Diplomat: Trung Quốc và mưu đồ thâu tóm tài nguyên ở Biển Đông

12 Tháng Năm 201511:45 CH(Xem: 7739)
"BÁO VĂN HÓA - CALIFORNIA" THỨ TƯ 13 MAY 2015

Diplomat: Trung Quốc và mưu đồ thâu tóm tài nguyên ở Biển Đông
11/05/2015

(An Ninh Quốc Phòng) - Trong vấn đề Biển Đông, bên cạnh khía cạnh pháp lý và quân sự, cần phải nhìn nhận vấn đề ở góc độ rộng lớn hơn mà trong đó, Trung Quốc đang đẩy mạnh nhu cầu tiếp cận các nguồn tài nguyên thiên nhiên.

Bài viết của Tiến sĩ Michael Fabinyi – Trường Nghiên cứu Thái Bình Dương và Châu Á, thuộc Đại học Quốc gia Úc (ANU). Hiện tại, ông đang làm công tác nghiên cứu cho Viện Khoa học Xã hội Branco Weiss (Branco Weiss – Society in Science), Trung tâm Nghiên cứu San hô Ngầm, Hội đồng Nghiên cứu Úc, trường Đại học James Cook. Ông đã dành hơn 18 tháng nghiên cứu thực địa về dân tộc học tại các làng đánh cá ở Philippines. Từ năm 2012, ông sống tại Bắc Kinh và tiến hành nghiên cứu thị trường thủy sản và các nhà hàng Trung Quốc.

Còn nhiều điều về tranh chấp biển trong khu vực, bên cạnh khía cạnh pháp lý và quân sự.

Rất nhiều bài bình luận chính trị gần đây tập trung vào tranh chấp giữa Trung Quốc và Philippines tại Biển Đông. Dư luận chung cho rằng cạnh tranh về tài nguyên thiên nhiên trong khu vực này là động lực chính thúc đẩy tranh chấp. Điều này đã khiến cho rất nhiều nhà bình luận có tiếng như Robert Kaplan phải cảnh báo về khả năng “Phần Lan hóa (Finlandization)” vấn đề này.

Thế nhưng, bất chấp những tranh luận về pháp lý vẫn đang diễn ra, Trung Quốc hiện giờ đã tiếp cận được với những nguồn tài nguyên thiên nhiên quan trọng của Philippines. Trong khi các chủ thể quốc tế tranh cãi về tư cách pháp lý của những yêu sách chủ quyền của Philippines và Trung Quốc, Trung Quốc vẫn tiếp tục “thay đổi nguyên trạng trên thực địa” về cách tiếp cận các nguồn tài nguyên.

Trung Quốc thực hiện điều này thông qua gây áp lực tranh cãi thông thường và sử dụng các phương tiện quân sự tại Biển Đông, cũng như bằng các phương thức tiếp cận tài nguyên khác, bao gồm các thỏa thuận thương mại có lợi cho mình và hình thức đánh bắt trộm.

Trong khi các diễn biến về pháp lý và các áp lực quân sự thông thường tại Biển Đông rõ ràng cần được chú ý thì những nhà hoạch định chính sách cũng cần tập trung xem xét những cuộc tranh giành tài nguyên thiên nhiên đang diễn biến thế nào trong những bối cảnh khác.
blank
 Trung Quốc và mưu đồ thâu tóm tài nguyên ở Biển Đông

Sự tập trung vào khái niệm “tiếp cận”, hoàn toàn khác với cách nhìn nhận hẹp hơn vào “quyền sở hữu”, là điều quan trọng để hiểu được những cuộc tranh giành tài nguyên thiên nhiên này. Trong một bài viết chuyên đề về vấn đề tiếp cận, Jesse C. Ribot và Nancy Lee Peluso đã biện luận cho một cách hiểu rộng hơn về cách người ta có thể thu lợi từ các nguồn tài nguyên. Trong khi quyền sở hữu chính thức và chính đáng là một phương thức tiếp cận, tiếp cận trên thực tế có thể bao gồm một loạt các phương thức đa dạng hơn thế. Những phương thức này không nhất thiết phải được coi là chính đáng và có thể bao gồm những tiến trình mang tính xã hội, ví dụ như quan hệ thương mại, quan hệ xã hội và quyền lực.

Dầu và khí là những tài nguyên thiên nhiên quý giá nhất tại Biển Đông và do đó, là nguồn tài nguyên được đánh giá cao. Tuy nhiên, các nguồn lợi thủy sản lại là yếu tố kinh tế chưa được công nhận đầy đủ và chỉ mang tính biểu trưng trong tranh chấp giữa Trung Quốc và Philippines. Nguồn thủy hải sản trong khu vực không chỉ thể hiện giá trị kinh tế hiện thời mà còn khiến cho các ngư dân trở thành “phòng tuyến sống” trong tranh chấp giữa hai nước này.

