước nhìn tượng Chúa trên cây thập giá:


- Có, con vẫn còn có thể dựa vào một nơi, nơi ấy là Thiên Chúa. Không một ai trên đời


này có thể cho con tình thương vĩnh cửu như ngài.


Tống Thị Quyên gật đầu:


- Vâng, trước đây con cũng thường nghe Đức cha Bá Đa Lộc nói thế. Chính vì vậy mà


con đến đây tìm cha. Chắc cha cũng biết, phu quân con ngày trước tuy không cải đạo, nhưng tấm


lòng chàng từ lúc còn thơ ấu đã hướng về Thiên Chúa rồi. Con cũng vậy, giờ đây con muốn được


Chúa yêu thương an ủi.


Linh mục lộ vẻ vui mừng:


- Ta rất hoan hỉ đón mừng con trong ánh sáng Phúc Âm. Một khi con chịu phép rửa tội và


phó mình trong tay Chúa rồi, những lo âu sợ hãi trong lòng con sẽ tiêu tan. Dù khi con ở trong


bão bùng giông tố hay non cao vực sâu, Chúa sẽ cầm tay dẫn con đi qua tất cả.


Tống Thị Quyên nghe vậy, mắt sáng lên:


- Thật ư? Nếu Chúa có phép màu như vậy thì con mừng lắm! Chúa có giúp con bảo vệ


được ngôi báu của con trai con khỏi rơi vào tay người khác không?


Linh mục hơi chững lại:


- Quyên con, đừng hiểu lầm ý ta. Thánh kinh đã dạy “Hãy trả cho César cái gì của César,


trả cho Chúa cái gì của Chúa.” Ngôi báu, quyền lực, tiền bạc là những gì thuộc về thế gian tạm


bợ này. Tình thương của Chúa không hứa hẹn với con những chuyện ở thế gian, mà chỉ bảo đảm


cho hạnh phúc vĩnh cửu đời đời.


- Thế nghĩa là sao, thưa cha. Hạnh phúc vĩnh cửu nghĩa là sao ạ. Con chỉ mong sao Chúa


hãy vung gươm lên để bảo vệ cho hai con côi của con. Con muốn Chúa dẫn đường cho con trai


con lên ngôi vua! Nó đáng được làm vua vì giang sơn này vốn là của cha nó kia mà.


Linh mục lắc đầu:


- Quyên con, hãy coi chừng, con là đứa trẻ đang đùa với lửa, ta lo sợ cho con! Ta chỉ


muốn rao giảng cho con thấy ánh sáng của thiên đường, đừng đem những tham vọng địa ngục ra


nói với ta ở đây.


Tống Thị Quyên lăn xả đến gần, nằn nì.


- Cha không tin con ư? Xin cha đừng nghi ngờ gì cả, con thật lòng cầu mong cha giúp đỡ.


Hãy tin con. Nếu con trai con được lên ngôi báu, con sẽ bảo nó cải đạo, nó sẽ là vị vua Thiên


chúa giáo đầu tiên của nước này.


Ngoài cửa nhà thờ, một bóng đen đang đứng nấp, lắng nghe.


Linh mục và Tống Thị Quyên tiếp tục nói một lúc, rồi Quyên hấp tấp trở ra. Bóng đen


vụt thót lên cây sung gần đó, nấp kín trong bóng tối.


Đằng xa, chiếc kiệu nhỏ của vương phi đang tiến lại gần đón chủ nhân. Phu kiệu không


nhìn thấy bóng đen vì trời đã tối xẩm.


Kiệu của Quyên chưa về đến Anh Duệ vương phủ thì trong hoàng cung, Nhị phi đã biết


hết sự tình. Bà lập tức gọi con trai đến ngay.


- Con thấy đó, con thường trách ta hà khắc với chúng nó. Bây giờ xảy ra chuyện như thế,


con đã hiểu vì sao ta không dám dời mắt khỏi chúng chưa?


