Cuộc đấu tranh đòi đất đầu tiên trong bang giao Việt-Trung

18 Tháng Mười Hai 201810:30 CH(Xem: 6984)

VĂN HÓA ONLINE - DIỄN ĐÀN VĂN HÓA  - THỨ TƯ  19 DEC 2018


Cuộc đấu tranh đòi đất đầu tiên trong bang giao Việt-Trung (P1)


Posted on 14/12/2018 by The Observer


image009


Tác giả: Hồ Bạch Thảo


Đừng hỏi tổ quốc làm gì cho bạn. Hãy hỏi bạn có thể làm gì cho tổ quốc.


J.F. Kennedy


Lời giới thiệu


Lý Nhân Tông là  vị Vua giữ ngôi cao lâu dài nhất trong lịch sử nước ta, với 56 năm trị vì, đất nước được thái bình thịnh vượng; lại có các tướng giỏi như Thái phó Lý Đạo Thành, Thái úy Lý Thường Kiệt phụ giúp, lập nên võ công hiển hách, phạt Tống, bình Chiêm; khiến lân bang phải nể sợ. Bấy giờ nước ta bị mất một số đất vào tay nhà Tống; qua tháng năm dài, khi dùng binh đe dọa, khi thư từ ngoại giao, nhà vua kiên trì đòi đất. Có lúc Vua đích thân gửi thư cho Vua Triết Tông nhà Tống, nội dung với lòng thiết tha tấc đất của tổ tiên, có đoạn như sau:


Tuy những đất này chỉ nhỏ như viên đạn, nhưng rất đau đớn trong lòng, thường không rời trong giấc mộng; thực do tổ tiên thần trước đây giết bắt kẻ tiếm nghịch, xông pha nơi gian nan nguy hiểm, liều chết mới có được. Nay kẻ hậu sinh không thừa kế được tổ tiên, chưa tròn phận sự nơi cương vực, chỉ sống tạm trong khoảnh khắc mà thôi” [1]


Các bộ sử nước ta thời xưa như Đại Việt Sử Ký Toàn Thư chép sự việc thiếu chi tiết, và chỉ chép đến lúc  đòi được châu Quảng Nguyên vào năm 1084; nhưng cuộc đấu tranh dành đất thực sự kéo dài đến năm 1088. Nhắm bổ sung và phối kiểm lịch sử, chúng tôi xin sao lục thêm nguyên văn các tư liệu liên quan đến việc đòi đất trong các bộ sử Trung Quốc như Tục Tư Trị Thông Giám Trường Biên của Lý Đào đời Tống và Tống Sử của Thoát Thoát đời Nguyên; rồi xếp thành tiểu mục để độc giả tiện bề tham khảo; các  mục như sau:


  • Vùng đất bị mất
  • Nhà Tống kinh doanh vùng đất mới chiếm, nhưng bị nước Đại Việt gây áp lực
  • Ngoại giao đòi lại đất: các phái đoàn Lý Kế Nguyên, Đào Tông Nguyên
  • Ngoại giao đòi lại đất: các phái đoàn Lương Dụng Luật, Đào Tông Nguyên, Lê Văn Thịnh
  • Tiếp tục ngoại giao đòi đất cùng vụ án Lê Văn Thịnh.

Bài viết dùng nhiều tư liệu làm bằng chứng; để tránh rườm rà, xin chép vắn tắt tên các sách, bản đồ trích dẫn:


  • Bản đồ Quảng Nam Tây Lộ cho đời Bắc Tống: Bản Đồ Q.
  • Bản đồ Googles: Bản đồ G.
  • Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, Ngô Sĩ Liên: Toàn Thư.
  • Đất Nước Việt Nam Qua Các Đời, Đào Duy Anh: Đất Việt Nam.
  • Đất Trung Quốc Giáp Việt Nam Qua Các Đời, Hồ Bạch Thảo: Đất Trung Quốc.
  • Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục, Quốc sử quán triều Nguyễn: Cương Mục
  • Tục Tư Trị Thông Giám Trường Biên, Lý Đào: Trường Biên.
  • Tư Trị Thông Giám, Tư Mã Quang: Tư Trị. 

1. Các vùng đất bị mất


Căn cứ vào bức thư của Sứ thần Đại Việt Lê Văn Thịnh gửi cho Ty kinh lược Quảng Nam Tây Lộ [Quảng Tây] Hùng Bản vào vào năm Nguyên Phong thứ 7 [1084], cho biết vùng đất bị mất vào nhà Tống gồm 2 phần: Đất bị Trung Quốc chiếm sau cuộc chiến tranh Lý – Tống; và đất do các Tù trưởng tại biên giới nạp cho nhà Tống.


