Singapore: ASEAN lần thứ 51 / Hà Nội: Hội nghị Ngoại giao lần thứ 30

14 Tháng Tám 20187:27 CH(Xem: 5580)

VĂN HÓA ONLINE - TÀI LIỆU  - THỨ THỨ TƯ 15 AUG 2018


Singapore: ASEAN lần thứ 51 / Hà Nội: Hội nghị Ngoại giao lần thứ 30


Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN lần thứ 51


02/08/2018


TPO - Ngày 2/8, Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN lần thứ 51 (AMM-51) đã chính thức khai mạc, tại Trung tâm Hội nghị EXPO, Singapore, với sự tham dự của Thủ tướng Singapore, Chủ tịch ASEAN 2018, Lý Hiển Long. Bộ trưởng Ngoại giao 10 nước ASEAN và các nước khách mời (Argentina, Iran, Na Uy, Papua New Guinea, Thụy Sỹ, Timo Leste và Thổ Nhĩ Kỳ) cùng Tổng Thư ký ASEAN. Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh dẫn đầu đoàn Việt Nam tham dự.

image034

Ảnh: Thủ tướng Singapore Lý Hiển Long (giữa) chụp ảnh chung với các Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN tại phiên khai mạc.


Thủ tướng Singapore Lý Hiển Long có bài phát biểu quan trọng khai mạc Hội nghị, điểm lại chặng đường phát triển của ASEAN từ năm 1967 với mục tiêu ban đầu thúc đẩy hòa bình, ổn định và hợp tác trong bối cảnh khu vực đang ở vào giai đoạn khó khăn bởi xung đột và đối đầu.


Từng bước, với việc mở rộng thành viên, đẩy mạnh hợp tác, nhất là về kinh tế, thúc đẩy quan hệ với các đối tác và hình thành các diễn đàn đối thoại đa dạng ở khu vực như ARF, ASEAN+3, EAS…, ASEAN đã đóng góp tích cực cho việc hình thành một cấu trúc khu vực rộng mở, thu nạp và dựa trên luật lệ, đóng góp quan trọng cho hòa bình, an ninh và ổn định chung.


Thúc đẩy liên kết khu vực


Trước các thách thức mới từ những biến chuyển nhanh chóng, khó lường của tình hình khu vực và quốc tế, Thủ tướng Lý Hiển Long nhấn mạnh hai trọng tâm mà ASEAN cần tập trung thúc đẩy trong thời gian tới là liên kết kinh tế khu vực và tận dụng công nghệ mới cho phát triển.


Thủ tướng Singapore cho rằng ASEAN cần tiếp tục ủng hộ mạnh mẽ hệ thống thương mại đa phương dựa trên luật lệ, phối hợp chặt chẽ với các nước đối tác phấn đấu hoàn tất Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP) vào cuối năm 2018.


Trước xu thế phát triển mạnh mẽ của công nghệ từ cuộc cách mạng 4.0, Thủ tướng Lý Hiển Long cho rằng ASEAN cần đẩy mạnh nỗ lực ứng dụng công nghệ mới, thúc đẩy kết nối số và phát triển dựa vào sáng tạo.


Thủ tướng Singapore cũng khẳng định tiếp tục ủng hộ mạnh các sáng kiến thúc đẩy liên kết khu vực của ASEAN, trong đó có cam kết nâng cấp các Trung tâm hợp tác Singapore tại 3 nước Việt Nam, Căm-pu-chia, Lào trong khuôn khổ Sáng kiến Hội nhập ASEAN (IAI). L.A


Mục tiêu tiến tới COC giữa Trung cộng và Asean?


- Bắc Kinh sẽ làm chủ toàn bộ Đông Hải.


- Loại trừ UNCLOS 1982 và sẽ là bộ Luật đặc biệt riêng cho Đông Hải?


Đừng biến COC thành bác sỹ phẫu thuật có khả năng ghép nối lưỡi bò


Tiến sỹ Trần Công Trục


08/08/18


 (GDVN) - Các nhà đàm phán có lương tâm và trách nhiệm sẽ không chấp nhận nhóm ý kiến thứ nhất, muốn phạm vi áp dụng COC là toàn bộ Biển Đông.


Ngày 3/8/2018, tại Singapore, Ngoại trưởng của 10 quốc gia thành viên ASEAN cùng người đồng cấp Trung Quốc đã thống nhất về một “Văn bản Đàm phán Dự thảo duy nhất Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông”.


Sự kiện này lập tức nhận được sự quan tâm của hầu hết các phương tiện truyền thông khu vực và quốc tế.


Đã có nhiều bài phân tích bình luận liên quan đến nội dung của Văn bản đàm phán về Dự thảo duy nhất Bộ Quy tắc ứng xử duy nhất ở Biển Đông.


Trong số đó, chúng tôi đánh giá cao tính khách quan, xây dựng của một chuyên gia người Úc, Giáo sư Carl Thayer, trong một bài viết đăng trên The Diplomat, ngày 04/8/2018, dưới tiêu đề: “Một cái nhìn kỹ hơn Dự thảo duy nhất Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông của ASEAN-Trung Quốc”.


Bài báo cho biết: “Văn bản này dài 19 trang khổ A4. Nó được cấu trúc gồm 3 phần chính theo Thỏa thuận khung Bộ Quy tắc ứng xử đã được thông qua trước đây: những điều khoản mở đầu, những điều khoản chung và những điều khoản cuối cùng.


image035

Các Bộ trưởng Bộ Ngoại giao  ASEAN và Trung Quốc tại Singapore. Ảnh: VCG.


Để góp phần thông tin và làm rõ thêm những nội dung chủ yếu, cũng như những đề xuất của các bên trực tiếp thông qua văn bản này, chúng tôi xin được đề cập đến một số nội dung có thể là chủ đề thảo luận căng thẳng trong các cuộc thương lượng về COC sắp tới:


1. Về phạm vi điều chỉnh của COC


Có thể nói đây là nội dung cốt lõi của COC. Nếu không xác định phạm vi điều chỉnh thì COC sẽ không bao giờ được thông qua, hoặc nếu vì một lý do nào đó, COC vẫn được thông qua mà không có nội dung này thì nó chẳng có ý nghĩa và giá trị pháp lý gì, thậm chí càng làm cho tình trạng tranh chấp trên Biển Đông phức tạp thêm.


Thiết nghĩ, trong trường hợp như vậy, thì COC chỉ là công cụ để phía Trung Quốc lợi dụng nhằm thực hiện chiến lược độc chiếm Biển Đông, và trước mắt là để ứng phó trong cuộc cạnh tranh địa - chính trị đang diễn ra hết sức khốc liệt ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương.


Tuy vậy, nội dung xác định phạm vi địa lý trong Biển Đông, một nội dung không thể thiếu được đối với một văn bản quy phạm pháp luật, thường được gọi là “phạm vi áp dụng”, lại không được nêu trong văn bản này. Vì vậy, các bên tham gia đã phải bổ sung ý kiến của mình, chẳng hạn:


- Việt Nam đề xuất rằng, “Bộ quy tắc ứng xử hiện tại sẽ áp dụng cho tất cả các thực thể đang trong tranh chấp và những vùng biển chồng lấn do những yêu sách theo UNCLOS 1982 ở Biển Đông”.


- Indonesia thì thêm vào: “Các bên cam kết tôn trọng vùng Đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của các quốc gia ven biển theo quy định trong UNCLOS 1982”.


- Malaysia đề xuất: “Tùy thuộc vào các yếu tố/nội dung của COC, phạm vi địa lý/phạm vi áp dụng có thể cần phải được xác định”.


- Trong khi Singapore thì bình luận: “Các bên có thể sẽ muốn cân nhắc về sự tiện ích của việc thêm một phần về định nghĩa các thuật ngữ sẽ được sử dụng trong đó”…


Qua nghiên cứu, chúng tôi có thể phân chia quan điểm về việc xác định “Phạm vi áp dụng” của COC thành 3 nhóm:


Thứ nhất: Tránh không đề cập đến hoặc đề cập một cách chung chung theo cách mà văn bản này đã thể hiện và đã được Malaysia, Singapore… nêu ý kiến bổ sung như đã trình bày ở trên.


Thứ 2: Yêu cầu xác định phạm vi này nằm ngoài ranh giới vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của quốc gia ven biển theo quy định của UNCLOS 1982.


Thứ 3: Phạm vi điều chỉnh của COC phải được xác định cụ thể bao gồm các thực thể địa lý có tranh chấp và vùng chồng lấn được hình thành bởi yêu sách theo đúng quy định của UNCLOS 1982.


Về nhóm ý kiến thứ nhất: Chúng tôi cho rằng, nếu theo loại ý kiến này, người ta có thể cho rằng phải chăng phạm vi áp dụng của COC là toàn bộ Biển Đông?


Nếu như vậy, thì có thể được hiểu rằng yêu sách ranh giới biển trong Biển Đông của Trung Quốc theo đường “lưỡi bò” sẽ được COC mặc nhiên thừa nhận.


Và trong trường hợp này, phải chăng COC sẽ trở thành “bác sỹ phẫu thuật” xuất sắc có khả năng “ghép nối” cái “lưỡi bò” đã bị cắt bỏ bởi Phán quyết Tòa Trọng tài 12/7/2016?


Về loại ý kiến thứ 2: chúng tôi thấy đây là ý kiến khá cụ thể, nhưng chưa đủ.


Bởi vì, như chúng tôi đã từng phân tích, trong Biển Đông không chỉ có vấn đề xác định ranh giới các vùng biển và thềm lục địa ven bờ của các quốc gia ven biển và của các quốc gia quần đảo, mà còn có vấn đề tranh chấp chủ quyền lãnh thổ đối với các thực thể thuộc các quần đảo nằm giữa Biển Đông và hiệu lực trong việc xác định các vùng biển và thềm lục địa của các thực thể này.


Hơn nữa, vấn đề tranh chấp chủ quyền đối với các thực thể địa lý trong Biển Đông là loại quan hệ không thuộc phạm vi và đối tượng điều chỉnh của UNCLOS 1982.


Về loại ý kiến thứ 3: về nguyên tắc, đây là ý kiến đề xuất khá cụ thể và đầy đủ. Bởi vì, đề xuất này đã bao quát toàn bộ các loại tranh chấp cần được tính đến để có được những chế định phù hợp cho một văn bản pháp luật với đúng nghĩa của nó.


Tuy nhiên, việc thống nhất được nội dung này nhằm đưa vào trong một bộ quy tắc ứng xử (COC) trong bối cảnh hiện tại có lẽ sẽ gặp nhiều trở ngại, cả về mặt nguyên tắc, lẫn quan điểm pháp lý, trong lập trường của các bên tranh chấp đã tồn tại từ lâu trong lịch sử.


Từ những nhận định nói trên, chúng tôi tin rằng các nhà đàm phán có lương tâm và trách nhiệm sẽ không chấp nhận nhóm ý kiến thứ nhất.