Hoàng tử Đảm tức giận:


- Đúng là con không ngờ. Lâu nay con vẫn nghĩ Anh Duệ vương phi Tống Thị Quyên là


người vụng về non dại. Ai nghĩ được chị ấy lại dám động đến những chuyện tày trời như vậy!


Nhị phi cười, vẫn nụ cười lạnh băng quen thuộc:


- Trên đời này vẫn thế, có những kẻ óc bằng quả trứng vịt mà lá gan thì to bằng cái nia.


Nó những toan lấy thúng úp voi, làm sao qua được con mắt của ta.


Hoàng tử Đảm đưa tay lên đốc kiếm:


- Đây là chuyện liên quan đến đất nước, xin mẹ để con tâu với phụ hoàng, đem Tống thị


tra hỏi cho ra lẽ. Đạo của người Tây dương, theo con là một mối họa cho phong hóa nước nhà.


Trong khi đạo Nho ta tôn vua là tối thượng, thì họ không nói gì đến vua mà chỉ tôn sùng Thiên


Chúa. Đã mấy lần con xin phụ hoàng xuống chiếu cấm ngặt, mà phụ hoàng con vẫn cứ làm lơ, để


cho họ tiếp tục mê hoặc dân chúng.


Nhị phi bình tĩnh can ngăn:


- Cha con ngồi trên ngôi hoàng dế, thực tâm cũng chỉ muốn Nho giáo độc tôn, nên ba


năm nay đã xuống chiếu không cho xây dựng thêm nhà thờ nữa đó! Nhưng mà cấm hẳn thì cũng


ngại, vì cha con trước đây chịu ơn phò tá của giám mục Bá Đa Lộc, ông ấy đem hết gia tài ra


giúp mình giành lại đất nước này. Hai ông Tây có công là Sai-nhô và Va-ni-ê lại đang làm quan


trong triều, thường đi lễ ở nhà thờ Phú Cam. Vì vậy vuốt mặt cũng phải nể mũi, không thể một


sớm một chiều phủi tay với họ ngay được!


Hoàng tử Đảm bực bội:


- Ơn sâu, công lớn thì cha con đã phong tước, trả vàng, chu cấp đất đai dinh thự đầy đủ.


Còn phong hóa của nước nhà, mình phải tự chủ chứ! Con mà có quyền trong tay, con sẽ cấm tiệt


ngay! Trước hết là phải đem Tống Thị Quyên ra trị ngay để làm gương.


Nhị phi thấy con cương quyết như vậy thì rất vui lòng, nhưng vốn khôn ngoan, bà biết


chưa phải lúc để hành động:


- Con chim đã úp lại trong thúng rồi, vội gì phải bắt ngay? Trước hết là bằng cớ chưa rõ,


hai là hoàng hậu mới mất, ba là có bắt con đàn bà khờ khạo ấy cũng chẳng được gì? Đập chết rắn


mẹ thì cái ổ rắn ấy vẫn còn. Con để đó cho mẹ, rồi ta sẽ tính đến chúng nó sau!


Chương 10

Người dũng sĩ ở sông Trà


Linh cữu của hoàng hậu quàn ở điện Hoàng Nhân, gần một năm sau mới an táng trên đồi


cao Kim Trà đầu nguồn sông Hương.


Sau lễ tang, công việc ở bộ Lễ mới tạm thư thả. Phạm Đăng Hưng lúc này đã dành dụm


đủ tiền gửi về quê, nhờ người đón vợ con ra kinh thành đoàn tụ.


Khỏi nói cũng biết Phạm phu nhân và con gái mừng đến mức nào. Hai mẹ con sắp sửa


khăn gói ra đi. Ai cũng khuyên xin phủ đường cấp cho xe, ngựa, nhưng phu nhân không dám trái


lời dặn của chồng, tự bỏ tiền ra thuê: một chiếc song mã cho hai mẹ con và người hầu, một chiếc


xe ngựa thồ dành chở đồ đạc. Phạm Đăng Hưng chỉ báo với phủ Tân An xin cử cho một đội hộ


vệ, theo đúng lệ triều đình ban cấp.


