VĂN HÓA ONLINE - CHỦ ĐỀ VỊNH THÁI LAN-REAM-PHÙ NAM - THỨ NĂM 09 MAY 2024
Kênh đào Funan và những "mảng tối" chưa rõ!
RFA 07/5/2024
Hai tuyến đường thủy từ Phnom Penh ra biển Đông: tuyến bên trái đi qua kênh đào Funan, tuyến bên phải đi qua sông Tiền. (Ảnh chụp từ Google Map, RFA vẽ minh họa). Google Map/ RFA
Ông Sokvy Rim, nhà nghiên cứu độc lập ở Campuchia, viết trên tạp chí Think China rằng hiện nay, Campuchia phụ thuộc vào tuyến đường thủy đi qua ĐBSCL của Việt Nam (ngả sông Tiền) để xuất khẩu hàng hóa đi Mỹ và nhập khẩu nguyên liệu sản xuất từ Trung Quốc. Khi kênh đào Funan đi vào hoạt động, Campuchia sẽ không còn lệ thuộc vào tuyến đường thủy đi qua Việt Nam nữa.
Thủ tướng Campuchia Hun Manet cũng khẳng định mục tiêu này khi nói kênh đào Funan sẽ giúp Campuchia “tự thở bằng mũi của chính mình” (“breathing through our own nose.”)
Tuy nhiên nhiều chuyên gia không có cái nhìn lạc quan như vậy về tiềm năng kinh tế của kênh đào Funan đối với Campuchia.
Quãng đường qua kênh Funan dài gấp đôi quãng đường qua sông Tiền
Trao đối với RFA, Kỹ sư Phạm Phan Long, Chủ tịch Viet Ecology, một tổ chức phi chính phủ ở California, Hoa Kỳ, nghiên cứu về môi trường và các vấn đề sông Mekong, cho rằng Campuchia cần đánh giá cẩn trọng tác động môi trường, xã hội, kinh tế cho chính đất nước mình trước. Theo ông tác động môi trường, xã hội của dự án này tới chính Campuchia là không hề nhỏ.
Theo Kỹ sư Phạm Phan Long, hơn hai phần ba hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu của Campuchia là đi và đến các nước ở Đông Bắc Á (Trung Quốc, Đài Loan, Nhật Bản, Hàn Quốc) và Bắc Mỹ (Canada, Hoa Kỳ).
Do đó, con đường đi qua sông Tiền ở ĐBSCL của Việt Nam sẽ ngắn hơn là đi qua kênh đào Funan. Nếu đi qua kênh đào Funan, tàu vận tải sẽ phải theo kênh này đi ra cảng Kep, vòng qua Mũi Cà Mau để ra Biển Đông, rồi từ đó đi ngược lên các nước Đông Bắc Á và Bắc Mỹ. Ông nói tiếp:
“Để đi từ Phnom Penh ra đến Biển Đông, nếu tàu đi qua kênh đào Funan thay vì qua sông Tiền ở ĐBSCL thì họ sẽ phải đi gấp đôi quãng đường, do phải đi đường vòng, chưa kể phải trả phí khi đi qua âu tàu của con kênh.
Hai phần ba số mậu dịch của Campuchia là đi qua Việt Nam, Mỹ, Nhật Bản, Nam Hàn, Đài Loan. Cho nên tàu hàng không có lý do gì phải đi đường vòng qua kênh đào Funan.
Thực tế, nếu để cho thị trường tự do hoạt động thì kênh đào Funan chỉ phục vụ được một phần ba lưu lượng hàng hóa mậu dịch của Campuchia.
Do đó thời gian mà Trung Quốc phải bỏ ra để thu hồi vốn từ khoản đầu tư 1,7 tỷ (RFA chú thích: Hunsen tuyên bố dự án được thực hiện bằng phương thức BOT, tức “xây dựng, vận hành, chuyển giao”) sẽ còn lâu hơn nữa.