1.1. Đất bị chiếm sau cuộc chiến tranh Lý Tống


Văn bản trong Trường Biên ngày Quí Mão tháng chạp năm Hy Ninh thứ 9 [18/1/1077] cho biết sau cuộc chiến tranh, vua Lý Nhân Tông hứa nạp cho nhà Tống đất 5 châu: Tô, Mậu, Tư Lang, Môn Lạng, Quảng Nguyên.[2]


Tại văn bản ngày Quí Vị tháng 9 năm Nguyên Phong thứ nhất [20/10/1078] xác nhận vua Lý Nhân Tông xin hoàn lại các châu Quảng Nguyên, Tô Mậu, Môn, cùng huyện Cơ Lang.[3]


Cả hai văn bản đều chỉ vùng đất nước Đại Việt bị mất sau cuộc chiến tranh Lý Tống, nhưng xét về phương diện địa lý, văn bản thứ 2 rõ ràng hơn; xin lần lượt phân tích như sau:


– Văn bản 1 ghi tên 2 châu Tô, Mậu, thực ra chỉ có một châu là Tô Mậu; theo Đất Nước Việt Nam [trang 121], vị trí châu này tại huyện Đình Lập tỉnh Hải Ninh. Trong cuộc chiến tranh Lý Tống viên Tri Khâm châu Lưu Sơ chiêu dụ châu Tô Mậu ra hàng nên được vua Tống ban thưởng:


Ngày Tân Mão tháng 4 [6/5/1077], chiếu ban Tri Khâm châu Tả tàng phó sứ Lưu Sơ, Trại chủ Vĩnh Bình [Bằng Tường thị] Ung châu Cung bị khố phó sứ Dương Nguyên Khanh mỗi người được thăng lên  7 tư; thưởng công chiêu dụ các châu Quảng Nguyên, Tô Mậu.[4]


– Văn bản 1 ghi châu Môn Lạng, ứng vào văn bản 2  châu Môn và huyện Cơ Lang [Quang Lang];[5] hai vùng đất này gần nhau, thuộc tỉnh Lạng Sơn ngày nay. Khởi đầu xâm lăng nước ta, Quách Quì mang đại quân từ trại Vĩnh Bình [Bằng Tường thị, Quảng Tây][6] vào nước ta, sau khi vượt ải Quyết Lý bèn đánh lấy huyện Cơ Lang và châu Môn:


Ngày Quí Tỵ [8/1/1077], hôm đó bọn Quách Quì mang quân ra khỏi biên giới, giặc đóng tại ải Quyết Lý, Quì sai Trương Thế Củ đánh, Quì sai bắn bằng nõ mạnh, dùng đao to chém vào mũi voi, voi chạy đạp vào quân địch, đại quân tiến vào, giặc tan bỏ chạy. Quân ta thừa thắng lấy được Cơ Lang; Biệt tướng Khúc Trân lấy được châu Môn; các khe động đều hàng.[7]


– Phần còn lại, trong văn bản 1, ghi 2 châu Tư Lang, Quảng Nguyên; Văn bản 2 chỉ ghi châu Quảng Nguyên mà thôi. Lý do vị trí 2 châu kề cận nhau, sau khi nhà Tống lấy được châu Quảng Nguyên, phát triển thành châu lớn trực thuộc Quảng Nam Tây Lộ, bèn gộp châu Tư Lang vào.


Xét thời xa xưa  vùng đất tại biên giới nước ta và Trung Quốc do Tù trưởng thuộc các họ Hoàng, Vi, Nùng, Lưu, Thân vv… cai quản; triều đình hai nước Tống, Lý cai trị theo lối ky my lỏng lẻo, hàng năm chỉ thu thuế, nạp cống mà thôi. Vì thiếu sự kiểm soát chặt chẽ, nên một số Tù Trưởng có lúc không bằng lòng triều đình nước ta, thì qui phụ Trung Quốc; và ngược lại có khi từ đất Trung Quốc trở về với nước ta.


Đó là trường hợp Nùng Dân Phú, Tù trưởng châu Quảng Nguyên, theo nhà Tống từ năm Thái Bình Hưng Quốc thứ 2 [977]. Dân Phú tuyên bố rằng y muốn đưa cả châu Thất Nguyên qui phụ Trung Quốc từ thời Nam Hán [917-960], nhưng bị châu Tư Lang che ngăn nên chưa thực hiện được; sự việc được ghi nhận qua văn bản sau đây:


Trường Biên, quyển 18. Tống Thái Tông năm Thái Bình Hưng Quốc thứ 2 [977]


Ngày Canh Thìn tháng giêng [9/2/977], châu Ung [Nam Ninh, Quảng Tây] tâu rằng:


“Tù trưởng man châu Quảng Nguyên Thản Xước Nùng Dân Phú cho rằng thời ngụy Hán [Nam Hán] đặt Thủ lãnh 10 châu, có chiếu sắc đưa cho, muốn đưa châu Thất Nguyên  nội phụ để thâu thuế; nhưng man Tư Lang che ngăn, nên không thông. Xin triều đình mang quân tru phạt châu Tư Lang.”


Chiếu ban cho Thản Xước Nùng Dân Phú chức Kiểm hiệu tư không; lệnh Chuyển vận sứ Quảng Châu Từ Đạo gọi đến.”[8]


Văn bản này có thể giúp xác định vị trí các châu: Trước hết là châu Thất Nguyên Cương Mục chú thích: nhà Lý gọi là Thất Nguyên, nhà Lê gọi là Thất Tuyền, nay là huyện Thất Khê [Lạng Sơn]. Phía bắc Thất Khê có huyện Hạ Lang thuộc tỉnh Cao Bằng, Đất Nước Việt Nam[9] xác nhận thời xưa gọi là châu Tư Lang. Châu Tư Lang nằm giữa châu Quảng Nguyên và Thất Tuyền, nên Đất Nước Việt Nam,  tại trang 150, ghi châu Quảng Nguyên thuộc trấn Lạng Sơn thời Trần Hồ; vị trí tại phía bắc tỉnh Cao Bằng ngày nay.