Những ngư dân được chính phủ của mình sử dụng như những con tốt thí mạng để hợp pháp hóa yêu sách của mình: trước tòa án công luận quốc tế, bào chữa cho các ngư dân sẽ dễ hơn các tàu hải quân. Chính lực lượng này đã tạo nên một phần cơ bản trong cái mà Robert Haddick miêu tả một cách đầy hình tượng là “chiến lược cắt lát salami (salami-slicing)” của Trung Quốc, bao gồm “sự tích tụ dần dần các động thái nhỏ mà không động thái nào là hành động gây hấn (casus belli) nhưng dần theo thời gian sẽ tích tụ lại thành một thay đổi chiến lược lớn.”

Tranh chấp giữa Trung Quốc và Philippines đã âm ỉ trong nhiều năm nay nhưng trở nên đặc biệt căng thẳng kể từ tháng 7/2012, khi một tàu khu trục của hải quân Trung Quốc bị mắc cạn tại Bãi Trăng Khuyết (Half-Moon Shoal). Bãi cạn này nằm cách bờ biển của tỉnh Palawan, tỉnh cực Tây giáp với Biển Đông của Philippines, 60 hải lý.

Vào tháng 5/2014, 11 ngư dân Trung Quốc đã bị bắt tại Bãi Trăng Khuyết, 9 người trong số đó cuối cùng đã bị kết án phạt 102.000 USD vào tháng 11. Trong năm 2013, Philippines cũng đã đệ đơn kiện lên Tòa án Luật biển Quốc tế (ITLOS). Thông qua động thái này, Philippines đã sử dụng chiến lược kêu gọi các chủ thể và thiết chế bên ngoài (ví dụ như Mỹ và luật pháp quốc tế) nhằm cố giành được tính chính đáng cho yêu sách về quyền sở hữu của mình.

Đáp lại, Trung Quốc lại tỏ ra khá “cùn” và đe dọa. Thay vì tham gia tranh luận về tính chính đáng của các yêu sách chủ sở hữu, Trung Quốc đã tiếp cận các nguồn thủy sản của Philippines trên thực tế (de facto). Trung Quốc sử dụng 3 phương thức quan trọng sau để đạt được sự tiếp cận này: khẳng định chủ quyền theo cách thông thường, được hỗ trợ bởi răn đe quân sự tại Biển Đông; thương mại và đánh bắt trộm.

Chủ quyền và vũ lực

Trong các cuộc tranh cãi gần đây với Philippines. Trung Quốc đều từ chối thảo luận về tính chính đáng khả dĩ của các yêu sách. Thay vào đó, nước này lại dựa vào những khẳng định chủ quyền được lặp đi lặp lại trong phạm vi đường lưỡi bò. Trung Quốc đã coi việc bắt giữ ngư dân nước mình tại Bãi Trăng khuyết là hành động mang tính “khiêu khích” và “được mưu tính trước”, “xâm phạm nghiêm trọng chủ quyền và quyền trên biển của Trung Quốc”.

Trung Quốc đã từ chối tham gia vào quá trình phân xử do Philippines nêu ra, quả quyết trong tài liệu khẳng định lập trường của mình tháng 12 năm 2014 rằng mục đích của quá trình này chỉ đơn giản là để gây áp lực chính trị với Trung Quốc.

Trung Quốc đã tăng cường xây dựng năng lực quân sự của mình trong khu vực thông qua một chương trình cải tạo đất đai trên một vài bãi đá ngầm. Nhà phân tích Janes đã gọi đây là “thay đổi đáng kể nhất đối với tranh chấp Biển Đông kể từ trận hải chiến tại Đá Gạc Ma (Johnson South Reef) vào năm 1988.”

Theo như hình ảnh từ vệ tinh, Trung Quốc đã tiến hành cải tạo đất tại Đá Chữ Thập (Fiery Cross Reef) từ tháng 8/2014, biến đá này thành khu vực đủ rộng để xây một đường băng dài 3.000 mét. Bãi đá này trước đây nằm ở dưới mực nước biển và công trình duy nhất có thể trụ tại đây là một nền đất do Quân đội Giải phóng Nhân dân (PLA) Trung Quốc xây dựng.