Sáng tinh mơ, tốp lính hộ vệ cỡi ngựa chạy tới trước sân. Đội trưởng hô to:


- Bẩm, chúng tôi thừa lệnh phủ quan, sẵn sàng hộ vệ gia quyến Phạm thượng thư về


Kinh!


Phạm phu nhân và con gái, hai người hai tay nải bên vai, bước ra. Một người hầu vừa


mướn được khệ nệ bưng đồ đạc theo sau.


Phu nhân vừa trông cho người hầu chất gạo, nếp, thịt muối, trái cây khô lên xe, vừa nhìn


quanh:


- Còn mấy lồng vịt hôm qua ta sai người nhốt sẵn, sao không thấy?


Người hầu phân trần:


- Bẩm bà, xe chở gia quyến quan thượng thư vềkKinh đô mà chất chồng lồng vịt, lồng gà,


trông nó nhếch nhác lắm! Hơn nữa, đường mình đi xa quá sợ vịt nó hổng chịu nổi nắng mưa đâu


ạ!


Phạm phu nhân không chịu:


- Xa thì xa, cũng có khi nghỉ ngơi, mỗi lần nghỉ mình cho chúng nó ăn uống chứ sợ gì?


Giống vịt đó béo lắm, quý lắm, quan lớn thì thích món vịt nướng. Ngoài miền Trung làm gì có!


Quan lớn viết thư về kể, ngoài đó tức cười lắm, cái chi cũng nhỏ nhỏ, con vịt cũng nhỏ, con trâu


con bò cũng nhỏ!


Người hầu cười tủm tỉm:


- Bẩm bà, bà cứ lo, không có thứ này thì có thứ khác, con chắc ngoài đó quan lớn cũng


không thiếu thốn gì đâu!


Phạm phu nhân xua tay:


- Ái dà, cái thằng cứng đầu! Ta bảo mày có nghe không? Mau lập tức đi bắt vịt buộc lên


cho ta. À mà quên, lấy cho ta viên than, để bôi mặt cho tiểu thư.


Hằng giẫy nẩy:


- Má ơi, con không thích bôi than lên mặt đâu má à!


- Con khờ lắm, đường ra kinh đô diệu vợi trắc trở, con gái đi đường phải lụi xụi xấu xí,


mới khỏi thành miếng mồi nhử kẻ gian đó con.


Đội trưởng thấy tội nghiệp Hằng, liền thưa:


- Xin phu nhân đừng quá lo lắng. Có chúng tôi hộ vệ, côn đồ nào còn dám quấy nhiễu?


Dù có gặp giang hồ thảo khấu nào đi nữa, hễ chúng thấy bản chức cầm cờ lệnh của triều đình


đây thì chúng cũng phải khiếp sợ chạy tan mà thôi.


Người đánh xe quất roi, ngựa chạy. Tám người lính hộ vệ theo sát hai bên.


Sau chiếc xe thồ, mấy lồng vịt đung đưa, tiếng vịt kêu “cạp cạp cạp…”


Ngày đi, đêm nghỉ, hơn mười hôm sau đoàn người ngựa mới đến đèo Cù Mông.


Hai chiếc xe nặng nhọc tiến lên dốc cao. Phạm phu nhân mệt mỏi nằm thiêm thiếp trên


chiếc chiếu cói trải dưới sàn. Xế chiều, xe mới xuống chân đèo. Cả đoàn dừng lại nghỉ chân giây


lát. Người hầu nhăn nhó gỡ lồng vịt đặt xuống đất, cho vịt ăn lúa.


Tiếng cạp cạp vang rộn lên. Đội trưởng hối thúc: “Đi thôi, nhanh nhanh đến nhà công


quán nghỉ đêm, mai lên đường cho thiệt sớm. Bây giờ tháng chín, mấy cái tỉnh miền Trung hay


bão lụt thình lình lắm!”


Cả đời ở trong Nam khô ráo, nay mới nghe hai tiếng mưa lụt, Phạm phu nhân đã hết hồn,


gọi chú người hầu mau mau nhốt lũ vịt để mau chóng lên đường.