Nếu hoàn toàn sử dụng kênh đào Funan mà không dùng sông Tiền của Việt Nam miễn phí, thương thuyền sẽ phải trả chi phí cho BOT để họ hoàn vốn và vận hành. Đó là những điều họ không nói cho dân của họ nghe.
Hãy lấy ví dụ tàu của Mỹ đến Campuchia mua hàng hóa. Tại sao họ phải đi đường vòng từ Biển Đông qua Shinanoukville, tỉnh Kep, rồi vào kênh đào Funan để lên Phnom Penh, trong khi đi từ sông Tiền vào Phnom Penh sẽ chỉ mất một phần ba quãng đường? Không có lý do gì phải đi xa như vậy.
Nếu để cho thị trường vận tải hoạt động tự do thì kênh đào Funan không có tính khả thi kinh tế, không phải tối ưu nhất. Tối ưu nhất là con đường thủy đi qua Tiền giang của Việt Nam."
Mục tiêu chiến lược của kênh đào Funan
Việt Nam và Campuchia đã ký “Hiệp định Vận tải thủy” năm 2010. Theo số liệu từ Bộ Giao thông vận tải Việt Nam công bố năm 2020, trong 10 năm 2010 - 2020, “hai nước đã làm thủ tục cho gần 73 nghìn lượt phương tiện, hơn 397 nghìn lượt thuyền viên, hàng chục triệu tấn hàng hóa và gần 1,3 triệu lượt hành khách.”
Ngoài ra, tuyến vận tải thuỷ Việt Nam- Campuchia qua sông Tiền còn đóng vai trò kết nối, gom hàng cho các tàu đến cảng TP. Hồ Chí Minh và đặc biệt là cụm cảng biển nước sâu Cái Mép-Thị Vải, với đà tăng trưởng từ 15-20% hàng năm, năm 2019 là gần năm triệu tấn.”
TS. Lê Anh Tuấn ở Đại học Cần Thơ cho rằng nếu Campuchia không còn dùng sông Tiền nữa mà dùng kênh đào Funan thì những con số mà Bộ Giao thông Vận tải nêu ra sẽ thay đổi trong tương lai.
Tuy nhiên, tương tự như KS. Phạm Phan Long, TS. Lê Anh Tuấn cũng cho rằng cần phải xét lại khả năng nói trên, vì tàu đi từ Phnom Penh qua cảng Kep thì mới chỉ “chạm vào biển chứ không phải là đích đến.” Ông cũng dẫn số liệu từ OEC, chỉ ra là đối tác thương mại lớn nhất của Campuchia năm 2022 là Mỹ (13,03 tỷ USD, tương đương 36,3%) và Việt Nam (3,55 tỷ USD, tương đương 10,2%). Để đi đến các thị trường xuất khẩu, nhập khẩu chủ yếu của Campuchia, con đường vận tải tối ưu cho tàu thuyền vẫn là đi qua sông Tiền của ĐBSCL.
David Hutt cũng viết trên RFA rằng kênh đào Funan chỉ có thể cho tàu có tải trọng 1.000 tấn đi qua. Những con tàu lớn hơn 1.000 tấn vẫn phải đi qua sông Tiền để ra biển. Theo David Hutt, Campuchia vẫn có thể giải quyết vấn đề này bằng cách sử dụng các tàu nhỏ hơn. Điều đó sẽ làm tăng chi phí, giảm lợi nhuận, nhưng “vẫn có thể thực hiện được.” Tuy nhiên, Kỹ sư Phạm Phan Long chỉ ra là nếu vận hành theo nguyên tắc thị trường tự do, không hãng vận tải nào lại chọn con đường đi xa hơn với tàu nhỏ hơn, công suất kém hơn.
David Hutt cũng chỉ ra là chỉ riêng trong quý I năm 2024, Việt Nam đã mua 22% hàng hóa của Campuchia. Không có quốc gia nào khác đang chờ sẵn để thay thế Việt Nam mua 1/5 sản phẩm của Campuchia như vậy. Do đó, theo David Hutt, kênh đào Funan không giúp cho Campuchia thoát khỏi tuyến đường sông đi qua Việt Nam ra biển.