Vì vậy, họ sẽ kiên trì đàm phán để bổ sung thêm nội dung cho nhóm ý kiến thứ 2 và sẽ trên cơ sở ý kiến thuộc nhóm thứ 3, họ sẽ đưa ra được các phương án có ý nghĩa thực tế nhất, nhằm khai thông được những bế tắc có thể xảy ra trong đàm phán.


Để làm được điều này, thiết nghĩ cần phải tập trung phân tích, nghiên cứu thật thấu đáo tất cả những khả năng có thể diễn ra để có những giải pháp mà các bên liên quan có thể chấp nhận được, theo phương châm không gây tổn hại đến các quyền và lợi ích hợp pháp của các bên liên quan trong phạm vi các vùng biển và thềm lục địa được xác định theo đúng các quy định của UNCLOS 1982.


Chưa đụng chạm đến quan điểm pháp lý về quyền thụ đắc lãnh thổ đối với các thực thể địa lý tồn tại trong Biển Đông do các bên tranh chấp đã công khai.


Tạm thời chấp nhận nguyên tắc giữ nguyên hiện trạng đối với các thực thể địa lý có tranh chấp và phạm vi biển xung quanh các thực thể này được xác định theo đúng các tiêu chuẩn do UNCLOS 1982 quy định…


2. Về cơ chế giải quyết tranh chấp


Đây cũng là một nội dung thể hiện trong văn bản còn tồn tại nhiều ý kiến khác nhau và sẽ tiếp tục gây tranh cãi trong đàm phán sắp tới.


Mặc dù, phần lớn văn bản này được dành cho các vấn đề phòng ngừa, quản lý, giải quyết các tranh chấp Biển Đông giữa các bên, nhưng không có bất kỳ tham chiếu cụ thể nào đối với các cơ chế giải quyết tranh chấp có tính ràng buộc mà trong Phụ lục VII, UNCLOS 1982, đã đề cập một cách cụ thể, ngoại trừ tranh chấp quyền thụ đắc lãnh thổ và phân định ranh giới biển.


Để bổ sung cho khiếm khuyết này, Indonesia đã đề xuất: Các bên nhất trí, khi thích hợp sẽ sử dụng Hội đồng Cấp cao của Hiệp ước Thân thiện và Hợp tác (TAC) với sự đồng ý của các bên liên quan, để giải quyết mọi tranh chấp liên quan đến các sự cố có thể xảy ra trên Biển Đông.


Các bên đồng ý rằng bất kỳ sự cố nào chưa được giải quyết sẽ được chuyển tới một cơ chế giải quyết tranh chấp phù hợp của quốc tế, với sự đồng ý của các bên liên quan.


Việt Nam đề xuất rằng, các bên giải quyết tranh chấp “thông qua đàm phán hữu nghị, điều tra, trung gian, hòa giải và những biện pháp khác theo thỏa thuận của các quốc gia ký kết (Contracting States)”.


Nếu những biện pháp đó không thành công, Việt Nam đề nghị các bên tranh chấp “sử dụng cơ chế giải quyết tranh chấp theo những điều khoản tương ứng của Hiệp ước Thân thiện và Hợp tác ở Đông Nam Á”.


Việt Nam kết luận rằng không có bất kỳ điều gì trong COC “sẽ ngăn cản” việc giải quyết tranh chấp một cách hòa bình phù hợp theo Điều 33 (1) của Hiến chương Liên Hợp Quốc.


Điều 33 bao gồm “các biện pháp giải quyết tranh chấp khác” như Trọng tài, Tòa án quốc tế, sử dụng các cơ quan hay thỏa thuận khu vực, hoặc những biện pháp hòa bình khác được quyết định bởi các bên liên quan.


Ngoài ra, văn bản có hai lựa chọn để giám sát việc thực hiện. Lựa chọn thứ nhất, được ủng hộ bởi Brunei, Campuchia, Trung Quốc, Malaysia, và Singapore, đặt trách nhiệm vào Hội nghị Quan chức cấp cao ASEAN - Trung Quốc.


Lựa chọn thứ hai, do Việt Nam đề xuất, kêu gọi việc thiết lập một Ủy ban lãnh đạo bởi các Ngoại trưởng hoặc đại diện của các quốc gia.


3. Về nghĩa vụ hợp tác


Về cơ bản, văn bản đã sử dụng các quy định của UNCLOS 1982 rằng, các quốc gia ký kết có nghĩa vụ hợp tác bảo vệ môi trường biển trong một biển nửa kín và trong khi đang chờ giải quyết tranh chấp, các quốc gia ký kết cần tham gia vào những thỏa thuận có tính thực tiễn.


Để cụ thể hóa, các bên tham gia đã đề xuất ý kiến bổ sung, chẳng hạn: văn bản chứa đựng một đề xuất của Việt Nam, đề nghị thay thế toàn bộ những cam kết cơ bản với 27 điểm quy định những điều các quốc gia phải làm và không được làm.


Trong khi đó, Philippines, Indonesia và Singapore, Trung Quốc và Campuchia, đã lần lượt đề xuất bốn lựa chọn riêng biệt về nghĩa vụ hợp tác.


Ngoại trừ lựa chọn Trung Quốc đề xuất, tất cả các lựa chọn khác về cơ bản đều bao gồm năm lĩnh vực hợp tác trong Tuyên bố ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC).


Chúng bao gồm: bảo vệ môi trường biển, nghiên cứu khoa học biển, an toàn giao thông và liên lạc ở biển, chống tội phạm xuyên quốc gia.


Đề xuất của Indonesia bổ sung về đánh bắt trái phép trong Biển Đông. Campuchia thì đề xuất kết nối biển.


Đề xuất của Trung Quốc thì có phần chồng chéo với những lựa chọn khác, nhưng đáng chú ý ở trên sáu lĩnh vực hợp tác – bảo tồn nguồn cá, hợp tác an ninh và luật biển, đi lại và tìm kiếm cứu nạn trên biển, nghiên cứu khoa học biển và bảo vệ môi trường, kinh tế biển bao gồm hợp tác trong lĩnh vực thủy sản và dầu khí và văn hóa biển.


image036


COC là Bộ Luật Biển khu vực?


Điều đáng chú ý là Trung Quốc đề xuất sự hợp tác chỉ được thực hiện bởi các quốc gia ven biển “và không được hợp tác với các công ty từ những nước ngoài khu vực”.


Ngược lại, Malaysia lại đề nghị rằng không nội dung nào của COC “sẽ ảnh hưởng đến quyền hoặc khả năng của các bên tiến hành các hoạt động cùng với nước ngoài hoặc các tổ chức tư nhân do họ tự lựa chọn”.


Mời quý độc giả quan tâm đón đọc phần 2 của bài viết vào ngày mai, 9/8.


Tiến sỹ Trần Công Trục



Mục tiêu và ý nghĩa thực sự của COC với Biển Đông


TIẾN SỸ TRẦN CÔNG TRỤC


09:49 09/08/18


Thảo luận (0)


(GDVN) - Mục tiêu ưu tiên khi xây dựng COC, trước mắt là tạo ra môi trường hòa bình, ổn định để các bên tranh chấp có điều kiện thuận lợi cùng nhau giải quyết...


Báo Điện tử Giáo dục Việt Nam xin trân trọng giới thiệu phần còn lại của bài phân tích các diễn biến mới nhất về tiến trình đàm phán Bộ Quy tắc ứng xử trên Biển Đông của Tiến sĩ Trần Công Trục.


Bài viết này tiếp theo phần 1 "Đừng biến COC thành bác sỹ phẫu thuật có khả năng ghép nối lưỡi bò"


4. Về nội dung “Tự kiềm chế/Thúc đẩy lòng tin và sự tín nhiệm”


Có 2 sự lựa chọn: Lựa chọn đầu tiên được liệt kê bởi Indonesia gồm bốn biện pháp: đối thoại giữa các quan chức quốc phòng và quân đội, đối xử nhân đạo với người gặp nạn, tự nguyện thông báo về các cuộc tập trận chung hay kết hợp sắp diễn ra, và thường xuyên trao đổi thông tin liên quan.


Lựa chọn thứ hai: có 5 điểm do Trung Quốc đề xuất, một đề xuất do Philippines và điểm cuối cùng được đề xuất chung bởi Trung Quốc và Philippines.


Điểm đầu tiên Trung Quốc đề xuất: “các hoạt động quân sự trong khu vực là để dẫn tới tăng cường lòng tin lẫn nhau”.


Đề xuất thứ hai Trung Quốc kêu gọi: giao lưu giữa các lực lượng quốc phòng và quân đội bao gồm “tàu quân sự ghé thăm cảng của nhau và tuần tra chung một cách thường xuyên”.


Đề xuất thứ 3 kêu gọi: “thường xuyên tập trận chung giữa Trung Quốc và các nước thành viên ASEAN”.


Điểm thứ tư Trung Quốc đề xuất: “các bên sẽ thiết lập một cơ chế thông báo các hoạt động quân sự, và thông báo cho nhau các hoạt động quân sự chính nếu thấy cần thiết.


Các bên không được tập trận chung với các nước ngoài khu vực, trừ khi các bên liên quan đã được thông báo trước và không phản đối”


Điểm đề xuất thứ năm của Trung Quốc lưu ý rằng: các tàu và máy bay quân sự được hưởng quyền miễn trừ quốc gia và được “miễn trừ tài phán bởi bất cứ quốc gia nào khác ngoài quốc gia mà tàu đăng ký”.


Hơn nữa, tàu và máy bay quân sự được hưởng quyền tự vệ, “nhưng phải có sự lưu tâm thích đáng đến các tàu và máy bay quân sự của bên còn lại…”.


Việt Nam đã đưa ra một bảng đề xuất riêng của mình thay thế toàn bộ những điểm nêu tại nội dung này.


Việt Nam đề nghị rằng, các quốc gia ký kết tôn trọng “các vùng biển được quy định và thiết lập phù hợp với Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển 1982.


Việt Nam cũng đề xuất rằng, "các quốc gia ký kết cần cung cấp thông báo trước 60 ngày về cuộc tập trận chung/kết hợp sắp diễn ra” ở Biển Đông.


Việt Nam cũng đề xuất một hướng dẫn cụ thể về những gì quốc gia ký kết không nên làm, bao gồm xây dựng trên bất kỳ đảo nhân tạo nào, quân sự hóa các thực thể, phong tỏa tàu chở lương thực hay luân chuyển nhân sự, tuyên bố Khu vực Nhận diện Phòng không và tiến hành các các cuộc mô phỏng tấn công tàu và máy bay của các quốc gia khác.


5. Về vai trò của bên thứ ba


Các bên thứ ba là những quốc gia không tham gia ký COC. Không có quy định nào trong văn bản về việc các bên thứ ba có trách nhiệm hay các quyền được tham gia, với tư cách là chủ thể hay đối tượng áp dụng của COC, nếu có hoạt động nhằm thực hiện các quyền và lợi ích hợp pháp của họ trong Biển Đông.


image037


Nguy cơ chiến tranh tại Biển Đông khó loại trừ, ASEAN phải làm sao?