Châu Quảng Nguyên theo Tống không lâu, sau đó trở về với nước Đại Việt. Lịch sử ghi nhận, năm 1075 Lưu Kỷ mang 3.000 quân châu Quảng Nguyên đánh phá Ung Châu [Nam Ninh, Quảng Tây], bị kẻ nội phản theo Tống là Nùng Trí Hội sai con đánh chặn:


Trường Biên, quyển 263. Năm Hy Ninh thứ 8 [1075]


Ngày Ất Vị tháng 4 nhuần [21/5/1075], Tri Quế Châu [Quế Lâm] Lưu Di tâu rằng:  Lưu Kỷ tại châu Quảng Nguyên [bắc Cao Bằng] dùng 3.000 quân xâm lược Ung Châu, Nùng Trí Hội tại  Qui Hóa châu [Tĩnh Tây thị, Quảng Tây],[10] sai người con là Tiến An, đánh chặn lập công. Chiếu thư ban cấp cho Trí Hội bổng và tiền.[11]


Hai năm sau, đại binh Trung Quốc do Quách Quì chỉ huy sang nước ta phục thù chiến dịch phạt Tống của Lý Thường Kiệt. Trước khi thọc sâu vào nội địa, Quì đề phòng bị đánh ngang hông, bèn dừng quân tại Vĩnh Bình [Bằng Tường, Quảng Tây], rồi sai Từ Đạt mang quân đánh Quảng Nguyên. Bấy giờ Lưu Kỷ giữ chức Quan sát sứ châu Quảng Nguyên đánh không nỗi phải xin hàng; do đó đất Quảng Nguyên lại vào tay Trung Quốc. Tư liệu văn bia Quách Quì ghi như sau:


Trường Biên quyển 279. Năm Hy Ninh thứ 9 [1077]


Ngày Bính Tuất tháng chạp [1/1/1077]… Trên mộ bia Quách Quì, Phạm Tổ Vũ[12]  chép: “ Quách Quì đến châu Tư Minh, cho rằng châu Quảng Nguyên là đất yết hầu quan trọng, binh giáp tinh nhuệ, nếu không chiếm trước, sẽ là mối họa trong tim bụng; Quan sát sứ ngụy Lưu Kỷ là mưu chủ của giặc, không bắt Kỷ thì uy danh quân chưa chấn tác.


Bèn sai Yên Đạt đến đánh khắc phục ngay; phá thành, Kỷ ra hàng.[13]


1.2. Đất do các Tù trưởng tại biên giới nước ta giao nạp cho nhà Tống


Lịch sử ghi nhận 2 vùng đất, đều do người họ Nùng [Nồng] giao nạp; Nùng Trí Hội nạp động Vật Ác, được nhà Tống đổi tên là Thuận An châu; Nùng Tông Đán nạp châu Vật Dương, Tống đổi tên là Qui Hóa châu. Theo bản đồ Quảng Nam Tây Lộ [Quảng Tây] thời Bắc Tống; vị trí hai châu Thuận An và Qui Hóa hiện nay đều thuộc Tĩnh Tây,[14] tỉnh Quảng Tây.


Thuận An châu: Nùng Tông Đán lúc bấy giờ là một Tù trưởng ương ngạnh, cậy thế trấn giữ một phương biên thùy, nên không hoàn toàn thần phục triều Lý, lại mấy lần mang quân cướp phá Ung Châu. Viên Tri Quế Châu Tiêu Cố, thấy được nhược điểm của y hai phía đều thụ địch, nên tìm cách dụ dỗ con  là Nùng Nhật Tân, để khuyên cha ra hàng:


Trường Biên quyển 185. Tống Nhân Tông năm Gia Hựu thứ 2 [1057]


Ngày Giáp Tuất tháng 4 [3/6/1057] Nùng Tông Đán thuộc man Hỏa Động, cùng họ với Trí Cao, chiếm cứ chỗ hiểm, tụ tập dân chúng, mấy lần ra cướp phá. Tri Ung Châu Tiêu Chú muốn mang quân binh tại các động đánh phá; Tri Quế Châu Tiêu Cố một mình xin dùng sắc mệnh chiêu hàng. Chuyển vận sứ Vương Hãn cho rằng Tông Đán giữ chốn núi rừng tre trúc, nếu dùng phục binh thì quân ta vị tất có thể thắng, lại gây nên mối hoạn biên giới. Bèn mang binh đến biên giới, cho người chiêu dụ Nhật Tân, con Tông Đán rằng:


“Cha người bên trong thì cừu thù với Giao Chỉ, phía bên ngoài thì làm mồi cho các quan biên giới được thưởng. Hãy về báo cha người, chọn điều lợi mà làm.”


Do đó cha con Tông Đán đều hàng, phương nam bình yên. Ban cho Tông Đán chức Trung vũ tướng quân, Nhật Tân làm Tam ban phụng chức.[15]


Sau khi được ban chức Trung vũ tướng quân, Tông Đán không cho chức này là to; Vua Tống bèn ban chức Đô Giám Quế Châu. Đây chắc chỉ là loại chức hờ để làm vừa lòng y mà thôi; Quế Châu tức Quế Lâm, thủ phủ Quảng Nam Tây Lộ, thường kiêm coi cả lộ này, vị trí bằng tỉnh Quảng Tây và tỉnh Hải Nam hiện nay; xét về sự nghiệp Tông Đán, chỉ là một Tù trưởng một châu nhỏ tại biên giới, thực sự không thể nắm quyền Đô giám Quế Châu. Văn bản liên quan đến việc ban chức cho Tông Đán như sau:


Trường Biên, quyển 244. Năm Hy Ninh thứ 6 [1073]


Ngày Bính Tý tháng 4 [12/5/1073], ty kinh lược Quảng Nam Tây Lộ Câu đường công sự Ôn Cảo tâu:


“Chiếu chỉ bổ Nùng Tông Đán, Nùng Trí Hội làm Tướng quân; vì dân Di không biết chức quan này, muốn xin một chức Cận thượng ban hoặc Phó sứ.”