Giữa lúc đoàn người ngựa trên đường đến Quảng Ngãi, thì trên dòng sông Trà Khúc, có


chú cháu nhà họ Trương đang quăng chài bắt cá trên sông.


Nơi mũi thuyền, người cháu là Trương Đăng Quế chừng mười bảy mười tám tuổi đang


cầm chèo. Quế nhìn lên trời, lo lắng:


- Chú ơi, trời âm u lắm, chắc là sắp mưa to! Mình cuốn chài về thôi. Nếu mai mưa, chợ


không họp, thì cá có bắt được nhiều cũng không bán kịp đâu.


Người chú - Trương Đăng Chất, vẫn lui cui kéo chài:


- Ái dà, ngọn gió này là dễ lụt lắm, trời mà lụt thì cá muối cá mắm ta bán còn đắt hơn cá


tươi, lo chi ế? Nhưng mà thôi, mình cuốn chài về sớm cho cháu còn học hành một chút. Về chậm


trời tối thì đèn đâu mà học.


Hai chú cháu xuôi thuyền về. Trên mui, Đăng Quế mở sách đọc. Chợt cậu ngẩng lên:


59


- Chú à, hôm trước quan giáo học ở huyện có gọi cháu. Quan hỏi cháu chữ nghĩa sách vở,


cháu đối đáp trôi chảy hết. Quan khen lắm, nói sẽ tiến cử cháu đi làm ký lục ở trong dinh quan


huyện. Vậy mà từ ấy đến nay đã ba tháng chẳng thấy quan giáo đâu, chẳng hiểu vì sao.


Đăng Chất thở dài.


- Chắc quan giáo hỏi ra lai lịch nhà ta, biết trước đây cha cháu làm quan cho nhà Tây


Sơn, nên không dám bảo cử cho cháu nữa đó. Nghĩ mà thương các cháu, giá sinh ra trong cửa


khác thì đâu có chịu tương lai mù mờ như vầy.


Đăng Quế nghe giọng chú đầy vẻ buồn tiếc, gạt đi:


- Cháu khi nào cũng biết ơn Trời đã cho mình sinh vào cửa họ Trương nhà ta. Cha cháu


dạy dỗ chữ nghĩa cho cháu từ khi còn nhỏ. Cha mất, chú thay cha nuôi cháu ăn học bao nhiêu


năm nay. Dù nghèo khổ lam lũ mà tình nghĩa lúc nào cũng trọn vẹn. Cháu vẫn còn nhớ xưa cha


dạy: Cái học để biết đạo lý mới quý chứ đâu phải ra làm chức nọ chức kia mới quý đâu.


Đăng Chất cười buồn:


- Đành là vậy, nhưng mình cũng phải sống nữa chớ. Giá mà cháu được làm ký lục trong


dinh quan huyện thì có lương tiền hàng tháng, rồi bao nhiêu nhà sẽ bắn tiếng gả con. Đâu phải


như bây giờ, ngoài hai mươi chưa kiếm được vợ. Quế à, đêm nằm chú suy nghĩ lung lắm. Khi


lâm chung cha cháu đã dặn, thằng Quế còn nhỏ mà sáng dạ thông minh, em cố làm sao lo cho nó


nên người. Lẽ nào để cháu suốt đời đâm chài bắt cá như chú sao? Kỳ này chú tính chèo thuyền


lên đầu nguồn kiếm củi, chở về bán lấy ít tiền cho cháu làm lộ phí ra kinh kỳ…


- Để làm chi vậy thưa chú?


- Cháu ra ngoài đó, tìm đến các nhà buôn, hỏi xem họ có cần thư ký không. Chú chẳng


trông cháu làm giàu làm có, chỉ mong kiếm đủ đồng tiền sau này nuôi vợ con, không phải bán


mặt cho đất, bán lưng cho trời là được.


Đăng Quế vẻ không vui.


- Làm thư ký cho nhà buôn, sớm tối chỉ có gảy bàn tính cộng cộng trừ trừ, e còn chán


hơn đâm chài bắt cá đó chú ạ!