Vì vậy, Brunei đề xuất rằng, “sau khi COC có hiệu lực, các bên có thể đề xuất lên Đại hội đồng Liên Hợp Quốc ra Nghị quyết hai năm một lần để đảm bảo tất cả các quốc gia khác tôn trọng những nguyên tắc có trong COC…”.


Trong khi đó, đề xuất của Trung Quốc chủ yếu nhằm ràng buộc các quốc gia thành viên ASEAN ký kết COC phải hạn chế, nếu như không phải là loại trừ hoàn toàn sự tham gia của các bên thứ ba.


Có thể nói, đây là chủ trương xuyên suốt “phi quốc tế hóa” vấn đề Biển Đông mà Trung Quốc đã và đang theo đuổi.


6. Về tính chất của COC


Văn bản chưa có quy định nào cho thấy COC là một Hiệp ước theo luật quốc tế. Vì vậy, Việt Nam đề xuất rằng các quốc gia thành viên “đồng ý ràng buộc bởi Bộ Quy tắc Ứng xử hiện hành…”.


COC “phải được phê chuẩn theo thủ tục nội bộ tương ứng của các quốc gia ký kết” và Việt Nam và Brunei đều đề nghị rằng khi ký kết COC các quốc gia thành viên không có quyền bảo lưu bất kỳ một quy định nào.


Văn bản phê chuẩn sẽ được gửi cho Tổng thư ký ASEAN – người “sẽ đăng ký” COC theo đúng điều 102 Hiến chương Liên Hợp quốc…


Mặc dù, còn có những vấn đề chưa thật chi tiết, rõ ràng về tính chất pháp lý của COC, văn bản này vẫn đang là một “tài liệu sống”, nghĩa là các bên vẫn có quyền thêm hoặc bớt trong văn bản dự thảo, sao cho COC khi được ký kết sẽ là một văn bản có tính ràng buộc về mặt pháp lý.


Tuy nhiên, với những nội dung cụ thể đã được thể hiện trong Văn bản duy nhất để đàm phán về Bộ quy tắc ứng xử COC, kể cả những ý kiến đề xuất của các bên tham gia, có thể thấy rằng đã có những chuyển biến tích cực bước đầu theo chiều hướng COC là một văn bản có tính ràng buộc về pháp lý đối với các bên tham gia ký kết, chứ không còn chỉ là một văn kiện chính trị theo quan điểm của Trung Quốc khi thông qua “Khung COC”.


Trong nội dung này, chúng tôi cũng xin lưu ý rằng, văn bản này đã lặp lại những từ ngữ trong “Khung COC”: đây “không phải là một văn kiện để giải quyết tranh chấp lãnh thổ hoặc phân định biển” khiến nhiều người hoài nghi về hiệu lực của COC.


Tuy nhiên, chúng tôi cho rằng cụm từ này được nêu lại trong văn bản là có ý nghĩa thực tế, phù hợp với bối cảnh Biển Đông đang tồn tại những loại tranh chấp khác nhau, rất phức tạp và chồng chéo.


Không thể giải quyết chỉ trong một sớm một chiều và chỉ bằng một bộ “Quy tắc Ứng xử”(Code of Conduct) mà các bên tham gia mong muốn xây dựng để tạo ra hành lang pháp lý để xử lý các quan hệ rất phức tạp trong Biển Đông, có nguy cơ khiến cho tình hình Biển Đông có khả năng rơi vào tình trạng chiến tranh, xung đột, bất ổn…


Hơn nữa, mục tiêu ưu tiên khi xây dựng COC, trước mắt là tạo ra môi trường hòa bình, ổn định để các bên tranh chấp có điều kiện thuận lợi cùng nhau giải quyết các loại tranh chấp một cách cơ bản, lâu dài thông qua các biện pháp hòa bình. 


Phải chăng, chính vì thế mà ở phần 2, những nguyên tắc chung, Malaysia đã nhấn mạnh thêm:


“Các bên tiếp tục công nhận rằng COC không giải quyết hoặc không ảnh hưởng đến lập trường của các bên về các vấn đề pháp lý liên quan đến việc giải quyết tranh chấp về ranh giới biển hoặc các quyền lợi biển mà các bên được hưởng theo luật quốc tế về biển và được ghi nhận/phản ánh trong Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển năm 1982?”.


Để có được một COC đáp ứng mong muốn, kỳ vọng của cộng đồng khu vực và quốc tế, các quốc gia tham gia đàm phán sẽ còn vượt qua nhiều khó khăn, trắc trở.


Bởi vì, đây là một công trình vẫn còn đang trong tiến trình mà dự kiến sẽ trải qua ít nhất ba lần thảo luận trước khi tiến tới một Bộ Quy tắc cuối cùng về Ứng xử ở Biển Đông. Tuy vậy, với việc thông qua văn bản này cũng là một thắng lợi đáng ghi nhận.


Chúng tôi tin tưởng các quan chức được các quốc gia thành viên đề cử tham gia đàm phán sẽ hoàn thành trọng trách của mình, với tư cách không chỉ là những chính khách, mà phải còn là những chuyên gia pháp lý, khoa học, kỹ thuật có tâm và có trình độ chuyên môn cao.


TIẾN SỸ TRẦN CÔNG TRỤC



Duterte nói TQ sẽ 'công bằng' về vấn đề Biển Đông


BBC 19/7/2018

image009

Bản quyền hình ảnh Reuters Image caption Tổng thống Philippines Rodrigo Duterte phát biểu tại lễ kỉ niệm 120 năm độc lập của Phillipines hôm 12/6


Tổng thống Philippines Rodrigo Duterte tin Trung Quốc sẽ cư xử 'công bằng' trong vấn đề tranh chấp ở Biển Đông, theo tờ Bưu điện Hoa Nam.


Ông Duterte đưa ra tuyên bố trên hôm thứ Ba tại lễ khởi công hai cây cầu do Trung Quốc đầu tư ở Manila.


"Chúng ta sẽ cho họ một thời gian phù hợp để giải quyết. Trong tương lai, chúng ta sẽ nhận ra rằng Trung Quốc, sau cùng, thật sự là một láng giềng tốt," ông Duterte nói.


Ông cũng tái khẳng định rằng Trung Quốc cũng chưa hề "hỏi xin một mét vuông đất nào" ở Philippines.


Đó có vẻ là câu trả lời cho sự lo ngại của các chuyên gia và các nhà lập pháp về khả năng Trung Quốc bẫy nợ Philippines sau khi Bắc Kinh đồng ý cho Manila vay nợ để thực hiện các dự án cơ sở hạ tầng quy mô lớn.


Đại sứ Trung Quốc tại Philippines, Zhao Jianhua tái khẳng định rằng "những dự án này, hai cây cầu này là viện trợ của Trung Quốc. Và chúng tôi xây dựng nó miễn phí."


Bản quyền hình ảnh Getty Images Image caption Người dân Philippines biểu tình phản đối Trung Quốc hôm 11/6


"Các anh sẽ vay các khoản nợ mềm (nợ lãi thấp) từ Trung Quốc để đầu tư cho các dự án cơ sở hạ tầng. Và đó là quyết định của chính quyền các anh để vay nợ mềm và các dự án này sẽ được Trung Quốc tiếp quản thông qua quá trình đấu thầu," ông Zhao nói, theo tờ Inquirer.


Tuy nhiên trong khi đó nhiều công ty Trung Quốc còn lên kế hoạch cho nhiều dự án khổng lồ khác như các khu nghỉ mát casino ở các khu đất bất động sản vàng, theo tờ Rapple.com của Philippines.


Cũng theo tờ báo này, ông Duterte nói đã có một "bản kế hoạch" với Trung Quốc cho phép Bắc Kinh quyết định lợi ích sẽ được chia đều cho Manila.


"Tôi tin chắc rằng cuối cùng, Trung Quốc sẽ công bằng và sự công bằng sẽ chia đều cho các bên," ông Duterte nói.


Chuyên gia về an ninh và chính trị Đông Nam Á Zachary Abuza ở National War College đã chia sẽ bài viết của Bưu Điện Hoa Nam và đã có một phản ứng rất ẩn ‎‎ý.


Singapore: Bắc Kinh dẫn Asean nghị đàm COC, Mỹ hài lòng hay không hài lòng?


image038


Mặt trận Đông Hải liệt quốc


Singapore: Bắc Kinh dẫn Asean nghị đàm COC, Mỹ hài lòng hay không hài lòng? (*)


Mỹ lo ngại khả năng nước lớn ép nước nhỏ trong đàm phán Biển Đông

image039

Ngoại trưởng các nước dự Diễn đàn ASEAN tại Singapore ngày 04/08/2018.REUTERS/Edgar Su


Vào lúc ASEAN và Trung Quốc loan báo thúc đẩy đàm phán về Bộ Quy Tắc Ứng Xử trên Biển Đông, Hoa Kỳ, qua lời quan chức ngoại giao phụ trách Hiệp Hội các nước Đông Nam Á hôm 07/08/2018, đã nhấn mạnh là cần phải tránh việc nước lớn gây áp lực trên nước nhỏ trong cuộc thương thuyết. Washington cũng cho rằng bộ quy tắc ứng xử đang đàm phán phải chú ý đến các mối quan ngại của các quốc gia bên ngoài Biển Đông.


Trong cuộc họp báo quốc tế qua điện thoại nhân kỷ niệm 51 năm ngày thành lập Hiệp Hội Các Quốc Gia Đông Nam Á ASEAN, bà Piper Campbell, đại biện lâm thời của phái bộ Mỹ bên cạnh ASEAN đã tái khẳng định rõ ràng lập trường của Hoa Kỳ trong hồ sơ Biển Đông.


Theo quan chức này : « Trong những khuôn khổ như đàm phán về bộ Quy Tắc Ứng Xử trên Biển Đông COC, điều cực kỳ quan trọng là không nước nào được quyền gây áp lực đối với nước khác ».


Bà Campbell nói tiếp : « Điều quan trọng là mọi quốc gia, dù lớn hay nhỏ, đều phải có cơ hội bảo vệ các lợi ích quốc gia, cũng như các nguyên tắc quốc tế thật rõ ràng, mà cụ thể là những điều đã được ghi trong Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển (UNCLOS) ».


Đặc sứ Mỹ phụ trách ASEAN cũng nhấn mạnh rằng Washington luôn theo dõi sát những diễn biến tại Biển Đông. Bà Campbell cho biết, ngoại trưởng Hoa Kỳ Mike Pompeo mới đây đã có dịp bày tỏ quan điểm của Washington, theo đó « mọi bộ quy tắc ứng xử (trên Biển Đông) cần ghi nhận các mối quan tâm và quyền lợi của các bên thứ ba. »


Lời nhắc nhở này của phía Mỹ được đưa ra trong bối cảnh Trung Quốc đề nghị loại trừ các nước ngoài khu vực ra khỏi các cuộc diễn tập Hải Quân chung được đề xuất trong bộ Quy Tắc Ứng Xử, hay ra khỏi các đề án thăm dò năng lượng ở Biển Đông, một đề nghị bị cho là nhằm đẩy Mỹ ra khỏi khu vực này.