Chiếu ban cho Tông Đán và Trí Hội đều giữ chức Cung bị khố phó sứ, Tông Đán làm Đô giám Quế Châu, Trí Hội làm Tri Qui Hóa châu.[16]


Qui hóa châu: Ngoài việc đề cập đến Nùng Tông Đán, văn bản nêu trên còn cho biết Nùng Trí Hội được ban chức Tri châu Qui Hóa.  Thêm vào, văn bản đính kèm dưới đây có lời tâu của của ty Kinh lược Quảng Nam Tây Lộ Hùng Bản xác nhận Nùng Trí Hội qui thuận vào thời Tống Anh Tông Trị Bình [1064-1067], và vị trí địa lý của các châu như Qui Hóa  hết sức quan trọng, ngoài việc làm nút chặn nước Đại Việt, còn ngăn sự quấy phá của 9 Đạo Bạch Y thuộc nước Đại Lý [Vân Nam cũ]:


Trường Biên, quyển 349. Năm Nguyên Phong thứ 7 [1084]


….. Ty Kinh Lược Hùng Bản cũng tâu rằng:


“Vào thời Gia Hựu [1056-1059], bọn Nùng Tôn Đán đem động Vật Ác qui phụ, ban tên Thuận An châu; thời Trị Bình [1064-1067] Nùng Trí Hội đem động Vật Dương qui phụ, ban tên là  Qui Hóa châu. Nay họ Nùng lãnh các châu huyện trước kia không thuộc Nam Bình [chỉ An Nam]; các châu như như Qui Hóa địa thế thuộc yết hầu  khống chế vùng Hữu Giang và các man Đại Lý Cửu Đạo Bạch Y. Xin chiếu chỉ cho Giao Chỉ, hỏi lý do xâm phạm Qui Hóa châu, cùng ra lệnh trả hết người bị bắt, dứt tấm lòng ác chưa nhú lên.”[17]


Với số đất bị mất vừa trình bày, tổ tiên ta đã tranh đấu như thế nào để giành lại, cần tìm hiểu một cách  kỹ càng ở các phần tiếp theo, để rút ra được bài học thực tiễn cho hiện tại.


Còn tiếp


—————-


[1] Nguyên văn: 雖此等彈丸之地,尤切痛懷、常不離夢寐者,誠以先祖臣平昔誅擒僭逆,衝艱冒險,畢命之所致也。今末造不能嗣承,豈敢備數於藩垣,偷生於頃刻也. Tục Tư Trị Thông Giám Trường Biên, quyển 380, năm Nguyên Hựu thứ nhất [1086]


[2] 納蘇、茂、思琅、門諒、廣源五州之地 Trường Biên q. 279.


[3] 以廣源、蘇茂門等州,及機榔縣還之 Trường Biên q.292.


[4] Nguyên văn: 詔知欽州、西京左藏庫副使劉初,邕州永平寨主、供備庫副使楊元卿各遷七資。賞招諭廣源、蘇茂州首領功也。Trường Biên, quyển 281. Năm Hy Ninh thứ 10 [1077].


[5] Cơ Lang: Trường Biên chép là Cơ Lang, nhưng Tống Sử, Cương Mục chép là Quang Lang.


[6] Muốn tìm vị trí đất Trung Quốc trên bản đồ Googles, xin dùng âm Pinyin; ví như Bằng Tường, Quảng Tây xin sao chép Pingxiang Quangxi, rồi gõ, sẽ hiện lên vị trí Bằng Tường.


[7] Nguyên văn: 是日,郭逵等舉兵出界,賊屯決里隘,逵遣張世矩攻之。賊以象拒戰,逵使強弩射之,以巨刀斬象鼻,象卻走,自踐其軍,大兵乘之,賊潰去,乘勝拔機榔縣,別將曲珍又攻拔門州,溪峒悉降. Quyển 279. Năm Hy Ninh thứ 9 [1077]


[8] Nguyên văn: 邕州言:「廣源州蠻酋坦綽儂民富(案宋史作坦坦綽農民富。)以偽漢時所置十州首領詔敕來獻,欲比七源州內附輸賦稅,而思琅州蠻蔽塞,使不得通。願朝廷舉兵誅思琅州。」詔授坦綽儂民富檢校司空,(案宋史作檢校司空、御史大夫、上柱國。)令廣州轉運使徐道招來之.


[9] Đất Nước Việt Nam Qua Các Đời, Đào Duy Anh, Huế: NXB Thuận Hóa, 1994.


[10] Để độc giả dễ phân biệt, vùng đất nào thuộc Trung Quốc hiện nay, người viết cố ý dùng chữ theo kiểu Trung Quốc, như Qui Hóa Châu, Thuận An châu, Cống động; vùng đất nào thuộc Việt Nam dùng chữ theo lối Việt Nam như châu Thuận, huyện Quang Lang, châu Quảng Nguyên vv…


[11] Nguyên văn: 知桂州劉彞言,廣源州劉紀帥鄉兵三千侵略邕州,歸化州儂智會率其子進安逆戰有功。詔給智會俸錢


[12] Phạm Tổ Vũ: Sử gia nổi tiếng đời Tống.