- Biết làm sao được cháu à, gặp thời thế, thế thời phải thế.


Trong lòng phân vân nhưng chưa biết tính sao, nên hôm sau Đăng Quế cũng cùng chú


chèo ngược nguồn kiếm củi.


Thuyền neo dưới bến đầu nguồn. Hơn nửa ngày cật lực, hai chú cháu chuyển mấy gánh


củi xuống thuyền, chuẩn bị về xuôi.


Ở khúc quanh đường rừng gần đó, xe ngựa nhà họ Phạm cũng đang đi qua. Hằng thấy


đường mấp mô giằng xóc, hé cửa nhìn ra, chỉ thấy vách đá dựng đứng.


- Bác đội ơi! Mình đi ra kinh đô, sao không đi đường đồng bằng, mà lại đi theo đường


núi?


Đội trưởng thưa:


- Tiểu thư đừng sợ! Vì thấy trời ủ ê, sợ sắp mưa to nên tôi cho đi theo đường núi cho


chắc! Đường này tuy hơi giằng xóc nhưng được cái nhanh hơn mà không sợ ngập lụt.


Phạm phu nhân lo lắng:


- Chết chưa, hôm qua ông nói vùng Quảng Ngãi có giặc Đá Vách, Đá Tường gì gì đó,


chỗ này vắng vẻ ông không ngại sao?


Đội trưởng khua cây đại đao một vòng:


- Phu nhân yên tâm, với tài võ nghệ của bản chức, bọn giặc cỏ chẳng làm gì được đâu!


Ông ta chưa dứt lời, một tiếng hú lanh lảnh vang khắp núi. Một đoàn người sơn cước ào


ra, người cầm giáo, người cầm nỏ, reo hò lao tới.


Những con ngựa hí vang sợ hãi, chồm lên. Đoàn quân hộ vệ chống đỡ nhưng không kịp.


Tên nỏ bắn ra như mưa. Đội trưởng chạy trước, tốp lính chạy theo, người hầu cũng nhắm mắt


đào tẩu. Chỉ còn trơ lại hai chiếc xe trên đường núi.


Thủ lĩnh Đá Vách chỉ chiếc xe thồ lủng lẳng mấy lồng vịt, reo lên:


- Anh em, bắt cái xe! Đồ ăn nhiều lắm đó!


Giặc Đá Vách xúm lại, lôi hết gà vịt, gạo nếp sau xe, chất sang ngựa của chúng. “Hai con


ngựa cũng tốt nữa, đem đi!” Tên thủ lĩnh ra lệnh.


“Còn hai con ở xe trước nữa, để tao bắt luôn!” Một tên Đá Vách reo lên, chạy đến chiếc


xe chở mẹ con Hằng, vung dao quắm chặt đứt dây buộc ngựa. Hai con ngựa thấy người lạ, sợ hãi


vùng lên. Dây buộc đứt lìa, chiếc xe không còn gì níu giữ, từ từ lăn xuống trên đường dốc.


Đoàn Đá Vách đã vơ vét sạch, liền kéo nhau đi, bỏ mặc cái xe đang tuột dần xuống vực.


Một tên Đá Vách đi sau cùng chợt nghe tiếng mẹ con Hằng kêu cứu trong xe. Hắn vội gọi


đồng bọn:


- He he, con gái! Có gái ở trong đó!


Mấy tên kia không thèm quay lại:


- Không cần đâu, mình thích cái ăn thôi!


Tên Đá Vách thích gái vội một mình chạy theo chiếc xe.


Triền đồi càng lúc càng dốc, chiếc xe lao phăm phăm xuống. Ngay phía dưới dốc là đầu


nguồn sông Trà Khúc.


Lúc ấy cũng là lúc hai chú cháu Đăng Quế đang chất củi lên thuyền. Đăng Chất nhìn


thấy, thất kinh, kêu to:


- Nguy quá, có người bên trong!


