VĂN HÓA ONLINE - NHÂN QUYỀN - THỨ TƯ 09 AUGUST 2017
Tranh luận lịch sử: Ai là trạng nguyên đầu tiên của nước ta?
05/08/2017
Câu hỏi này đến nay vẫn gây tranh cãi. Giới sử học giải thích về chuyện này như thế nào và đâu là sự thật?
Trạng nguyên là danh hiệu cao nhất mà sĩ tử ngày xưa có thể đạt được trong các kỳ thi nho học. Muốn trở thành trạng, người đó phải đỗ đầu, đạt điểm tuyệt đối trong các kỳ thi Đình.
Trong trường hợp đỗ đầu trong kỳ thi Đình nhưng không đạt điểm tuyệt đối, thí sinh cũng không đạt danh hiệu trạng nguyên, mà chỉ đỗ bảng nhãn hoặc thám hoa.
Đến nay, tranh luận về ai mới là vị trạng nguyên đầu tiên của Đại Việt chưa có hồi kết. Có 3 luồng ý kiến chính về vấn đề này.
Có người cho rằng trạng nguyên đầu tiên là Lê Văn Thịnh, đỗ đầu trong kỳ thi đầu tiên năm 1075. Một số tài liệu lại ghi là Nguyễn Quán Quang (Nguyễn Quan Quan), đỗ đầu kỳ thi Đình năm 1246, là trạng nguyên đầu tiên. Cũng có tài liệu giải thích Nguyễn Hiền - đỗ đầu kỳ thi năm 1247 - mới đích thực là trạng nguyên đầu tiên.
Đầu tiên là trường hợp của Lê Văn Thịnh. Ông là người đỗ đầu trong kỳ thi năm 1075, dưới thời vua Lý Nhân Tông. Đây là kỳ thi nho học đầu tiên của nước ta nên về sau Lê Văn Thịnh được một số tài liệu ghi là trạng nguyên đầu tiên. Nhưng thực tế, dưới thời nhà Lý, triều đình chưa định ra chế Tam khôi (lấy trạng nguyên, bảng nhãn, thám hoa), nên Lê Văn Thịnh không được phong trạng nguyên. Do đó, nếu gọi Lê Văn Thịnh là trạng nguyên là chưa chính xác.
Bìa sách về trạng nguyên Nguyễn Quán Quang của Nhà xuất bản ĐH Sư phạm.
Giáo sư sử học Lê Văn Lan, thông qua những nghiên cứu của mình, cũng giải thích rằng: Theo Khâm định Việt sử Thông giám Cương mục, “năm Ất Mão (1075), tuyển lấy những người minh kinh bác học và thi Nho học tam trường. Lê Văn Thịnh đỗ đầu, được chọn vào hầu vua học. Khoa cử nước ta bắt đầu từ đấy”.
Theo sách Danh tiết lục của Trần Ký Đằng, “Văn Thịnh là người làng Đông Cứu, huyện Gia Định (nay thuộc tỉnh Bắc Ninh), tính ham học. Bấy giờ chưa có khoa cử, dẫu ai thông minh, sáng láng đến đâu cũng phải do đường Phật giáo mà được lựa chọn, đề bạt. Riêng có Lê Văn Thịnh chăm đọc các sách. Đến đây, mở khoa thi, hơn 10 người trúng tuyển, Văn Thịnh đỗ đầu. Đời truyền rằng họ Lê (tên Văn Thịnh) là người khai hoa đầu tiên”.
Đoạn văn chính sử này gọi Lê Văn Thịnh là người đầu tiên đỗ đạt bằng khoa cử, mà không dùng danh hiệu trạng nguyên khai khoa. Bởi vì vào năm 1075, khi vua Lý Nhân Tông “xuống chiếu tuyển Minh kinh bác học và thi Nho học tam trường”, các bộ chính sử đều không cho biết chế độ thi cử ấy ra sao, càng không cho biết là đã có danh hiệu trạng nguyên vào lúc này.
Theo Khâm định Việt sử Thông giám Cương mục, phải đến năm Bính Ngọ (1246), triều đình mới tổ chức thi “đại tỷ”. Khoa thi năm Bính Ngọ này, danh hiệu trạng nguyên thuộc về Nguyễn Quán Quang, người xã Tam sơn, huyện Đông Ngàn, Kinh Bắc (Tiên Sơn, tỉnh Bắc Ninh).