Trao đổi với RFA, Kỹ sư Phạm Phan Long đặt ra câu hỏi nếu kênh đào Funan không thay thế được tuyến đường sông Tiền ra biển, vậy Campuchia còn có thể có mục đích nào khác khi xây kênh đào này. Ông phán đoán:
“Nếu kinh tế không phải là lý do để xây dựng kênh đào Funan thì chắc hẳn phải có lý do khác. Không loại trừ khả năng họ xây dựng kênh đào để chuẩn bị cho tình huống xung đột nếu nó xảy ra. Họ bảo vệ đường rút của họ trước, để nếu có xung đột xảy ra, sông Tiền bị khóa thì họ còn một đường thủy khác. Kênh đào Funan do đó có mục đích chiến lược chứ không phải mục đích kinh tế.
Cho nên tôi nghĩ là Việt Nam mình muốn giải quyết vấn đề kênh đào Funan một cách hòa bình, thân thiện. Việt Nam mình nên xây dựng một hiệp ước để cho hai nước thông thương với nhau chặt chẽ hơn, tốt hơn cho Campuchia. Để cho Campuchia không còn cần thiết phải làm kênh đào này hoặc làm thì sẽ làm khôn ngoan hơn, chứ không nhất thiết cứ phải làm cho bằng được như vậy.”
Ý kiến trái chiều: kênh đào Funan sẽ không tác động xấu đến ĐBSCL
Hôm 25/4/2024, trên báo Nông nghiệp, TS. Tô Văn Trường, nguyên Viện trưởng Viện Quy hoạch Thủy lợi Miền Nam, Việt Nam, đã trích dẫn con số do Campuchia đưa ra là lưu lượng nước đi vào kênh Funan chỉ là 3,6m3 một giây. So sánh với “tiềm năng nguồn nước sông Mekong về đồng bằng qua Tân Châu và Châu Đốc là 12.450 m³/s”, ông cho rằng “tác động của dự án đến ĐBSCL của Việt Nam là không đáng kể.”
Một số chuyên gia cho rằng nếu chiều rộng kênh là 50 mét và chiều sâu là 4,7 mét thì lưu lượng 3,6m3/s qua kênh “có vẻ hơi thấp.” Trao đổi với RFA về những số liệu này, Kỹ sư Phạm Phan Long nói ông không có phương tiện để kiểm chứng những con số đó nên cũng không có lý do để nghi ngờ.
Theo Kỹ sư Phạm Phan Long, có thể Campuchia dùng con số đó để chỉ lượng nước cần cho chảy vào âu thuyền để nâng mực nước lên, giúp cho thuyền có thể chạy ở mức nước cao hơn. Đó là lượng nước âu thuyền cần có để cho tàu chạy qua. Theo ông, con số này không tính đến lượng nước được dùng cho tưới tiêu và thủy sản. Ông nói:
“Chúng ta cần tính thêm lượng nước dùng cho tưới tiêu và thủy sản. Cũng có chuyên gia khi tính thêm lượng nước đó thì đưa ra con số là có thể kênh đào sẽ lấy đi khoảng 30% đến 50% lượng nước về ĐBSCL. Cách tính này hơi “bảo thủ”. Tuy nhiên, cũng có chuyên gia tính toán ngược lại, là kênh đào Funan không ảnh hưởng gì lớn đến ĐBSCL. Cả hai cách tiếp cận đó đều nên được xem xét lại.
Nếu là tôi làm công việc tính toán, trước hết là tính các kịch bản xấu nhất, sau đó tính toán các kịch bản tác động từ mức thấp nhất đến xấu nhất. Làm như vậy để khi phát sinh tranh chấp, mình biết tổn thất của mình tới đâu thì mình có thể lo trước để chống đỡ. Tôi thấy mình nên tránh xu hướng “bảo thủ”, trong khi đó cũng nên tránh xu hướng ngược lại là tìm mọi cách biện hộ cho tác động môi trường của dự án và giảm nhẹ những thiệt hại có thể phát sinh.”