Đăng Quế lập tức lao lên, lấy hết sức bình sinh chộp lấy càng xe. Sức nặng chiếc xe dồn


xuống, Quế nghiến răng, ra sức chống đỡ.


Hai cánh tay Quế nổi vồng lên những bắp thịt, hai hàm răng chàng nghiến chặt. Sức nặng


cả một chiếc xe đè xuống. Đăng Chất cũng chạy đến, xuống tấn đẩy mạnh vào lưng cháu trai,


giúp sức.


- Ai ở trong xe, mau nhảy ngay ra ngoài!


Phạm tiểu thư nghe tiếng, liền nhắm mắt kéo mẹ lao ra khỏi xe, cả hai ngã nhào trên mặt


đất. Cũng vừa lúc chú cháu Đăng Quế cạn sức, nhảy qua một bên. Chiếc xe lăn nhào xuống, rơi


xuống mặt sông, chìm lỉm.


Tên Đá Vách thấy vậy, lập tức lao đến, vung dao quắm tấn công. Đăng Quế rút đoản đao


ra. Tiếng thép va chạm vào nhau, vang lên buốt óc.


Sau hơn hai chục hiệp, tên Đá Vách bị đánh văng dao, lập tức luồn rừng chạy trốn.


Đăng Chất hối hả đưa Hằng và phu nhân xuống thuyền:


- Đăng Quế, nhanh lên, xuống thuyền ngay, nó về gọi cả bọn tới đó.


Đúng như vậy, thuyền vừa ra giữa sông thì bên vách núi, đoàn người Đá Vách lô nhô phi


ngựa đến.


Chúng tức giận giương nỏ bắn theo. Tiếng tên bay nghe vun vút, Đăng Quế vội cho


thuyền đi thật nhanh, theo con nước ròng lánh xa khỏi tầm tên.


Phạm phu nhân nằm bẹp trên thuyền, hồn vía tan tác, không nói nổi lời nào.


Phạm Thị Hằng tuy còn nhỏ, nhưng thấy mẹ đã quá suy sụp, liền tự mình đến trước chú


cháu họ Trương, quỳ xuống.


- Xin tạ ơn hai vị đã cứu mạng! Về đến kinh đô, tiểu nữ nhất định sẽ nói với thân phụ


mau chóng đền ơn.


Đăng Chất gạt đi:


- Kiến nghĩa bất vi, vô dũng dã. Thấy việc nghĩa không làm, sao gọi là dũng? Chú cháu


tôi chỉ làm cái nghĩa rất bình thường của kẻ nam nhi, tiểu thư đừng nói đến chuyện ơn huệ làm


gì.


Phạm phu nhân lúc này đã hơi lai tỉnh, nghe Đăng Chất nói, không khỏi lấy làm lạ.


- Bác à, bác là dân chài lưới mà nói năng chữ nghĩa coi bộ quá rành, không biết xuất thân


thế nào?


Đăng Chất cười:


- Chẳng giấu gì, ngày trước gia đình tôi cũng khá giả, cả mấy anh em đều được theo đòi


chữ nghĩa thánh hiền. Thời Tây Sơn, anh tôi làm Tri phủ Quảng Ngãi, tôi cũng lĩnh chức Tri


huyện Mộ Hoa. Khi hoàng triều nhà Nguyễn đánh bại Tây Sơn, triều đình gọi Tây Sơn là giặc,


bắt tội anh em tôi phải đánh mấy chục roi rồi cho về quê làm ăn. Nay anh tôi đã mất, còn tôi an


phận chài lưới đã gần mười năm nay.


Phạm phu nhân cảm động:


- Vậy ra bác đây là bầy tôi cũ của nhà Tây Sơn. Đã bị triều đình cách chức, vậy mà bác


không hẹp lượng, lại ra tay cứu giúp chúng tôi là thân thích nhà quan.


Vẻ mặt Đăng Chất thoáng chút khó chịu:


- Thấy nguy là cứu, lúc đó có phân biệt gì nhà quan nhà dân đâu. Thôi, Đăng Quế, cháu


mau đưa gia quyến phu nhân đây đến tận phủ quan Quảng Ngãi, giao cho họ hộ vệ rồi quay về.