Theo hãng phân tích tình báo Janes, “cơ sở này dường như được xây dựng một cách có chủ đích để ép buộc các bên tranh chấp khác từ bỏ yêu sách và sở hữu của mình hoặc ít nhất là để đem lại cho Trung Quốc một vị thế lớn hơn trong đàm phán nếu như đàm phán có thể được tiến hành.” Trung Quốc đã đáp lại luận điểm này bằng lời khẳng định rằng việc xây dựng này chỉ để nhằm mục đích “tìm kiếm và cứu nạn” cũng như “thu thập tin tình báo.”

Hai vụ việc gần đây tại Bãi Trăng Khuyết và cuộc tranh luận về những chi tiết pháp lý liên quan đến tranh chấp đã kéo sự chú ý khỏi bức tranh lớn hơn: Trung Quốc đã nắm được trong tay quyền tiếp cận đối với rất nhiều nguồn tài nguyên ở Biển Đông và Philippines. Buôn bán các nguồn thủy hải sản giá trị cao đặc biệt thịnh hành tại đây.

Buôn bán thủy sản giá trị cao

Cơ cấu mậu dịch là một minh chứng quan trọng về cách mà Trung Quốc giành được quyền tiếp cận đối với nguồn thủy hải sản của Philippines. Tuy nhiên, điều này được tiến hành theo cách không bền vững, không được kiểm soát và đem lại ít lợi về kinh tế cho Philippines.
blank
Xuất khẩu các mặt hàng thủy sản của Philippines sang Trung Quốc và Đặc khu Hành chính Hồng Kông trong 5 năm qua tăng trưởng nhanh chóng, từ 49 triệu USD năm 2009 lên gần 129 triệu USD năm 2013 – mức tăng trưởng trung bình hàng năm là 33%.

Tuy nhiên, vào năm 2013, Philippines chỉ nhập khẩu khoảng 60 triệu USD các mặt hàng thủy sản từ Trung Quốc. Do vậy, Philippines đã xuất khẩu sang Trung Quốc hơn gấp đôi nhập khẩu từ Trung Quốc, xét về mặt giá trị. Chỉ riêng Đặc khu Hồng Kông đã chiếm khoảng 16% giá trị của tổng lượng cá xuất khẩu từ Philippines trong năm 2011 (rất nhiều đồ hải sản chất lượng cao nhập khẩu vào Trung Quốc lục địa được trung chuyển bằng tàu biển qua Hồng Kông).

Trong khi số lượng cá tính theo trọng lượng nhập vào Philippines từ Trung Quốc là đáng kể, Philippines xuất khẩu nhiều cá giá trị cao hơn rất nhiều. Trên thực tế, trong số tất cả các quốc gia thuộc khu vực Tam giác San hô, Philippines là quốc gia có sự khác biệt giữa xuất khẩu và nhập khẩu lớn nhất nếu tính theo giá trị: giá trị xuất khẩu trung bình là 3.000 USD/tấn trong khi giá trị nhập khẩu trung bình là dưới 1.000 USD/tấn.

Cơ cấu buôn bán thủy sản này được minh chứng bởi việc xuất khẩu cá sống từ các rạn san hô nhiệt đới sang Trung Quốc. Hoạt động buôn bán cá sống này đóng vai trò quan trọng đối với ngành ngư nghiệp khu vực, trị giá xấp xỉ 1-2 tỉ USD. Tuy nhiên, thương vụ này lại gặp nhiều tai tiếng vì những ảnh hưởng về môi trường và xã hội nó đem lại. Các loài cá được đem ra trao đổi là những loài sinh sống lâu năm, phát triển chậm, đứng đầu chuỗi thức ăn vốn dễ bị tổn thương trước nguy cơ đánh bắt quá mức.

Một số loài hiện đang bị liệt vào danh sách bị đe dọa hay quý hiếm vì hậu quả trực tiếp của buôn bán. Chất xy-a-nua (cyanide: một loại a-xít với độc tố cực mạnh – ND) được sử dụng phổ biến để bắt cá. Chất này không chỉ có hại cho cá mà còn hủy hoại các rạn san hô. Vì vậy, trao đổi buôn bán có liên quan mật thiết với tình trạng đánh bắt quá mức cá san hô nhiệt đới cũng như sự xuống cấp của các rạn san hô tại Philippines.

Xuất khẩu thủy hải sản sang Trung Quốc là một hoạt động kinh tế quan trọng đối với Philippines. Tuy vậy, cơ cấu của việc buôn bán này lại có lợi cho thương nhân Trung Quốc hơn là cho ngư dân Philippines. Buôn bán cá rạn san hô nhiệt đới chủ yếu do những thương nhân tại Hồng Kông hoặc Trung Quốc đầu tư tài chính, những người cung cấp vốn suốt từ đầu đến cuối chuỗi hàng hóa cho những ngư dân tại các đảo xa xôi.