Theo báo Philippine Star ngày 08/08, đề nghị của Bắc Kinh loại trừ các bên thứ ba ra khỏi các cuộc tập trận đã được Manila tỏ ý tán đồng khi phát ngôn viên của tổng thống Duterte cho rằng không thấy trở ngại nào trong đề nghị của Trung Quốc.


Dù rất hài lòng trước việc Trung Quốc và các nước ASEAN thúc đẩy đàm phán về COC, nhưng Washington đã nhấn mạnh thêm về tầm quan trọng của việc tuân thủ luật quốc tế, bao gồm Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật biển, cũng như tôn trọng quyền tự do hàng không và hàng hải của các nước khác ở Biển Đông./ (theoTrọng Nghĩa 08-08-2018)


(*) tựa của VH.


Mặt trận Đông Hải liệt quốc


COC sẽ đá Mỹ ra khỏi Đông Hải? (*)


image039

Đứng góc trái: Ngoại trưởng Mike Pompei, Ngoại trưởng Phạm  Bình Minh, Ngoại trưởng Vương Nghị, ... họp tại Singapore nhân kỷ niệm 51 năm ngày thành lập Hiệp Hội Các Quốc Gia Đông Nam á ASEAN từ 31-04/8/2018.


Báo Singapore: Asean sắp thảo luận về COC với Bắc Kinh

image040

Bản quyền hình ảnh Reuters Image caption Tàu nạo vét của Trung Quốc trong vùng biển quanh đảo Đá Vành Khăn, thuộc quần đảo Trường Sa


Các bộ trưởng Asean dự kiến thảo luận về Bộ quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC) tuần tới tại Singapore trong bối cảnh lo ngại về Trung Quốc gia tăng hoạt động quân sự tại khu vực này, báo Singapore cho hay.


Tờ Straits Times dẫn bình luận của Ngoại trưởng Malaysia Saifuddin Abdullah rằng văn kiện được Trung Quốc và các nước Asean ký kết năm 2002 dường như không đủ quyền để buộc tuân thủ hay phạt bên vi phạm.


Việc Bắc Kinh xây dựng các căn cứ quân sự, lắp đặt và thử nghiệm các thiết bị trên các đảo nhân tạo ở Biển Đông gây quan ngại cho các nước Asean, ông Abdullah trả lời chất vấn tại Quốc hội Malaysia về lập trường của Malaysia.


Ông Abdullah được Straits Times dẫn lời nói việc Trung Quốc triển khai các đội tàu hải cảnh giống tàu chiến trên tuyến hàng hải chiến lược tạo nên sự căng thẳng trong khu vực.


Hoa Kỳ nhiều lần điều tàu chiến đến khu vực này để khẳng định quyền tự do hàng hải.


Thủ tướng Malaysia Mahathir Mohamad đã tuyên bố rằng tàu chiến không được phép đi qua Biển Đông.


TQ ‘vững vàng giữ chủ quyền’ ở Biển Đông


"Tất cả các bên cần tránh các hành động có thể tạo ra những căng thẳng và khiêu khích. Thay vào đó cần tự kiềm chế và tránh các hành động quân sự", ông Abdullah nói.


Trước câu hỏi: "Liệu Malaysia có nộp đơn lên Tòa án Công lý Quốc tế (ICJ) để đòi chủ quyền với đảo Layang Layang mà Việt Nam gọi là Đá Hoa Lau, gần quần đảo Trường Sa?",


ông Abdullah đáp rằng chủ trương của Malaysia hiện nay là tăng cường cách thức "kiểm soát hành vi của Trung Quốc tại Biển Đông", bằng cách thực thi COC "càng sớm càng tốt".


Hồi đầu tháng 7/2018, theo website VTV, tại cuộc họp giữa các quan chức Asean-Trung Quốc liên quan đàm phán COC, Thứ trưởng Ngoại giao Việt Nam Nguyễn Quốc Dũng khẳng định quan điểm của Việt Nam là COC "cần có hiệu lực thực thi, có tính ràng buộc về pháp lý và là công cụ điều chỉnh hành vi của các bên trên Biển Đông".


Trong một diễn biến khác, Nhật sẽ điều tàu chở trực thăng tới Biển Đông trong hải trình dài hai tháng và dự kiến bắt đầu vào tháng 9/2018.


Động thái của Nhật thể hiện việc Tokyo chia sẻ mối quan ngại với Mỹ về sự hiện diện quân sự của Trung Quốc tại Biển Đông, theo Reuters.


"Đây là một phần nỗ lực của Nhật để thúc đẩy chiến lược Ấn Độ-Thái Bình Dương mở và tự do", hãng tin dẫn lời giới chức Nhật./ (theo BBC26/7/ 2018)


(*) tựa của VH


image041


Mỹ bơm 300 triệu đô cho an ninh Đông nam Á


Mỹ muốn ASEAN, Trung Quốc cân nhắc quyền, quan ngại của bên thứ 3 trong COC


image042


Văn Khoa


truongvankhoa2001@yahoo.com


09/08/2018  Thanh Niên Online


Ngoại trưởng Mỹ Mike Pompeo nêu rõ lập trường của Washington rằng bất kỳ Bộ quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC) nào giữa ASEAN và Trung Quốc cũng cần thể hiện những quan ngại và quyền của các bên thứ 3.


image043

Ngoại trưởng Mỹ Mike Pompeo trong cuộc họp với các ngoại trưởng ASEAN ở Singapore ngày 3.8.18 Reuters


Trong cuộc họp báo với giới phóng viên mới đây, Đại biện lâm thời tại phái bộ Mỹ ở ASEAN Piper Campbell cho hay ông Pompeo nêu lập trường nói trên tại tất cả cuộc gặp trong khuôn khổ của hội nghị Bộ trưởng ASEAN ở Singapore, diễn ra từ ngày 31-4.8.2018


Trung Quốc ngang nhiên tuyên bố quân sự hóa Biển Đông “Trong các cuộc họp song phương, bao gồm Trung Quốc, Nhật Bản, Úc và các nước thành viên ASEAN, và sau đó là cuộc họp chung, ngoại trưởng đã có nhiều cơ hội để làm rõ lập trường nhất quán của Mỹ về Biển Đông, trong đó có lòng tin của chúng tôi rằng bất kỳ Bộ Quy tắc ứng xử nào cũng cần bao gồm những quan ngại và quyền lợi của các bên thứ 3”, bà Campbell nhấn mạnh, theo tờ The Philippine Star.


 “Điều quan trọng là tất cả các nước, bất kể lớn hay nhỏ, đều phải có cơ hội thể hiện lợi ích quốc gia của mình cũng như những nguyên tắc quốc tế rất quan trọng, kể cả những nguyên tắc được đưa vào UNCLOS (Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển). Vì vậy chúng tôi tiếp tục kiên định trong lập trường của Mỹ về DOC (Tuyên bố ứng xử giữa các bên ở Biển Đông) và COC. Lập trường đó không thay đổi”, bà Campbell cho hay.


Bà Campbell đưa ra phản ứng trên vài ngày sau khi ASEAN và Trung Quốc nhất trí về dự thảo văn kiện sẽ có thể trở thành cơ sở cho các cuộc đàm phán COC sau này.


Trong dự thảo COC, phía Trung Quốc đề xuất không cho các quốc gia ngoài khu vực tham gia các cuộc tập trận và hoạt động thăm dò năng lượng chung ở Biển Đông giữa Trung Quốc và các nước thành viên ASEAN.


Tờ The Australian dẫn lời một số nhà quan sát cho rằng Trung Quốc đang tìm cách tận dụng cuộc đàm phán về COC để hạn chế sự hiện diện quân sự của Mỹ và Úc ở Biển Đông.



Mỹ bơm 300 triệu đô cho an ninh Đông nam á


Vương Nghị: Văn bản duy nhất cho COC


Thanh Phương 04-08-2018

image044

ASEAN : Ngoại trưởng Mỹ Mike Pompeo chuẩn bị gặp các đối tác bên lề cuộc họp ngoại trưởng tại Singapore. Ảnh ngày 04/08/2018.REUTERS/Edgar S


Theo hãng tin Reuters, hôm 04/08/2018, bên lề Diễn đàn Khu vực ASEAN tại Singapore, Ngoại trưởng Mike Pompeo cam kết là Hoa Kỳ sẽ cấp gần 300 triệu đôla cho việc tăng cường hợp tác an ninh ở vùng Đông Nam Á, trong khuôn khổ chiến lược mới của Mỹ phát triển « một vùng Ấn Độ -Thái Bình Dương tự do và cởi mở ».


Theo lời ông Pompeo, nguồn tài trợ mới về an ninh này sẽ giúp thúc đẩy « những ưu tiên chung » của Mỹ và ASEAN về mặt an ninh, đặc biệt là củng cố an ninh hàng hải, phát triển các khả năng trợ giúp nhân đạo và duy trì hòa bình, đồng thời giúp các nước khu vực chống những mối đe dọa xuyên quốc gia.


Ngoại trưởng Mỹ cho biết tại cuộc họp với các đồng nhiệm châu Á ở Singapore, ông cũng đã bày tỏ quan ngại về việc Trung Quốc quân sự hóa Biển Đông, đồng thời nhấn mạnh tầm quan trọng của việc duy trì « một trật tự dựa trên luật pháp » trong khu vực.


Nhưng trong cuộc họp báo hôm nay cũng tại Singapore, Ngoại trưởng Trung Quốc Vương Nghị đã biện minh cho việc Bắc Kinh quân sự hóa Biển Đông, khẳng định đó chỉ là một « hành động tự vệ », nhằm đáp lại những áp lực về an ninh của Hoa Kỳ và các nước khác ngoài khu vực.


Ông Vương Nghị nhân dịp này nhắc lại việc Trung Quốc và ASEAN hôm thứ năm vừa qua thông báo đã đạt được một văn bản duy nhất làm nền tảng cho các cuộc thương lượng về Bộ Quy tắc ứng xử trên Biển Đông ( COC ). Ngoại trưởng Trung Quốc khẳng định là các cuộc thương lượng này có thể diễn ra rất nhanh « nếu không có những sự phá rối từ bên ngoài ».


Việc đạt được văn bản duy nhất cho cuộc thương lượng về COC đã được Trung Quốc và ASEAN ca ngợi như là một « bước tiến ngàn dặm ». Tuy nhiên, theo Reuters, những người chỉ trích cho rằng việc tỏ ra nhiệt tình thúc đẩy thương lượng chỉ là một cách để Bắc Kinh « câu giờ » và củng cố vị thế của họ trong khu vực. Hiện giờ Trung Quốc đang chiếm thế thượng phong sau khi bồi đắp nhiều đảo nhân tạo ở Biển Đông và xây trên đó các căn cứ quân sự./


(*) tựa của VH.