Nghe nói giao cho quan lính triều đình hộ vệ, Phạm phu nhân mặt đã tái càng tái mét


thêm, vội năn nỉ xin chú cháu Đăng Quế đã làm ơn thì làm cho trót, đưa giúp về đến tận kinh đô.


Đăng Quế cũng bàn:


- Hôm trước chú có nói đến chuyện ra kinh đô, hay là cháu nhân dịp này đi một chuyến


xem sao?


Đăng Chất gật đầu tán thành. Vậy là Đăng Quế giúp mẹ con Hằng thuê thuyền, đi theo


đường biển về Phú Xuân.


Sau ba ngày trời nước lênh đênh, thuyền vào cửa Thuận An, ngược sông Hương cập bến


Phu Văn Lâu.


Phạm Đăng Hưng ra đón tận bến sông. Thấy chồng, Phạm phu nhân òa khóc:


- Quan lớn ơi! Bao nhiêu đồ ăn thức uống đem ra cho ông, bị cướp sạch chẳng còn một


mảy.


Đăng Hưng sững sờ nghe Hằng kể chuyện dọc đường bị cướp, nhờ có cha con Đăng Quế


mới thoát nạn. Ông cảm kích nhất định mời Quế về phủ, đãi như thượng khách.


Quế lưu lại trong phủ Phạm hơn nửa tuần trăng.


Một hôm, nhân nói đến chuyện giặc cướp, Đăng Hưng hỏi về giặc Đá Vách lâu nay vẫn


hoành hành ở Quảng Ngãi.


Đăng Quế thưa:


- Thật ra người Đá Vách cũng không xấu không dữ đâu! Chẳng qua là quan lại người


miền xuôi lên đó cai trị đã không hiểu tục lệ của họ, bắt họ để tóc, mặc áo kiểu của ta, bắt họ thờ


cúng theo kiểu của ta, nên họ cảm thấy uất ức lắm! Lại thêm triều đình đánh thuế lâm sản quá


nặng, dân Đá Vách quanh năm chỉ còn biết lo đóng thuế, tối tăm mặt mũi, dần dần đem gán cả


nương rẫy. Các quan nhân đó thủ lợi, mỗi người chiếm đoạt đến vài trăm mẫu đất đồi. Họ cùng


đường như vậy, không cướp thì lấy gì mà sống?


Đăng Hưng cảm thấy xót xa. “Thật thế sao? Mảnh đất không phải quá xa xôi, mà dân khổ


như thế không ai hay!”


Cuối tháng, hết mùa mưa lũ, Đăng Quế từ giã lên đường.


Cả nhà Đăng Hưng ra trước sân đưa tiễn. Phạm Thị Hằng vòng tay bước đến, đôi mắt đen


tròn ánh lên vẻ buồn:


- Anh Quế, em sẽ luôn xem anh như người anh cả. Tình anh em chúng ta suốt đời coi


nhau là ruột thịt.


Đăng Quế cảm động:


- Đa tạ tình thân của tiểu thư! Quế chỉ mong có dịp lại được phụng sự tiểu thư lần nữa!


Nghe mấy tiếng “phụng sự tiểu thư”, Hằng nhớ lại nghĩa cử của Quế hôm nào, bất giác


rơm rớm nước mắt.


- Hằng con, đừng khóc. - Đăng Hưng an ủi con - Đăng Quế là người tài ở đời, làm sao ở


mãi nơi xa xôi ấy được. Nhất định ta sẽ tìm mọi cách đưa Đăng Quế về kinh đô!


Đăng Quế vái chào lên ngựa, quay lại nhìn một lần nữa, rồi phóng đi.


(Xem tiếp số báo tới – Chương 11)

26 Tháng Mười Hai 2020(Xem: 6317)
21 Tháng Mười Hai 2020(Xem: 6585)
27 Tháng Mười 2020(Xem: 6731)
10 Tháng Tư 2020(Xem: 6592)