Đến năm Đinh Mùi (1247), sách Đại việt Sử ký Toàn thư chép về chế Tam khôi: “Mùa xuân, tháng hai, mở khoa thi chọn kẻ sĩ. Ban cho Nguyễn Hiền đỗ trạng nguyên, Lê Văn Hưu đỗ bảng nhãn, Đặng Ma La đỗ thám hoa”.
Cũng theo sách này, trước đây, hai khoa Nhâm Thìn (1232), và Kỷ Hợi (1239), chỉ chia người đỗ đạt thành các hạng Giáp, Ất, chưa có Tam khôi, đến khoa này mới đặt Tam khôi (tức trạng nguyên, bảng nhãn, thám hoa).
Sách Khâm định Việt sử Thông giám Cương mục cũng chép rằng: “Tháng hai, mùa xuân (1247), thi Thái học sinh. Trước đây, thi lấy học trò đỗ đạt, chỉ chia ra hai hạng Giáp, hạng Ất để phân biệt người đỗ cao, thấp. Nay mới đặt ra Tam khôi, lấy Nguyễn Hiền đỗ trạng nguyên, Lê Văn Hưu đỗ bảng nhãn, Đặng Ma La đỗ thám hoa. Còn 48 người đỗ Thái học sinh đều được xuất thân theo thứ tự trên dưới khác nhau”.
Như vậy, kỳ thi Tam khôi đầu tiên ở nước ta được tổ chức năm 1247. Trạng nguyên của kỳ thi này là Nguyễn Hiền. Nhưng lịch sử khoa bảng lại tính Nguyễn Quán Quang là vị trạng nguyên đầu tiên bởi vì Nguyễn Quán Quang đỗ đầu khoa thi "tiến sĩ" trước đó chỉ một năm (năm 1246).
Cũng theo giáo sư sử học Lê Văn Lan, trong danh sách 47 vị trạng nguyên treo ở Văn Miếu - Quốc Tử Giám, Nguyễn Quán Quang được ghi đầu tiên rồi sau đó mới là Nguyễn Hiền!
Trạng nguyên nổi tiếng trong lịch sử Việt Nam Trạng Lường tên tự Cảnh Nghị, hiệu Thụy Hiên, là nhà toán học, nhà thơ nổi tiếng thời Lê sơ. (Nguyễn Thanh Điệp)
4 nhân tài Việt trở thành trạng nguyên ở xứ người
28/07/2017
Với đức tính thông minh, hiếu học, người Việt sớm khẳng định được trí tuệ của mình trong buổi đầu lịch sử. Trong đó, nhiều người đã trở thành trạng nguyên nơi đất khách.
Không chỉ nổi danh trong nước, nhiều nhân tài người Việt còn được phong "Lưỡng quốc trạng nguyên". Họ đỗ đầu những kỳ thi ở nước ngoài và được tôn vinh.
Trạng nguyên triều Đường Khương Công Phụ
Theo Đại Việt sử ký toàn thư, Khương Công Phụ (731-805) tự là Đức Văn, người làng Sơn Ổi, xã Cổ Hiển, nay là làng Tường Vân, xã Định Thành, huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa. Ngay từ khi còn nhỏ, ông đã nổi tiếng thông minh, học hành chẳng bao lâu đã thuộc làu kinh sách.
Dưới đời vua Đường Đức Tông (780-803), ông sang kinh đô Trường An dự thi. Vượt qua hàng nghìn sĩ tử của Trung Quốc và các nước lân bang, ông đỗ đầu. Sau khi đỗ trạng nguyên, Khương Công Phụ được vua Đường phong chức hiệu thư lang, sau thăng dần đến tể tướng, chức quan đứng hàng đầu triều đình phong kiến.
Hiện nay, đền thờ của Khương Công Phụ, cùng những sắc phong mà các triều đại phong kiến đã ban cho ông, vẫn còn ở Yên Định, Thanh Hóa.