[13] Nguyên văn: 範祖禹墓志云:「逵次思明州。逵以謂廣源州咽吭之地,兵甲精銳,不先取之,則有腹背之患。偽觀察使劉紀為賊謀主,不禽紀則軍聲不振,遣燕達往,一戰克之,拔其城,紀出降。


[14] Đất Trung Quốc Giáp Việt Nam Qua Các Đời, Hồ Bạch Thảo, trang 298, Tĩnh Tây thị đời Nguyên gọi là châu Qui Thuận; có lẽ tên này do hai châu Qui Hóa và Thuận An từ đời Tống gộp lại


[15] Nguyên văn: 火峒蠻儂宗旦者,智高之族也。據險聚觽,數出剽略。知邕州蕭注欲大發峒丁擊之,知桂州蕭固獨請以敕招降。轉運使王罕以為宗旦保山溪篁竹間,苟設伏要我,軍未必可勝,徒滋邊患,乃獨領兵次境上,使人召宗旦子日新,謂曰:「汝父內為交趾所仇,外為邊臣希賞之餌。歸報汝父,可擇利而行。」於是宗旦父子皆降,南事遂平。以宗旦為忠武將軍,日新為三班奉職。王罕事,據神宗實錄王罕傳所載。正史則云知桂州蕭固招宗旦內屬,以宗旦為忠武將軍。又補其子知溫悶峒,日新為三班奉職


[16] Nguyên văn: 廣南西路經略司勾當公事溫杲言:「詔補儂宗旦、儂智會等為將軍,以夷人不知此官,欲乞一近上班行或副使。」詔宗旦、智會並為供備庫副使,宗旦桂州都監,智會知歸化州。


[17] Nguyên văn: 經略司熊本亦言:「嘉祐中,儂宗旦以勿惡等峒歸明,賜名順安州。治平中,儂智會以勿陽峒歸明,賜名歸化州。今儂氏所領州峒,初不隸南平,而歸化等州係江右控扼咽喉之地,制御交趾、大理九道白衣諸蠻之要路【九】。乞詔交趾,詰其侵犯歸化州之故,及令盡還略去生口,絕其長惡未萌之心.


Cuộc đấu tranh đòi đất đầu tiên trong bang giao Việt-Trung (P2)


Posted on 19/12/2018 by The Observer


image009


Tác giả: Hồ Bạch Thảo


2. Nhà Tống kinh doanh vùng đất mới chiếm, nhưng bị Đại Việt gây áp lực


Trình Di, tự Chính Thúc [1032-1085], nhà lý học và giáo dục nổi tiếng thời Bắc Tống ảnh hưởng lớn đến hậu thế;  người học chữ Nho thời xưa đều tự nhận là môn đệ, nên thành ngữ có câu “cửa Khổng sân Trình”. Là học giả đối lập với Thừa tướng Vương An Thạch, người chủ trương xâm lăng nước Đại Việt, nên ông theo dõi khá kỹ về cuộc chiến tranh này. Ông quê tại đất Hà Nam, lời của ông được đệ tử Tô Sung ghi lại trong sách Hà Nam Trình Thị Di Thư [河南程氏遺書], sách này có phần đề cập đến cuộc chiến Việt-Trung, tổng kết phía Trung Quốc tổn thất đến 30 vạn người:


Trường Biên quyển 280. Năm Hy Ninh thứ 10 [22/3/1077]


….Sách Hà Nam Trình thị di thư, Tô Sung chép: “Chính Thúc bàn về sự việc tại An Nam như sau ‘Đương sơ lúc biên giới có việc, không dùng các nơi gần tập hợp cứu viện, tuy binh tướng trải qua lam chướng, triều đình bảo lo lắng cho dân chúng, nhưng không cấp tuất. Lúc này không cứu viện, ứng phó, để cho giặc tung hoành, đánh giết đến mấy vạn. Nay bảo rằng đợi thời, nhưng không đợi đến mùa thu mát mẻ, ngay mùa đông đi vào đất giặc. Lương thực tích trử tại phía bắc lãnh, phải chuyển vận đến phía nam lãnh; vào tháng 7 vận chuyển qua lãnh, bị lam chướng, số người chết đến mấy phần, đến lúc qua biên giới, lương không  kế tục mang theo. Vào đến sào huyệt giặc, dùng bè chở 500 quân qua sông, vừa chặt vừa đốt, không phá nổi mấy trại giặc bằng tre. Rồi chèo bè không trở về để mang thêm quân tiếp cứu, thì số quân qua sông bị giặc bắt giết; quân ta không được cứu, hoặc chết hoặc chạy trốn; cuối cùng không thành công, vùng tranh chấp chỉ có 25 dặm. Lại muốn sang tiếp, nhưng không có thuyền, không có lương cho lính, sự tính toán sai lầm từ trước tới nay chưa từng xảy ra! May mà giặc xin cung thuận, mới có lời để ứng phó; nếu như chúng không chịu thuận, thì lấy gì xử trí đây? Phu vận lương 8 vạn người chết, quân lính 11 vạn lam chướng chết; chỉ còn 2 vạn 8 ngàn trở về, trong đó có nhiều người bị bệnh; số người trước đó bị giặc giết, tất cả không dưới 30 vạn người; sự hôn ám vô mưu đến như vậy là cùng!”[1]