'VN không tham gia nhưng ủng hộ chiến lược Ấn Độ-TBD'


BBC 08/8/18

image045

Bản quyền hình ảnh DigitalGlobe via Getty Images Image caption DigitalGlobe công bố ảnh chụp Đá Chữ Thập ngày 26/5/2018


Một chuyên gia từ Hà Nội nói với BBC rằng Việt Nam "không tham gia" nhưng "sẽ ủng hộ" Chiến lược Ấn Độ-Thái Bình Dương" do Mỹ khởi xướng.


Tại buổi họp báo thường kỳ của Bộ Ngoại giao Việt Nam hồi đầu tháng 8/2018, trả lời câu hỏi về việc tham gia sáng kiến Ấn Độ - Thái Bình Dương mà Ngoại trưởng Mỹ Mike Pompeo công bố, Người phát ngôn Lê Thị Thu Hằng nói: "Hòa bình, ổn định họp tác và phát triển trên thế giới là mục tiêu chung của tất cả các quốc gia."


"Việt Nam hoan nghênh các sáng kiến cũng như nỗ lực liên kết và kết nối ở khu vực góp phần vào mục tiêu này."


"Việc tham gia phải đảm bảo độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, cũng như lợi ích quốc gia."


'Có lợi cho Việt Nam'


Hôm 8/8, trả lời BBC, PGS.TS Vũ Thanh Ca, Đại học Tài nguyên và Môi trường Hà Nội bình luận: "Tôi cho rằng với chính sách quốc phòng "3 không" của Việt Nam, chắc chắn Việt Nam sẽ không tham gia Chiến lược Ấn Độ - Thái Bình Dương."


"Tuy nhiên, có thể thấy với đường lối đối ngoại là bạn, là đối tác tin cậy của tất cả các nước và đấu tranh bảo vệ chủ quyền, các quyền và lợi ích quốc gia trên biển trên cơ sở luật pháp quốc tế, tất cả các hành động tuân thủ luật pháp quốc tế trên biển, đặc biệt trên Biển Đông, đều phù hợp và rất có lợi cho Việt Nam."


Trung Quốc biết rằng họ không đủ sức mạnh để đương đầu với cả thế giới nên họ tìm cách "chia để trị".PGS.TS Vũ Thanh Ca


"Chiến lược Ấn Độ-Thái Bình Dương là nhằm mục đích tăng cường luật pháp quốc tế, đảm bảo an ninh hàng hải, hàng không và phát triển kinh tế, nhất là nền kinh tế Biển xanh, cho tất cả các quốc gia tham gia. Như vậy, chiến lược này tuân thủ luật pháp quốc tế và tôi tin rằng Việt Nam sẽ ủng hộ nó."


Ông Vũ Thanh Ca cũng cho biết thêm: "Trong cuộc họp báo bên lề Diễn đàn Khu vực Asean gần đây, Ngoại trưởng Trung Quốc Vương Nghị đã nói rằng Trung Quốc quân sự hóa các đảo nhân tạo ở Biển Đông để phòng vệ, chống các mối đe dọa từ ngoài khu vực."


Ngoại trưởng Mỹ thăm VN lần đầu


"Theo tôi, cách nói này của Trung Quốc là rất vô trách nhiệm. Theo nguyên tắc tự do biển cả, tất cả các nước trên thế giới đều có nhiều quyền, đặc biệt là quyền tự do hàng hải, hàng không trong vùng biển đặc quyền kinh tế của các quốc gia ven biển."


"Thậm chí, trong lãnh hải của các quốc gia ven biển, tàu thuyền của tất cả các nước đều có quyền đi qua vô hại. Đấy là chưa kể nếu các quốc gia xung quanh Biển Đông phân định biển tuân theo Phán quyết của Tòa trọng tài quốc tế thì ở giữa Biển Đông sẽ có một vùng biển cả mà tất cả các quốc gia trên thế giới đều có các quyền đối với tài nguyên."


"Như vậy, không được phép phân biệt một cách hàm hồ thành "các quốc gia trong khu vực" và "các quốc gia ngoài khu vực". Trung Quốc biết rằng họ không đủ sức mạnh để đương đầu với cả thế giới nên họ tìm cách "chia để trị", tìm cách đẩy các cường quốc ra khỏi khu vực Biển Đông để họ tự do hành động bắt nạt các nước trong khu vực."


"Với hiện trạng hiểu biết luật pháp quốc tế của thế giới ngày nay, Trung Quốc không thể che giấu mưu đồ của họ với những phát biểu hàm hồ như vậy, và chắc chắn rằng những hành động vi phạm luật pháp quốc tế chỉ làm giảm uy tín, gây khó khăn cho việc thừa nhận những nỗ trở thành một nước lớn của Trung Quốc," ông Thanh Ca nói với BBC.


Cùng thời điểm, nhà báo độc lập Emanuele Scimia được tờ South China Morning Post dẫn lời: "Dù đã có những tiến triển trong đàm phán Bộ quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC) giữa Trung Quốc và các nước Asean, Mỹ sẽ khó có ảnh hưởng đến khu vực này."


"Tuy nhiên, để đi đến bộ quy tắc cuối cùng còn một chặng đường dài."


image033

Bản quyền hình ảnh Getty Images Image caption Ngoại trưởng Hoa Kỳ Mike Pompeo gặp TBT Nguyễn Phú Trọng tại Hà Nội hôm 8/7


"Do Trung Quốc đang phải chống chọi cuộc chiến thương mại với Hoa Kỳ nên để giảm căng thẳng trên Biển Đông với các nước láng giềng, Bắc Kinh có thể đẩy nhanh việc ký kết hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực, nhằm giảm bớt nguy cơ bị Hoa Kỳ cô lập."


Tháng trước, trong chuyến thăm Hà Nội, Ngoại trưởng Mỹ Mike Pompeo tuyên bố, Hoa Kỳ và Việt Nam "cần chung tay duy trì tự do hàng hải, tự do hàng không ở Biển Đông".


Đến nay, Bắc Kinh luôn chỉ trích các hoạt động tuần tra của chiến hạm Mỹ trong khu vực.


Trong một diễn biến khác, dự kiến từ tháng 9/2018, Nhật sẽ điều tàu chở trực thăng tới Biển Đông trong hải trình dài hai tháng.


Động thái của Nhật thể hiện việc Tokyo chia sẻ mối quan ngại với Mỹ về sự hiện diện quân sự của Trung Quốc tại Biển Đông, theo Reuters.


"Đây là một phần nỗ lực của Nhật để thúc đẩy chiến lược Ấn Độ-Thái Bình Dương mở và tự do", hãng tin dẫn lời giới chức Nhật.


Hồi tháng 5/2018, Bộ Tư lệnh Thái Bình Dương Hoa Kỳ được đổi tên là Bộ Tư lệnh Ấn Độ-Thái Bình Dương của Hoa Kỳ.


 

Bắc Kinh dẫn đàm phán COC, Mỹ hài lòng hay không hài lòng?


Mỹ lo ngại khả năng nước lớn ép nước nhỏ trong đàm phán Biển Đông


Trọng Nghĩa 08-08-2018

image039

Ngoại trưởng các nước dự Diễn đàn ASEAN tại Singapore ngày 04/08/2018.REUTERS/Edgar Su


Vào lúc ASEAN và Trung Quốc loan báo thúc đẩy đàm phán về Bộ Quy Tắc Ứng Xử trên Biển Đông, Hoa Kỳ, qua lời quan chức ngoại giao phụ trách Hiệp Hội các nước Đông Nam Á hôm 07/08/2018, đã nhấn mạnh là cần phải tránh việc nước lớn gây áp lực trên nước nhỏ trong cuộc thương thuyết. Washington cũng cho rằng bộ quy tắc ứng xử đang đàm phán phải chú ý đến các mối quan ngại của các quốc gia bên ngoài Biển Đông.


Trong cuộc họp báo quốc tế qua điện thoại nhân kỷ niệm 51 năm ngày thành lập Hiệp Hội Các Quốc Gia Đông Nam Á ASEAN, bà Piper Campbell, đại biện lâm thời của phái bộ Mỹ bên cạnh ASEAN đã tái khẳng định rõ ràng lập trường của Hoa Kỳ trong hồ sơ Biển Đông.


Theo quan chức này : « Trong những khuôn khổ như đàm phán về bộ Quy Tắc Ứng Xử trên Biển Đông COC, điều cực kỳ quan trọng là không nước nào được quyền gây áp lực đối với nước khác ».


Bà Campbell nói tiếp : « Điều quan trọng là mọi quốc gia, dù lớn hay nhỏ, đều phải có cơ hội bảo vệ các lợi ích quốc gia, cũng như các nguyên tắc quốc tế thật rõ ràng, mà cụ thể là những điều đã được ghi trong Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển (UNCLOS) ».


Đặc sứ Mỹ phụ trách ASEAN cũng nhấn mạnh rằng Washington luôn theo dõi sát những diễn biến tại Biển Đông. Bà Campbell cho biết, ngoại trưởng Hoa Kỳ Mike Pompeo mới đây đã có dịp bày tỏ quan điểm của Washington, theo đó « mọi bộ quy tắc ứng xử (trên Biển Đông) cần ghi nhận các mối quan tâm và quyền lợi của các bên thứ ba. »


Lời nhắc nhở này của phía Mỹ được đưa ra trong bối cảnh Trung Quốc đề nghị loại trừ các nước ngoài khu vực ra khỏi các cuộc diễn tập Hải Quân chung được đề xuất trong bộ Quy Tắc Ứng Xử, hay ra khỏi các đề án thăm dò năng lượng ở Biển Đông, một đề nghị bị cho là nhằm đẩy Mỹ ra khỏi khu vực này.


Theo báo Philippine Star ngày 08/08, đề nghị của Bắc Kinh loại trừ các bên thứ ba ra khỏi các cuộc tập trận đã được Manila tỏ ý tán đồng khi phát ngôn viên của tổng thống Duterte cho rằng không thấy trở ngại nào trong đề nghị của Trung Quốc.


Dù rất hài lòng trước việc Trung Quốc và các nước ASEAN thúc đẩy đàm phán về COC, nhưng Washington đã nhấn mạnh thêm về tầm quan trọng của việc tuân thủ luật quốc tế, bao gồm Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật biển, cũng như tôn trọng quyền tự do hàng không và hàng hải của các nước khác ở Biển Đông.



Hà Nội: Hội nghị Ngoại giao lần thứ 30


Phát biểu của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng


Theo baochinhphu.vn


14/08/18


 (GDVN) - Sáng 13/8, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã đến dự Hội nghị Ngoại giao lần thứ 30 và có phát biểu chỉ đạo.


Sáng 13/8, Hội nghị Ngoại giao lần thứ 30 với chủ đề “Ngoại giao Việt Nam: Chủ động, sáng tạo, hiệu quả thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XII” đã khai mạc tại Hà Nội.


Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã đến dự và phát biểu chỉ đạo Hội nghị.