Khương Công Phụ là trường hợp “có một không hai” trong lịch sử phong kiến ở Việt Nam, khi là người Việt đầu tiên thi đỗ trạng nguyên ở xứ người, giữ vị trí cao trong bộ máy cai trị của cả đất nước Trung Hoa. Giới nho sĩ qua nhiều thế hệ đều ca ngợi Khương Công Phụ không chỉ tài năng văn chương, mà còn có phẩm chất, tư cách của một “kẻ sĩ” xuất trúng.
Khương Công Phụ
Mạc Đĩnh Chi - trạng nguyên Mông Cổ
Mạc Đĩnh Chi là một trong những trạng nguyên nổi bật nhất trong lịch sử phong kiến Việt Nam. Ông tự là Tiết Phu, hiệu Tích Am, quê làng Lũng Động, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương (nay thuộc thôn Lũng Động, xã Nam Tân, huyện Nam Sách, Hải Dương). Ông vốn là hậu duệ 7 đời của trạng nguyên Mạc Hiển Tích thời Lý.
Năm Giáp Thìn (1304), ông thi đỗ trạng nguyên khi mới chỉ 24 tuổi, ra làm quan cho ba triều vua, gồm Trần Anh Tông, Trần Minh Tông và Trần Hiến Tông. Mạc Đĩnh Chi được thăng đến chức Đại liêu ban tả Bộc xạ (tể tướng).
Ông hai lần được cử sang phương Bắc vào các năm 1308 và 1322. Ngay trong chuyến đi đầu tiên, ông đã chứng minh tài năng, cốt cách của người Việt, buộc vua Nguyên phải phong mình làm trạng nguyên Bắc triều (lưỡng quốc trạng nguyên).
Nguyễn Trực - trạng nguyên của nhà Minh
Nguyễn Trực sinh năm Đinh Dậu (1417), trong một gia đình nho học. Năm 1442, ông đỗ đầu trong kỳ thi Đình, trở thành trạng nguyên đầu tiên của triều Lê. Ông đồng thời cũng là vị trạng nguyên đầu tiên được khắc tên tại bia đá ở Văn Miếu - Quốc Tử Giám.
Sau khi thi đỗ, ông được vua Lê Thánh Tông tin dùng, phong nhiều chức vụ quan trọng của triều đình. Đặc biệt, với trí tuệ uyên bác, hiểu sâu, biết rộng, ông thường được cử tiếp sứ giả các nước trong khu vực, đồng thời cử đi sứ phương Bắc.
Trong một lần đi sứ, nhân dịp triều đình nhà Minh mở khoa thi tuyển chọn nhân tài, Nguyễn Trực dự thi và đỗ đầu, qua đó trở thành “lưỡng quốc trạng nguyên”.
Nguyễn Đăng Đạo - trạng nguyên của nhà Thanh
Nguyễn Đăng Đạo (1651-1719) là người thôn Hoài Thượng, tên nôm “Bịu Thượng”, nay thuộc xã Liên Bão, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh. Vì thế, dân gian gọi ông là Trạng Bịu.
Ngay từ khi còn nhỏ, ông đã nổi tiếng thông minh hoạt bát, học rộng hiểu nhiều. Trong khoa thi Đình năm 1683, ông đỗ trạng nguyên. Sau đó, ông được bổ chức Đặc tiến kim tử vinh lộc đại phu, thăng chức Thượng thư bộ Lễ kiêm Đông các Đại học sĩ nhập thị kinh diên thọ lâm bá, Thượng thư bộ Lại, Thượng thư bộ Binh kiêm Bồi tụng và thăng đến chức Tham tụng (tể tướng).
Đầu năm Đinh Sửu 1697, ông được cử đi sứ nhà Thanh. Trong chuyến đi này, bằng tài năng và trí tuệ của mình, Nguyễn Đăng Đạo đã làm kinh ngạc cả triều đình nhà Thanh cùng sứ thần các nước. Khâm phục trước tài năng của vị trạng nguyên người Việt, vua Thanh phong cho ông là Trạng nguyên của Bắc triều, ban mũ áo, võng lọng cho ông vinh quy về nước.
Sau khi ông mất, vua Lê Dụ Tông ban tặng 4 chữ vàng “Lưỡng quốc trạng nguyên”, treo tại nhà thờ ông ở thôn Hoài Thượng (Bắc Ninh). Ông cũng được dân làng thờ làm thành hoàng làng.