Một phân tích về chuỗi giá trị gần đây về cá mú đỏ san hô từ tỉnh Palawan của Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB) đã cho thấy rằng, chính vì những mô thức đầu tư từ những thương nhân trú tại Hồng Kông mà ngư dân nói riêng cũng như quốc gia Philippines nói chung chỉ thu được 20% tổng giá trị của cả chuỗi và giá cả cũng chủ yếu do Hồng Kông và Trung Quốc ấn định. Trong khi cơ cấu thu mua cá giá trị cao đồng nghĩa với việc người ngư dân chỉ thu được phần lợi nhỏ nhất, chính họ lại là những người hứng chịu phần lớn hơn những phí tổn lâu dài của thương vụ này do đánh bắt quá mức cũng như suy thoái môi trường.

Đánh bắt trộm

Tình trạng quản lý tài nguyên thủy hải sản tại Philippines còn non yếu, được thể hiện qua năng lực thấp và nạn tham nhũng nặng nề. Điều này cho phép Trung Quốc (cũng như các chủ thể khác) tận dụng một phương thức tiếp cận nguồn tài nguyên còn trực tiếp hơn, đó là đánh bắt trộm.

Việc các tàu đánh cá Trung Quốc đánh bắt trộm trong vùng biển của Philippines xảy ra khá phổ biến. Trong khoảng thời gian từ tháng 3/1995 tới tháng 5/2014, chỉ riêng tại tỉnh Palawan, 95 tàu thuyền đã bị bắt giữ, 42 trong số đó là tàu Trung Quốc. 1.164 người bị giam giữ, trong đó có 640 người Trung Quốc. Mặc dù nạn đánh bắt trộm có thể được coi là nhỏ nhặt nếu xét về quy mô nhưng thực tiễn này đã cho thấy rõ ràng Trung Quốc có thể tiếp cận được các loài thủy hải sản đặc biệt quý hiếm và có giá trị cao.

Một ví dụ là vụ việc đình đám liên quan tới tàu Hoi Wan của Trung Quốc vào cuối năm 2006 và hơn 300 con cá mó Napoleon sống (loại cá được bán với giá hơn 600 USD/kg tại các nhà hàng ở Bắc Kinh). Loại cá này hiện có nguy cơ tuyệt chủng và số lượng của chúng đang tụt dốc nhanh chóng ở bất kì nơi đánh bắt nào. Một số sản phẩm phổ biến khác thường bị đánh bắt trộm khác bao gồm rùa, san hô và vây cá mập.

Việc buôn bán tất cả những loại thủy hải sản này đều bị cấm tại Philippines. Những vùng hay xảy ra nạn đánh bắt trộm bao gồm cả những khu vực sinh sản quan trọng của rùa cũng như một số các rạn san hô trù phú nhất trên thế giới. Trên thực tế, các vụ đánh bắt trộm phần lớn đều xảy ra tại những vùng nước không thuộc phạm vi tranh chấp tại Biển Đông mà nằm sâu trong vùng biển của Philippines, điển hình là điểm lặn nổi tiếng thế giới – Công viên Biển Quốc gia Rạn Tubbataha.

Hệ thống tư pháp yếu kém tại Philippines và áp lực về chính trị từ phía Trung Quốc thường cản trở việc truy tố sát sao những người đánh bắt trộm. Mặc dù một vài vụ truy tố những giới chức cấp cao gần đây đã đạt được kết quả, các nhóm hoạt động về môi trường từ lâu nay vẫn đứng ra phản đối, chống lại áp lực từ phía các nhà chức trách Trung Quốc trong những sự việc như thế này. Quả thực, một số lượng lớn các vụ đánh bắt trộm tại vùng biển xung quanh đảo Palawan và Philippines thường không đạt tới giai đoạn truy tố tận cùng như vậy và thường không được lưu trữ tài liệu chính thức.

Những yếu kém trong quản lý tại Philippines tạo điều kiện thuận lợi cho cái mà nhà kinh tế học Mancur Olson mô tả là “nạn cướp bóc lưu động” nở rộ. Nhà khoa học biển Fikret Berkes, cũng như nhiều nhà khoa học khác, đã đưa ra giả thuyết có sức ảnh hưởng lớn rằng, nhu cầu gia tăng đối với nguồn lợi thủy sản đã dấn đến những mô hình khai thác tài nguyên vượt quá năng lực ứng phó của các thiết chế địa phương. Mô hình thương mại và nạn đánh bắt trộm thủy sản từ phía Trung Quốc là minh chứng cho quá trình này.