Tổng Bí thư phát biểu, hôm nay, tôi rất vui mừng đến dự Hội nghị Ngoại giao lần thứ 30 - một Hội nghị quan trọng không chỉ của ngành ngoại giao mà còn là của toàn thể cán bộ làm công tác đối ngoại của đất nước.


Trước hết, tôi xin gửi đến các nhà ngoại giao lão thành, các đồng chí đại biểu cùng toàn thể anh chị em cán bộ, công chức, viên chức, những người lao động ngành ngoại giao đang công tác ở trong nước và ngoài nước lời chào thân thiết, lời thăm hỏi chân tình và lời chúc tốt đẹp nhất.


image046

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng phát biểu chỉ đạo tại Hội nghị. (Ảnh: vov.vn)


Tôi nhiệt liệt hoan nghênh các đồng chí trưởng cơ quan đại diện ngoại giao từ gần 100 địa bàn khác nhau trên thế giới mang về Hội nghị những thông tin, nhận định mới nhất nơi các đồng chí công tác; hoan nghênh đại diện lãnh đạo các tỉnh, thành trong cả nước về dự và chia sẻ với Hội nghị về tình hình công tác đối ngoại sinh động tại các địa phương.


Đây là dịp để chúng ta nhìn lại quá trình gần 3 năm triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ XII của Đảng về đối ngoại, trên cơ sở đó đề xuất các phương hướng, biện pháp để thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ đối ngoại trọng tâm cho những năm tới.


Đồng thời góp phần vào việc chuẩn bị tổng kết 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ đổi mới và chuẩn bị Văn kiện Đại hội XIII của Đảng.


Từ sau Đại hội XII của Đảng, tình hình thế giới và trong nước bên cạnh những thuận lợi cơ bản cũng có nhiều vấn đề mới nảy sinh khó khăn hơn trước; mục tiêu và yêu cầu đối với công tác đối ngoại cũng cao hơn trước như trong Báo cáo đã nêu, tôi không nhắc lại.


Tuy nhiên, có thể khẳng định, với sự cố gắng nỗ lực của toàn hệ thống chính trị, công tác đối ngoại của chúng ta trong gần 3 năm qua, đặc biệt là trong năm 2017, đã đạt được nhiều kết quả quan trọng, trở thành một điểm sáng trong toàn bộ những thành tựu chung của đất nước. Nổi bật là:


- Công tác đối ngoại đã đóng góp rất quan trọng vào việc duy trì, củng cố môi trường hoà bình, ổn định, tạo thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.


Trước những biến động nhiều mặt rất phức tạp trên thế giới và khu vực, những diễn biến không thuận của môi trường an ninh xung quanh, những tác động tiêu cực từ bên ngoài, chúng ta đã tiếp tục có những quyết sách đúng đắn, bước đi phù hợp để phục vụ phát triển kinh tế, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, an ninh, quốc phòng, giữ vững độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước.


Ta đã chủ động, tích cực vận động, thúc đẩy đàm phán, hợp tác giải quyết những bất đồng và vấn đề tồn tại liên quan đến việc phân định ranh giới biển, vừa bảo vệ được quyền chủ quyền và quyền tài phán của ta, đồng thời cùng các nước khác tiến hành công tác cắm mốc giới, mở các cửa khẩu mới quản lý đường biên giới và các hoạt động hợp tác xuyên biên giới, làm cho các đường biên giới trên bộ vừa là đường biên giới hoà bình, hữu nghị vừa là đường biên giới phát triển.


- Công tác đối ngoại đã phục vụ thiết thực cho nhiệm vụ phát triển kinh tế, nhất là kinh tế đối ngoại. Từ năm 2016 đến nay, tăng trưởng kinh tế luôn đạt cao hơn mức bình quân của giai đoạn 2011 - 2015.


Các chỉ số kinh tế vĩ mô đều tích cực, nhất là đầu tư nước ngoài và xuất nhập khẩu.


Đáng chú ý, mặc dù xu hướng bảo hộ nổi lên ở nhiều nơi trên thế giới, kim ngạch thương mại và thu hút vốn đầu tư, du lịch từ các đối tác chủ chốt năm sau vẫn tăng hơn năm trước.


Tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài năm 2017 đạt 35,88 tỉ USD, tăng 44,4% (cao nhất trong 10 năm qua), trong đó vốn giải ngân đạt 17,5 tỉ USD, tăng 10,8% so với năm 2016.


Các đối tác đã cam kết viện trợ hơn 3 tỉ đô la ODA cho Việt Nam trong giai đoạn từ nay đến năm 2020.


Lượng khách du lịch quốc tế đến Việt Nam đạt mức kỷ lục 13 triệu lượt người. Đến nay, đã có tổng cộng 71 nước công nhận Việt Nam là nền kinh tế thị trường; ta đã ký kết 13 hiệp định thương mại tự do, trong đó có 10 hiệp định đã có hiệu lực. Hội nhập kinh tế tiếp tục tạo thêm nguồn lực cho phát triển kinh tế nước ta.


- Công tác đối ngoại tiếp tục góp phần quan trọng nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế, đưa quan hệ của Việt Nam với các nước, nhất là các đối tác ưu tiên, quan trọng đi vào chiều sâu, ổn định, bền vững.


Quan hệ với các nước lớn tiếp tục được củng cố và thúc đẩy hài hoà, tranh thủ được các yếu tố tích cực, hạn chế những bất đồng để phục vụ nhiệm vụ xây dựng và phát triển đất nước, nâng cao vị thế của quốc gia.


Đến nay, ta đã thiết lập quan hệ đối tác chiến lược với 16 quốc gia, đối tác toàn diện với 11 quốc gia và quan hệ chiến lược đặc biệt với Lào và Campuchia.


Các mối quan hệ đối tác chiến lược, đối tác toàn diện tiếp tục được thúc đẩy, phát huy được các mặt tích cực.


Chúng ta đã đẩy mạnh và làm sâu sắc hơn quan hệ với các đối tác, nhất là các đối tác có tầm quan trọng chiến lược đối với sự phát triển, an ninh của đất nước; cụ thể hóa và đưa khuôn khổ quan hệ đã xác lập đi vào chiều sâu, thực chất, tạo sự đan xen gắn kết giữa lợi ích của ta với các nước.


- Chúng ta đã đẩy mạnh hội nhập quốc tế trên mọi mặt, tiếp tục phát huy vai trò tích cực tại các thể chế khu vực và toàn cầu, trong đó nổi bật là đã tham gia xây dựng Cộng đồng ASEAN vững mạnh, đoàn kết, hợp tác và tự cường.


Công tác đàm phán và tham gia các hiệp định thương mại tự do luôn được quan tâm, thúc đẩy.


Đặc biệt, đã tổ chức thành công Năm APEC Việt Nam 2017, ta đã tranh thủ tốt vị trí nước chủ nhà, khẳng định được vai trò và khả năng của Việt Nam trong việc xử lý những vấn đề quốc tế và khu vực.


Chủ động triển khai chiến lược đối ngoại về quốc phòng, an ninh phù hợp với tư duy mới về bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ an ninh quốc gia, khai thác có hiệu quả các nguồn lực bên ngoài, vị thế của đất nước nhằm phục vụ mục tiêu bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.


- Công tác bảo hộ công dân, ngư dân tiếp tục được quan tâm. Công tác thông tin tuyên truyền đối ngoại, ngoại giao văn hoá được triển khai đồng bộ và hiệu quả.


Chúng ta đã chủ động, kiên quyết đấu tranh trong lĩnh vực dân chủ, nhân quyền.


Công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài được thực hiện tốt; ngày càng có nhiều người Việt Nam ở nước ngoài đóng góp tích cực vào sự phát triển của đất nước và củng cố khối đại đoàn kết dân tộc.


- Công tác đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân được triển khai khá đồng bộ, chặt chẽ, đạt nhiều kết quả quan trọng.


Quan hệ giữa Đảng ta với các đảng cộng sản, công nhân và các chính đảng khác tiếp tục được củng cố thông qua các hoạt động trao đổi đoàn, trao đổi lý luận và tiếp xúc tại các diễn đàn đa phương.


Quốc hội ta cũng mở rộng quan hệ quốc tế song phương và đa phương. Công tác đối ngoại nhân dân được triển khai với hình thức và nội dung ngày càng phong phú và đa dạng.


Những kết quả nêu trên đã khẳng định tính đúng đắn trong đường lối đối ngoại của Đại hội XII và các chủ trương liên quan đến công tác đối ngoại của Đảng ta.


Chúng ta đã thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hợp tác và phát triển; đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, vì lợi ích quốc gia - dân tộc.


Trong các tình huống phức tạp, chúng ta đã "kiên trì về nguyên tắc, linh hoạt về sách lược", bám sát yêu cầu bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, kết hợp với yêu cầu bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, giữ vững môi trường quốc tế thuận lợi để xây dựng và phát triển đất nước.


Trong các chủ trương, bước đi, chúng ta đã luôn có được sự đồng thuận, ủng hộ của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân.


Những kết quả đó có được là nhờ sự lãnh đạo chặt chẽ, thường xuyên của Trung ương Đảng, trực tiếp là Bộ Chính trị, Ban Bí thư; sự điều hành chủ động, linh hoạt của Nhà nước, sự vào cuộc và sự triển khai tích cực của tất cả các cấp, các địa phương, các ngành, nhất là ngành ngoại giao. Các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước dành nhiều thời gian, công sức và nguồn lực cho công tác đối ngoại.


Đặc biệt, những kết quả đó có sự đóng góp rất quan trọng của đội ngũ cán bộ đối ngoại nói chung và cán bộ ngoại giao nói riêng, với tâm huyết, trách nhiệm và trình độ chuyên môn cao, luôn tuyệt đối trung thành với Đảng, với chế độ, luôn đặt lên hàng đầu lợi ích quốc gia - dân tộc, luôn cháy bỏng khát khao cống hiến và phục vụ.


 Nhân dịp này, thay mặt lãnh đạo Đảng và Nhà nước, tôi nhiệt liệt biểu dương, chúc mừng và cảm ơn những đóng góp to lớn, rất có ý nghĩa đó của đội ngũ cán bộ làm công tác đối ngoại nói chung, của ngành ngoại giao nói riêng.


Tuy nhiên, chúng ta tuyệt nhiên không tự mãn với kết quả đã đạt được. Bởi vì trước mắt còn rất nhiều việc phải làm.


Tôi đề nghị các đồng chí kiểm điểm thật kỹ, rút kinh nghiệm từ những thành tựu kể trên để xem chúng ta đáng lẽ có thể đạt kết quả nhiều hơn không, tốt hơn không, có bỏ lỡ hoặc không tận dụng triệt để cơ hội nào không?


Trong quan hệ với các nước đối tác quan trọng, nhất là các nước lớn, có những "điểm nghẽn" nào cần tháo gỡ hoặc khâu "đột phá" nào cần mở ra?


Các khuôn khổ quan hệ đã ký kết có tạo được hiệu quả tương xứng với tên gọi hay còn mang nặng tính hình thức? Có giúp xử lý một cách hiệu quả các vấn đề phát sinh, tăng cường xây dựng lòng tin không?