Với số tổn thất lớn như vậy, triều Tống chỉ mong khai thác được nhiều vàng tại châu Quảng Nguyên để dân chúng đỡ ca thán. Bèn ra lệnh mở mang châu này, ngoài việc điều động quân lính đến đồn trú, còn đày các tội nhân từ phía nam sông Hoài [Giang Tô] đến lập nghiệp, nhằm tăng dân số để đủ nhân lực khai thác nhiều mỏ vàng, bạc:


Trường Biên, quyển 280. Năm Hy Ninh thứ 10 [1077]


Ngày Kỷ Mão tháng giêng [23/2/1077], ty Tuyên phủ tâu Quảng Nguyên mới đặt thành châu, đưa quân đến phòng giữ; xin theo lệ các châu Hy, Hà, Nguyên, đày các tội nhân làm lao thành. Chiếu ban từ Hoài xuống phương nam, các tội nhân đều đày tại Quảng Nguyên.


Bọn Quách Quì xin sai Quảng Nam Tây Lộ Đề điểm hình ngục đặt mỏ khai thác vàng, bạc tại châu Quảng Nguyên; được chấp thuận.[2]


Về quân lực, tăng cường thêm 17 chỉ huy[3] quân Uy Quả tinh nhuệ từ các châu  phương bắc, như Hồng Châu tại vùng Giang Tây:


Ngày Mậu Ngọ tháng 3 [3/4/1077], mới khắc phục các châu Quảng Nguyên, Tư Lang từ An Nam; xin sai 17 chỉ huy  quân Uy Quả từ các vùng như Hồng Châu [Giang Tây] đến phòng thủ. Thiên tử phê:


“Trước đây đã sai Đô đại đề cử Trương Thành Nhất tuyển Sai sử thần cho dạy tại Mã Quân Giáo Đầu; có thể cải sai Nội thị phó đô tri Vương Trung Chính, vẫn cho Trung Chính giữ chức Nhập nội phó đô tri.”[4]


Nhắm củng cố và mở mang, triều đình bổ hàng loạt quan lại đến châu Quảng Nguyên, lúc tới nơi được đặc cách thăng thưởng:


Ngày Nhâm Dần tháng 2 [18/3/1077], chiếu ban Tri châu Quảng Nguyên, Thông phán, Thiêm sự, Phán quan, Kiềm hạt, Đô giám, Giám áp đều được thăng 1 bậc quan, hết nhiệm kỳ thăng 1 nhiệm. Các quan về tham mưu văn phòng, Lục sự tham quân, Phán, Ty, Bạ, Úy, Tri huyện, đến lúc mãn nhiệm kỳ mỗi người đều được ban ơn. Các quan bổ sung như Hộ tào kiêm Lý pháp, Chính nhiếp văn học, Trưởng sử, được ưu đãi thưởng cấp, ban cho tờ khoán sử dụng phương tiện trạm dịch. Nhân thu phục Quảng Nguyên, Cơ [Quang] Lang; người ta sợ đến chỗ đó, nên có đặc ân như vậy.[5]


Châu Quảng Nguyên được tăng quân, tăng dân, bổ thêm quan, lấy thêm đất nội địa sáp nhập vào rồi đổi tên thành Thuận Châu; trở thành châu lớn ngang hàng với Ung Châu [Nam Ninh]. Thuận Châu không còn phụ thuộc vào Ung Châu như các châu nhỏ khác, cho trực tiếp dưới quyền Quảng Nam Tây Lộ [Quảng Tây]:


Trường Biên, quyển 280. Năm Hy Ninh thứ 10 [1077]


Ngày Bính Ngọ [22/3/1077], đổi châu Quảng Nguyên thành Thuận Châu.[6]


Triều đình nhà Tống lưu ý chọn viên tướng giỏi là Đào Bật, trấn thủ biên thùy, giữ chức Tri Thuận Châu. Trong cuộc chiến tranh Lý- Tống, khi rút quân từ bờ phía bắc sông Cầu trở về nước, tổng chỉ huy Quách Quì chọn Đào Bật cầm quân giữ đoạn hậu, nhờ sự nghiêm cẩn của Bật, nên cuộc rút lui được an toàn. Lúc giữ chức Tri Thuận Châu, thường xuyên bị quân Đại Việt làm áp lực, nhưng Bật đã cố gắng hoàn thành phận sự cho đến chết, công trạng của Bật được chép trong Tống Sử, phần Liệt Truyện, như sau:


Đào Bật, tự Thương Ông, người đất Vĩnh Châu….Lúc Quách Quì nam chinh, thuyên chuyển Bật từ Đoàn luyện sứ Khang châu trở lại giữ chức Tri Ung châu [Nam Ninh]. Bấy giờ dân gặp ly loạn, trốn ẩn trong khe núi, Bật điều hàng trăm kỵ binh đến các động tại Tả Giang, dân biết Bật đã trở lại, mang già dắt trẻ trở về. Quì hành quân đến sông Phú Lương [chỉ sông Cầu], giao cho Bật giữ phía sau. Khi người Giao chịu nạp cống, Quì muốn rút quân, nhưng sợ bị tập kích. Bèn lập kế rút về đêm, quân không chỉnh tề nên bộ binh, kỵ binh dẫm đạp vào nhau, rút lui vô trật tự. Giặc ở bên kia sông trinh sát, nhưng biết Bật giữ phía sau, nên không dám truy kích. Bật đích thân hạ lệnh quân dưới quyền không dao động, đợi đến sáng xếp hàng đội đi từ từ; Quì nhờ đó rút lui được an toàn.