Xu thế

Tài nguyên thiên nhiên là một động lực lớn thôi thúc tranh chấp giữa Trung Quốc và Philippines tại Biển Đông. Hải sản là một nguồn tài nguyên đặc biệt quan trọng vì giá trị kinh tế lẫn giá trị tượng trưng của chúng.

Các nhà bình luận quốc tế đã đúng khi dành nhiều quan tâm tới các yếu tố quân sự và pháp lý của tranh chấp Biển Đông. Tuy nhiên, không may mắn thay, sự tập trung này đồng nghĩa với việc có rất ít quan tâm được dành cho toàn bộ các cơ chế mà Trung Quốc dùng để tiếp cận các nguồn tài nguyên thiên nhiên. Trung Quốc đang tăng cường tiếp cận các nguồn tài nguyên không chỉ thông qua các công cụ khẳng định chủ quyền mang tính truyền thống hơn mà còn thông qua mô hình thương mại không bình đẳng và đánh bắt trộm.

Mô thức tiếp cận với nguồn lợi thủy sản của Philippines mà Trung Quốc đang sử dụng là không được kiểm soát và không bền vững. Trong khi những đối đầu trên mặt trận pháp lý và quân sự có thể tràn ngập trên các mặt báo, bối cảnh rộng hơn về một cuộc tranh chấp tài nguyên lại có tính cơ bản hơn. Tập trung vào khái niệm tiếp cận, thay vì khái niệm sở hữu, có thể giúp chúng ta hiểu được những xu thế này.

Khi tranh luận để hướng sự chú ý vào việc Trung Quốc tiếp cận các nguồn tài nguyên thiên nhiên tại Philippines, điều quan trọng là không được khái quát hóa. Quan hệ giữa Trung Quốc và Philippines xấu hơn nhiều so với quan hệ giữa Trung Quốc với nhiều nước buôn bán tài nguyên thiên nhiên khác với nước này. Một báo cáo gần đây của Viện Nghiên cứu Lowy cũng nêu rõ việc khái quát hóa một chiến lược chung của Trung Quốc tại Biển Đông là phức tạp bởi sự đa dạng của các chủ thể Trung Quốc hoạt động tại đây.

Tuy nhiên, cũng có những dấu hiệu quan trọng cho thấy xu hướng tiếp cận tài nguyên đã đề cập trên sẽ được tăng cường trong những năm tới. Đầu tiên, sự cởi mở ngày càng tăng của nền kinh tế Philippines để giao thương với Trung Quốc – được hỗ trợ bởi Hiệp định Thương mại Tự do Trung Quốc – ASEAN, có hiệu lực từ năm 2010 – cho thấy các hiệp định thương mại bất bình đẳng sẽ tiếp tục và mở rộng sang cả các lĩnh vực khác. Quản lý tại Philippines hiện vẫn còn yếu kém và không có khả năng đối phó với tình trạng “cướp bóc lưu động.”

Thứ hai, trong khi bài viết này mới chỉ tập trung vào việc Trung Quốc nhắm tới nguồn tài nguyên thủy sản như thế nào thì dầu và khí đốt là những nguồn tài nguyên khác có thể thâu tóm được và, xét về mặt kinh tế thuần túy, còn quý giá hơn nhiều.

Cuối cùng và cũng có lẽ là quan trọng nhất, như Elizabeth Economy nhận định trong bài viết trên trang Foreign Affairs gần đây của mình, Chủ tịch nước Trung Quốc Tập Cận Bình đã dấy lên chủ nghĩa dân tộc tại Trung Quốc. Vì mối quan hệ chặt chẽ giữa Philippines và Mỹ, chủ nghĩa dân tộc chống lại đất nước Philippines và người dân nước này là hết sức mạnh mẽ. Khi nền kinh tế Trung Quốc phát triển chậm lại trong những năm tiếp theo, chủ nghĩa dân tộc có lẽ sẽ dâng cao khi chính quyền nước này tìm cách chuyển hướng sự bất mãn của người dân trong nước ra bên ngoài.

Tất cả những yếu tố trên cho thấy nhu cầu cần phải hướng sự quan tâm chú ý không chỉ tới khía cạnh quân sự và pháp lý của tranh chấp Biển Đông mà còn tới cả một bối cảnh rộng lớn hơn mà trong đó, Trung Quốc thực sự tiếp cận các nguồn tài nguyên thiên nhiên./
(Theo Nghiên cứu Biển Đông)
12 Tháng Mười Hai 2017(Xem: 5419)