Đồng thời, cũng cần đánh giá kỹ những hạn chế trong công tác đối ngoại thời gian qua để chủ động khắc phục.


Ví dụ như, công tác nghiên cứu chiến lược, dự báo tình hình tuy ngày càng được chú trọng và nâng cao, nhưng đã được như mong muốn chưa; trong một số tình huống đã thật sự chủ động chưa, có bị động, bất ngờ không?


Ta đã quan sát, phân tích, dự báo được sự biến động về địa chiến lược toàn cầu, khu vực liên quan trực tiếp đến môi trường an ninh của ta hay chưa?


Trong nhận thức và chỉ đạo thực tiễn ta đã theo kịp những chuyển biến mau lẹ, phức tạp của tình hình, nhất là sự điều chỉnh chiến lược và quan hệ của các nước lớn hay chưa?


Phải chăng sự phối hợp, kết hợp giữa các ngành, các địa phương còn có lúc thiếu chặt chẽ? Công tác đào tạo, bố trí và sử dụng cán bộ làm công tác đối ngoại có lúc, có nơi chưa hợp lý?...


Nhận định của Đại hội XII là "tình hình thế giới thay đổi nhanh chóng, diễn biến rất phức tạp, khó lường" đến nay vẫn giữ nguyên giá trị.


Chính vì thế, chúng ta cần thường xuyên theo dõi sát các diễn biến và dự báo đúng chiều hướng phát triển của tình hình bên ngoài và nhất là đánh giá thật kỹ các tác động đến Việt Nam, để không bị động, bất ngờ và có đối sách đúng. Phải chăng chúng ta đang đứng trước một số tình huống như:


- Môi trường đối ngoại trong những năm tới sẽ còn phức tạp, khó lường.


Các đối tác lớn của ta đang trong quá trình điều chỉnh chiến lược, bối cảnh thế giới thường xuyên biến động, môi trường chính trị, an ninh, kinh tế khu vực và thế giới đang trở nên bất ổn với các tác động nhanh, mạnh và bất ngờ hơn.


Cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn sẽ quyết liệt, chính trị cường quyền quay trở lại mạnh hơn, nhất là trong khu vực. Việc thực hiện nhiệm vụ bao trùm là giữ vững môi trường hoà bình, ổn định do đó sẽ gặp nhiều thách thức.


- Nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, lợi ích quốc gia trên biển sẽ đứng trước một số thách thức mới.


Đó là do sự biến động phức tạp của tình hình, sự thay đổi so sánh lực lượng, sự tính toán của các nước có liên quan, sự nổi lên của chủ nghĩa đơn phương, thiếu tôn trọng luật pháp quốc tế.


Các cơ chế kiểm soát bất đồng, khủng hoảng trong khu vực chưa phát huy hiệu lực, hiệu quả; các thể chế đa phương khó đạt được lập trường chung đủ mạnh. Tình hình trên thực địa tiếp tục phức tạp, nguy cơ va chạm, đụng độ chưa được đẩy lùi.


- Kinh tế đối ngoại có thể sẽ gặp những thách thức mới. Chủ nghĩa bảo hộ đang gia tăng ở các thị trường xuất khẩu lớn của ta. Chiến tranh thương mại giữa các nước lớn đang hiện hữu. Vai trò của các thể chế đa phương lớn như WTO, APEC đang bị đe doạ. Sự phát triển của khoa học, công nghệ cũng đang đặt ra những vấn đề mới đối với thương mại và đầu tư nước ngoài.


- Công tác đối ngoại đa phương cũng sẽ gặp thách thức hơn. Hiện nay, vai trò của các thể chế đa phương đang có xu hướng giảm đi trước lối hành xử chính trị cường quyền coi trọng song phương.


Trong khi đó, một số cơ chế đa phương mới lại có xu hướng phục vụ cạnh tranh nước lớn. Ở trong khu vực, ASEAN vẫn còn nhiều khó khăn trong việc củng cố vai trò trung tâm.


Bên cạnh những khó khăn, thách thức, phải chăng chúng ta cũng có nhiều thời cơ, thuận lợi. Đó là:


- Các xu hướng lớn trong cục diện thế giới vẫn cơ bản có lợi cho ta. Dư địa để Việt Nam đẩy mạnh công tác đối ngoại nói chung và quan hệ với các nước quan trọng nói riêng đang tăng lên.


Do đó, tuy tình hình thế giới phức tạp và biến động khó lường nhưng không vì thế mà giảm chủ trương hội nhập quốc tế và đẩy mạnh công tác đối ngoại vì đây là chủ trương nhất quán, đúng đắn của chúng ta, và đã được kiểm nghiệm trên thực tế.


- Sau hơn 30 năm đổi mới, chưa bao giờ đất nước ta có được thế và lực như hiện nay trên tất cả các mặt, từ kinh tế, chính trị đến quốc phòng, an ninh, đối ngoại, khoa học - kỹ thuật.


Đây là nền tảng căn bản, là chỗ dựa vững chắc cho công tác ngoại giao của ta trước một thế giới đầy biến động.


- Chúng ta còn có những thế mạnh mà nhiều quốc gia khác không dễ gì có được, đó là lòng yêu chuộng hoà bình, chính nghĩa, nền văn hoá đậm đà bản sắc dân tộc, tinh thần hoà hiếu và trách nhiệm trong quan hệ quốc tế.


 Các nước, nhất là các nước trong khu vực, đang tin vào Việt Nam có vai trò lớn hơn trong các diễn đàn khu vực và quốc tế, trong giải quyết các vấn đề lớn của khu vực và cả vấn đề mang tính toàn cầu.


- Chúng ta có sự đồng thuận trong toàn Đảng, toàn dân và toàn quân, và với cơ chế thống nhất quản lý công tác đối ngoại ngày càng hoàn thiện; với sự phối hợp ngày càng chặt chẽ của các bộ, ban, ngành, địa phương với ngành Ngoại giao để triển khai các mặt công tác đối ngoại, hình thành nên một mặt trận đối ngoại toàn diện và thống nhất.


Năng lực của đội ngũ cán bộ làm công tác đối ngoại ngày càng được nâng cao nhờ công tác đào tạo, bồi dưỡng có hệ thống và kinh nghiệm tích lũy được qua hơn 30 năm đổi mới, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế.


- Cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài (hơn 4,5 triệu người) ngày càng lớn mạnh, nhất là số lượng trí thức, du học sinh ngày càng đông (hiện có hơn 170.000 du học sinh Việt Nam đang học ở nước ngoài).


Người Việt Nam ở nước ngoài hội nhập ngày một tốt hơn vào đời sống chính trị - xã hội ở nước sở tại; luôn hướng về Tổ quốc, có đóng góp ngày càng quan trọng vào việc thúc đẩy quan hệ giữa Việt Nam với đất nước nơi họ sinh sống.


Với những thuận lợi và khó khăn nêu trên, để thực hiện thắng lợi mục tiêu, nhiệm vụ của công tác đối ngoại từ nay đến hết nhiệm kỳ Đại hội, tôi đề nghị các đồng chí tiếp tục bám sát Nghị quyết Đại hội XII và các nghị quyết Trung ương, chương trình hành động của Chính phủ và của Bộ Ngoại giao để tiếp tục triển khai công tác đối ngoại.


Các chủ trương, đường lối và nhiệm vụ đối ngoại lớn mà Đại hội XII thông qua vẫn là căn cứ và định hướng quan trọng để chúng ta đẩy mạnh công tác đối ngoại trong thời gian tới.


Tôi tán thành với các định hướng, nhiệm vụ và giải pháp đã nêu trong Báo cáo của lãnh đạo Bộ, chỉ xin gợi mở, nhấn mạnh thêm một số vấn đề sau đây:


Một là, phải chăng chúng ta cần tiếp tục đổi mới tư duy trong công tác đối ngoại. Những diễn biến chính trị trên thế giới thời gian qua có rất nhiều vấn đề vượt ra ngoài dự báo thông thường.


Nếu chúng ta không tiếp tục đổi mới thì không theo kịp sự phát triển của tình hình.


Vấn đề là chúng ta dám nghĩ, dám làm, có tinh thần chủ động tiến công, dám vượt ra khỏi những tư duy, những lĩnh vực quen thuộc để có suy nghĩ và hành động vượt tầm quốc gia, đạt tới tầm khu vực và quốc tế.


Chúng ta cần xây dựng vị thế và tâm thế mới của Việt Nam trong xử lý quan hệ với các nước cả song phương và đa phương.


Thế và lực của nước ta trên các tiêu chí quan trọng như kinh tế, dân số, quốc phòng và đối ngoại đã khác nhiều sau 30 năm đổi mới.


Đặc biệt, các vấn đề thuộc lợi ích cốt lõi của Việt Nam đòi hỏi chúng ta phải thể hiện tiếng nói mạnh mẽ hơn và lập trường đối ngoại tích cực hơn, trước hết ở trong khu vực.


Đồng thời, chúng ta cũng phải đẩy mạnh tư duy đổi mới, mạnh dạn đột phá, sáng tạo trong công tác, tìm ra cách làm mới, mở rộng ra các lĩnh vực mới, tìm kiếm các đối tác mới, hướng đi mới.


Đương nhiên, đổi mới phải trên cơ sở giữ vững nguyên tắc, kiên định mục tiêu và chân thành, khiêm tốn.


Tôi tán thành với chủ đề của Hội nghị Ngoại giao lần này là "Chủ động, sáng tạo và hiệu quả".


Hai là, tiếp tục quán triệt thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hợp tác và phát triển; đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, vì lợi ích quốc gia, dân tộc; vừa hợp tác, vừa đấu tranh, vận dụng đúng đắn quan điểm về đối tượng, đối tác; tăng cường hợp tác tiếp tục tạo thế đan xen lợi ích chiến lược giữa nước ta với các nước, ngăn ngừa xung đột, tránh đối đầu, bị cô lập, phụ thuộc.


Trong đó, mục tiêu bao trùm là giữ vững môi trường hoà bình, ổn định, thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, thực hiện các nhiệm vụ chiến lược về phát triển kinh tế - xã hội; đồng thời kiên quyết, kiên trì bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền và các lợi ích chính đáng của ta theo luật pháp quốc tế.


Trong việc bảo đảm môi trường hoà bình thì một trong những yêu cầu then chốt là phải luôn kiên trì, bình tĩnh, sáng suốt xử lý đúng đắn mọi vấn đề phức tạp trong đối ngoại, trong đó có vấn đề chủ quyền, lãnh thổ.


Đây là nhiệm vụ hết sức quan trọng của cả hệ thống chính trị, trong đó ngành Ngoại giao là những người đi đầu.


Trước những diễn biến của tình hình thế giới như đã nói ở trên, việc thực hiện nhiệm vụ bao trùm này sẽ có nhiều thách thức trong thời gian tới.