Đất chiếm được, đặt châu Thuận và huyện Quang Lang,[7] thăng Bật chức Tây thượng các môn sứ, Tri châu Thuận. Châu này cách Ung châu 2.000 lý, nhiều cây cỏ độc, chướng vụ, quân lính chết đến bảy tám phần mười; Bật cũng đau nặng, nhưng không tỏ cho quân biết sự mệt nhọc, xem thường gian khổ, ý khí khích ngang; quân sĩ cảm động, ra sức phấn đấu. Người Giao đánh lấy Quang Lang, thanh ngôn sẽ chiếm châu Thuận, nhưng cảm thấy khó vì Bật chỉ huy nơi này. Bật vốn được lòng người, nên hành động giặc đều biết trước. Bắt được gián điệp không giết, thuyết phục điều phải trái rồi thả cho đi, ân uy đều thi hành, nên suốt đời Bật, giặc không dám phạm. Được thăng chức Đông thượng các môn sứ, nhưng chưa nhận chức thì đã mất….[8]


Dưới quyền chỉ huy của Đào Bật, các mỏ vàng, bạc, chu sa được mở mang khai thác, triều đình ra lệnh cho Quảng Nam Tây lộ đặt cơ quan giao dịch mua bán:


Trường Biên, quyển 281. Năm Hy Ninh thứ 10 [1077]         


Ngày Bính Dần tháng 3 [11/4/1077], chiếu ban các mỏ vàng, bạc, chu sa tại châu Quảng Nguyên và Điền Nãi; lệnh ty Kinh lược Quảng Nam Tây Lộ đặt cơ quan trao đổi giao dịch.[9]


Tham vọng khai thác các mỏ vàng, mỏ bạc tại châu Quảng Nguyên chỉ rầm rộ trong vòng nửa năm thì bị khựng lại. Nguyên do sau khi quân Tống rút lui, bị quân  Đại Việt theo bén gót; vào ngày 22 tháng 7 Hy Ninh thứ 10 [13/8/1077] ty Chuyển vận Quảng Tây do thám cho biết quân Đại Việt đang uy hiếp huyện Quang Lang. Vị trí Quang Lang hết sức quan trọng; trong các cuộc xâm lăng nước ta, quân Trung Quốc đều đi qua. Theo Đất Nước Việt Nam [trang 148] chép đời Lý gọi là Quang Lang, đời Trần và thời Minh đô hộ gọi là Khâu Ôn, tương đường với huyện Ôn Châu thời Nguyễn; vị trí dọc theo đường xe lửa từ thị xã Lạng Sơn đến Đồng Mỏ, huyện Chi Lăng. Vừa mới được báo huyện Quang Lang bị uy hiếp, thì vua Tống lại sửng sốt khi được tin Quang Lang thất thủ, bèn đòi hỏi các yếu nhân đảm nhận trọng trách biên giới Việt Hoa như Triệu Tiết, Lý Bỉnh Nhất, Miêu Thời Trung, phải duyệt lại toàn bộ tình hình, nội dung được phản ảnh qua văn bản dưới đây:


Trường Biên, quyển 283. Năm Hy Ninh thứ 10 [1077]


Ngày Canh Ngọ 22 tháng 7 [13/8/1077], ty Chuyển vận Quảng Tây tâu do thám cho biết quân Giao Chỉ hiện ở các nơi ngoài huyện Cơ Lang [Quang Lang]. Chiếu ban:


“Huyện Cơ Lang đã bị giặc Giao Chỉ chiếm cứ, chưa thấy lộ này [lộ Quảng Tây] hợp tác thi thố như thế nảo. Cùng Quyết Lý, châu Thuận xa xôi, có hoặc không thể cố thủ? Làm thế nào để khỏi tổn hại uy tín của nước, cùng binh lực tài phí lâu nay khỏi bị lao tổn. Giao cho Triệu Tiết, Lý Bình Nhất, Miêu Thời Trung cùng thẩm xét chung sự lợi hại, không được suy ủy tránh né, làm lỡ triều đình đại sự một phương. Đợi bàn bạc xong, đích thân viết lời tâu lên.”[10]


Viên Nội điện sùng ban huyện Quang Lang, cùng kẻ dưới quyền bỏ chạy vào nội địa; bị triều đình nhà Tống xử nặng, kẻ thì bị tử hình, kẻ thì bị đày ra ngoài đảo:


Trường Biên, quyển 287. Năm Nguyên Phong thứ nhất [1078]


Ngày Quí Vị [22/2/1078], lệnh chém Nội điện sùng ban huyện Cơ Lang [Quang Lang] Trần Tung phụ trách tuần phòng địa phận, đày Tam ban sai sử Hồ Thanh đến đảo Sa Môn. Bị tội vì tâu sàm rằng giặc đến, vô cớ tự tiện rút chạy bỏ thành trại.[11]


Không riêng gì huyện Quang Lang, ngay tại Thuận châu tức hậu thân của châu Quảng Nguyên; nơi nhà Tống đã lưu ý điều động trọng binh, trong đó có 17 chỉ huy quân tinh nhuệ Uy Quả từ các châu vùng Giang Tây đến đồn trú, cũng bị uy hiếp nặng nề. Vua Tống đành phải điều tiếp quân Đoàn Kết Toàn Tương tại Hồ Nam đến tăng viện:


Quyển 297. Năm Nguyên Phong thứ 2 [1079]                                   