Để tranh thủ và tận dụng tối đa cơ hội, kiểm soát và hoá giải các thách thức, ứng phó tốt với những chuyển biến bên ngoài, chúng ta phải luôn nhớ lời dạy của Hồ Chủ tịch là "mọi việc thành công bởi chữ đồng", theo đó phải luôn đề cao xây dựng sự đoàn kết và đồng thuận trong nước.


Điểm đồng ở đây là bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc; Đảng, Nhà nước và tất cả mọi người đều phải vì dân, vì nước.


Có như thế, trong triển khai công tác đối ngoại mới có thể "kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại", thực hiện phương châm "dĩ bất biến ứng vạn biến", nhất là giữ "trái tim nóng, cái đầu lạnh" và "kiên quyết, kiên trì" để xử lý các thách thức đối ngoại.


Cố gắng tìm kiếm và tranh thủ điểm đồng về lợi ích để thúc đẩy hợp tác và phát triển trên cơ sở bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc và tôn trọng luật pháp quốc tế.


Ba là, phát huy tối đa mọi yếu tố thuận lợi của đất nước để chủ động, tích cực tham gia đóng góp, xây dựng, định hình các cơ chế đa phương, thực hiện Chỉ thị số 25 của Ban Bí thư về nâng tầm công tác đối ngoại đa phương, coi đó là một định hướng chiến lược quan trọng, trong đó có việc xây dựng Chiến lược tổng thể về đối ngoại đa phương đến năm 2030.


Theo đó, công việc trọng tâm của thời gian tới là triển khai và phát huy các kết quả quan trọng của Năm APEC Việt Nam 2017, nhất là phối hợp với các đối tác thực hiện các sáng kiến của ta đã được APEC thông qua.


Cần thể hiện vai trò xứng đáng trong quá trình xây dựng Cộng đồng ASEAN và củng cố vai trò trung tâm của ASEAN trong các cấu trúc an ninh khu vực, chuẩn bị các điều kiện để hoàn thành tốt vai trò Chủ tịch ASEAN vào năm 2020.


Tiếp tục tham gia tích cực trong khuôn khổ hoạt động của Liên Hợp Quốc, nhất là trong việc thực hiện mục tiêu phát triển bền vững và tham gia lực lượng gìn giữ hoà bình Liên Hợp Quốc. Đẩy mạnh vận động các nước ủng hộ Việt Nam ứng cử làm thành viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2020 - 2021 và hoàn thành tốt trọng trách này.


Bốn là, cần nâng cao hiệu quả các hoạt động đối ngoại, nhất là hợp tác kinh tế và hợp tác trên lĩnh vực chính trị, an ninh - quốc phòng với các nước.


Tiếp tục đưa các mối quan hệ với các đối tác mà ta đã có khuôn khổ quan hệ, trước hết là các nước láng giềng và các nước lớn, đi vào chiều sâu, ổn định, hiệu quả.


Ưu tiên duy trì ổn định và giữ đà quan hệ, tăng cường tin cậy chính trị, thúc đẩy hợp tác trên các lĩnh vực, đồng thời xử lý các khác biệt và vấn đề nảy sinh trên tinh thần hợp tác, hữu nghị, kiểm soát bất đồng, dựa trên luật pháp quốc tế và thông lệ khu vực.


Năm là, tiếp tục triển khai có hiệu quả chủ trương chủ động, tích cực hội nhập quốc tế, nhất là Nghị quyết 06 của Ban Chấp hành Trung ương về việc "Thực hiện có hiệu quả tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, giữ vững ổn định chính trị - xã hội trong bối cảnh nước ta tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới" và "Chiến lược tổng thể về hội nhập quốc tế đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030".


Thực hiện có hiệu quả các cam kết quốc tế, trọng tâm là các cam kết trong Cộng đồng Kinh tế ASEAN, CPTPP, Tổ chức Thương mại thế giới.


Nâng cao hiệu quả công tác ngoại giao kinh tế phục vụ phát triển bền vững của đất nước.


Ưu tiên tìm kiếm và mở rộng thị trường cho hàng hoá, dịch vụ và lao động Việt Nam, thu hút nguồn vốn, nhất là FDI và ODA hướng vào các lĩnh vực ưu tiên của đất nước.


Đẩy mạnh vận động các đối tác công nhận quy chế kinh tế thị trường theo lộ trình cam kết của WTO.


Tích cực cùng các nước thúc đẩy đàm phán, phê chuẩn và thực hiện các thoả thuận FTA đa phương; nghiên cứu khả năng tham gia các sáng kiến đa phương trong khu vực về kết nối kinh tế và phát triển cơ sở hạ tầng; tiến hành đàm phán các FTA song phương với các nước, nhất là với các đối tác thương mại lớn.


Sáu là, hết sức coi trọng, nâng cao hơn nữa chất lượng công tác nghiên cứu và dự báo chiến lược, tập trung đánh giá kỹ các xu hướng vận động trong chính sách và quan hệ giữa các nước lớn, các nước láng giềng, khu vực, các xu hướng chính trị, kinh tế, văn hoá - xã hội trên thế giới và khu vực, nhất là trước tác động như vũ bão của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.


Trong trung và dài hạn, phải lường trước các kịch bản về thay đổi trật tự thế giới, khu vực và phải chuẩn bị sẵn kế hoạch ứng phó.


Phải nhận thức rõ những điểm mạnh, điểm yếu của mình, định vị được mình trong tình hình mới để hoạch định chiến lược, chính sách cho phù hợp. Có thể nói, công tác nghiên cứu và dự báo chiến lược là vô cùng quan trọng để giữ được sự chủ động trong một thế giới đầy biến động phức tạp.


Trung ương Đảng mà trực tiếp là Bộ Chính trị, Ban Bí thư luôn đánh giá cao các báo cáo chiến lược của ngành Ngoại giao cũng như các cơ quan tham mưu đối ngoại.


Tuy nhiên, yêu cầu đối với công tác nghiên cứu, dự báo chiến lược trong thời gian tới là rất cao, rất nhiều thách thức, tôi mong các đồng chí quan tâm nhiều hơn nữa đến công tác này.


Bảy là, nâng cao hơn nữa hiệu quả phối hợp giữa các bộ, ban, ngành và địa phương, nhất là giữa ngoại giao với quốc phòng - an ninh trong triển khai công tác đối ngoại và hội nhập của Đảng và Nhà nước.


Trong thời kỳ hội nhập toàn diện, xu hướng toàn cầu hoá và liên kết, hợp tác là tất yếu thì sự phối hợp chặt chẽ giữa các ban, bộ, ngành có ý nghĩa rất quan trọng để thực hiện thành công nhiệm vụ chung cũng như nhiệm vụ của mỗi ngành.


Tám là, để hoàn thành được những nhiệm vụ nêu trên, phải đặc biệt chú trọng công tác xây dựng Ngành, tập trung vào hai nhiệm vụ chính là sắp xếp tổ chức bộ máy và đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ.


Về tổ chức, ngành Đối ngoại, nhất là Bộ Ngoại giao, cần tích cực thực hiện các chủ trương và cuộc vận động lớn của Đảng và Nhà nước ta, trong đó có Nghị quyết Trung ương 4 khoá XII về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hoá" trong nội bộ.


Tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, sắp xếp tổ chức bộ máy của Bộ Ngoại giao, từ các cơ quan đại diện của ta ở nước ngoài đến các đơn vị trong nước, hướng tới tổ chức tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả và tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý theo Nghị quyết Trung ương 6 khoá XII. Tổ chức, sắp xếp Đảng bộ Ngoài nước và các tổ chức Đảng bộ Bộ Ngoại giao một cách hợp lý, khoa học.


Về công tác cán bộ, tôi xin nhắc lại bài học Đảng ta đã rút ra, đó là "cán bộ là cái gốc của mọi công việc".


Chúng ta đang ở trong thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế sâu rộng.


Công tác cán bộ cũng phải đáp ứng yêu cầu này. Trong suốt chiều dài của cách mạng, Đảng ta luôn rất coi trọng công tác cán bộ của ngành ngoại giao.


Trong những năm tháng khó khăn, gian khổ nhất của cách mạng, chúng ta luôn có những nhà ngoại giao xuất sắc, những con người đã trở thành tấm gương của mọi thế hệ về lòng yêu nước, về tinh thần tự học hỏi, về bản lĩnh chính trị, về phong cách và nghệ thuật ngoại giao.


Có thể nói, đó là những nhà ngoại giao, những chính khách được bạn bè quốc tế ghi nhận.


Thế hệ cán bộ ngoại giao hôm nay được thừa hưởng những truyền thống, kinh nghiệm vô cùng quý báu mà các thế hệ trước để lại; được tạo điều kiện thuận lợi về đào tạo và công tác.


Mặt bằng chung về học vấn của cán bộ ngành ngoại giao là rất cao so với các ngành khác. Tôi được biết trong Bộ Ngoại giao hiện nay có nhiều đồng chí có năng lực, được đồng nghiệp và bạn bè quốc tế đánh giá cao.


Tuy nhiên, trước đòi hỏi của tình hình nhiệm vụ, chúng ta cần tiếp tục coi trọng hơn nữa công tác đào tạo cán bộ ngoại giao, cả về trình độ, năng lực lẫn bản lĩnh chính trị, đặc biệt là bản lĩnh chính trị.


Các đồng chí phải không ngừng rèn luyện vững vàng về chính trị, luôn trung thành tuyệt đối với lý tưởng của Đảng, với lợi ích của dân tộc, tỉnh táo trước sự tác động của các thế lực thù địch, chủ động tích cực phòng ngừa không để "tự diễn biến", "tự chuyển hoá", vướng vào tham nhũng, tiêu cực.


Càng hội nhập sâu với thế giới, chúng ta càng cần có các nhà ngoại giao có bản lĩnh chính trị; đủ trình độ, uy tín, phong cách để sánh vai với các nước, bạn bè quốc tế; toàn tâm, toàn ý vì sự nghiệp.


Một nhà ngoại giao giỏi trước hết phải là một nhà chính trị giỏi, luôn lấy lợi ích của quốc gia, của chế độ làm kim chỉ nam trong hành động.


Nhà ngoại giao luôn ghi nhớ rằng, phía sau mình là Đảng, là đất nước, là nhân dân. Phải tự tin, vững vàng, kiên định và khôn khéo.


Tôi tin tưởng rằng, trong thời gian tới, dù phải đối mặt với không ít khó khăn, thách thức, các thế hệ cán bộ đối ngoại vẫn tiếp tục thể hiện được trí tuệ, bản lĩnh, đạo đức và cốt cách của nền ngoại giao thời đại Hồ Chí Minh và kế tiếp được truyền thống đối ngoại quật cường nhưng hoà hiếu của dân tộc Việt Nam, tiếp tục giành được sự tin tưởng, ủng hộ, và theo đó là sự quan tâm thích đáng của Đảng và Nhà nước, cũng như sự kỳ vọng của nhân dân.


Theo baochinhphu.vn
31 Tháng Bảy 2018(Xem: 7130)
16 Tháng Mười Một 2017(Xem: 4762)