Ngày Kỷ Vị tháng tư [24/5/1079], ty Kinh lược Quảng Nam Tây Lộ tâu rằng man cướp phá châu Thuận, xin thêm quân. Thiên tử phê:


“Có thể điều động quân  Đoàn Kết Toàn Tương tại Đàm Châu [Hồ Nam] tạm thời đóng tại đó; khiến có thể trấn an nhân tâm hai xứ Quảng, không để khiếp sợ. Chờ cho việc biên giới ỗn định thì cho trở về.”[12]


Tình trạng tại châu Thuận trở nên trầm trọng hơn, ngoài việc quân Đại Việt quấy phá từ bên ngoài, lại có nội phản từ bên trong; nên triều đình nhà Tống phải điều binh đến, cùng nhờ các châu, động lân cận cứu viện:


Quyển 298. Năm Nguyên Phong thứ 2 [1079]


Ngày Bính Tý tháng 5 [10/6/1079], ty Kinh lược Quảng Nam Tây Lộ tâu:


“Man Thuận Châu phản, Nội điện sùng ban Tri động Cổ Lộng, Linh Sùng Khái dẹp tan được; lại có Tri châu Qui Hóa, Văn tư phó sứ Nùng Trí Hội, suất đinh tráng hơn 1 ngàn 2 trăm người tiếp viện; xin được tưởng thưởng.”


Chiếu thăng Sùng Khái làm Cung bị khố phó sứ; Trí Hội làm Cung uyển phó sứ.[13]


Xét tình hình chung sau khi được tin huyện Quang Lang thất thủ, trong văn bản ngày 22 tháng 7 năm Hy Ninh  thứ 10 [13/8/1077] vua Tống Thần Tông đã ra lệnh cho Tri Quế Châu  Triệu Tiết, Chuyển vận sứ Quảng Tây Lý Bình Nhất; Kinh lược Quảng Nam Tây Lộ [Quảng Tây, Hải Nam] Miêu Thời Trung  “cùng thẩm xét chung sự lợi hại”  “có hoặc không thể cố thủ” “Đợi bàn bạc xong, đích thân viết lời tâu lên”.


Những lời tâu của 3 viên quan này thuộc loại mật, không thấy ghi lại trong chính sử; tuy nhiên qua sự kiện nêu trong văn bản dưới đây chứng tỏ sau khi tham khảo với các vị quan trực tiếp cai trị Quảng Nam Tây Lộ, Vua Tống đã thay đổi chính sách.Trước đây chủ trương xây dựng châu Thuận mạnh, cho tăng cường nhiều quan, quân; đưa các vùng đất sát biên giới như Cống động, Thuận An châu[14] sáp nhập vào châu này; nay trước áp lực của Đại Việt, triều đình nhà Tống ước tính có thể buộc phải trả đất để hòa giải; bèn đưa các vùng đất trước kia đã cho sáp nhập trả lại cho Ung Châu [Nam Ninh]; để châu Thuận chỉ còn lại đất Quảng Nguyên cũ, trước kia đã lấy từ Đại Việt:


Quyển 297. Năm Nguyên Phong thứ 2 [1079]                                   


Ngày Bính Thìn tháng 4 [21/5/1079], ty Kinh lược Quảng Nam Tây Lộ tâu:


“ Các đất như Thuận An Châu, Cống Động trước lệ Ung Châu, mới đây ty Tuyên phủ nhân thu phục Quảng Nguyên cho lệ vào châu Thuận; xin trở lại lệ thuộc theo cũ.”


Thiên tử chấp nhận.[15]


Ngoài ra nhà cầm quyền Quảng Nam Tây Lộ lại cưỡng ép gần 1 vạn dân từ Thuận châu trở về nội địa với mỹ từ qui minh,[16] tức hồ hởi đi theo con đường sáng; nhưng lại lộ liễu ý đồ bằng cách tuyên bố dùng quan lại địa phương để “giác sát”,[17] tức kềm kẹp quan sát phát giác kẻ địch trà trộn. Sự việc được tâu trình, triều đình nhà Tống khôn ngoan hơn, bắt bỏ 2 chữ “giác sát”:


Quyển 309. Năm Nguyên Phong thứ 3 [1080]


Ngày Canh Thìn tháng 10 [5/12/1080], ty Kinh lược Quảng Nam Tây Lộ tâu:


“ Tri Ung châu An phủ đô giám Lưu Sơ báo về việc dời những người thuộc gia đình qui minh gồm 9.929 người đến các châu động gần, để có thể cưỡng ép. Sai Tả Giang ủy đạo lộ Tuần kiểm Nùng Bảo Phúc, Tri Giang châu Hoàng Thiên Hưng, Hữu Giang ủy Tri Điền châu Hoàng Quang Thiến, Tri Đống châu Hoàng Án Định, lo quản lý giác sát .”


Chấp thuận; lại có chiếu thư bắt bỏ 2 chữ “giác sát”; sợ tổn thương dân qui thuận.[18]                                                                                                                                                                                             ***


Những vùng đất bị mất vào tay nhà Tống Trung Quốc, giống như cây cọc nhọn đâm vào thân thể nước Đại Việt; nhờ sự phấn đấu không ngừng, cây cọc đã có hiện tượng lung lay. Bước kế tiếp với chính sách lúc cương lúc nhu; triều đình nước ta tìm cách nối lại bang giao, cử các phái đoàn sang Trung Quốc đàm phán, để tìm cách nhổ chiếc cọc này.


(Còn tiếp)