Hiroyuki
Noguchi (Chuyên gia Nhật):
Lê Trí: Theo Hiroyuki Noguchi với địa thế hiểm yếu và độc đáo đặc biệt trên “bàn cờ” toàn khu vực Đông Nam Á, vịnh Cam Ranh của Việt Nam có thể là “thanh kiếm sắc” chặn đứng mưu đồ “thò” ra Biển Đông của “đường lưỡi bò” do Trung Quốc tự vẽ.
Trong
bài viết mới đây trên nhật báo “Sankei Express” của Nhật Bản, chuyên gia bình
luận chính trị Hiroyuki Noguchi đã thẳng thắn vạch ra âm mưu đen tối của Bắc
Kinh khi đơn phương vẽ ra cái gọi là “đường chín đoạn” (đường lưỡi bò) bao trùm
tới 80% diện tích Biển Đông, bao gồm cả 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của
Việt Nam, để tuyên bố chủ quyền lãnh hải của họ.
Hiroyuki
Noguchi viết, “Đáng chú ý là nếu dùng một cái que xiên lưỡi bò này từ Đông sang
Tây, chúng ta có thể dễ dàng nhận ra Trung Quốc đang có ý đồ nhòm ngó hai quân
cảng quan trọng là Cam Ranh của Việt Nam và Subic của Philippines”.
Năm
2012, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Leon Panetta đã nhấn mạnh đến mối quan hệ tốt đẹp
Việt-Mỹ trước các tướng lĩnh trên tàu hậu cần của Hải quân Mỹ khi đó đang neo
đậu tại vịnh Cam Ranh. Năm 2012, Việt Nam cũng cho biết sẽ chấp nhận để tàu
chiến Nga neo đậu ở Cam Ranh.Trong bối cảnh đó, Việt Nam tuyên bố chính thức mở
cửa cảng Cam Ranh cho các tàu quân sự như tàu sân bay và tàu ngầm nước ngoài
neo đậu. Một khi cả Nga và Mỹ đều sửa chữa và tiếp vận ở vịnh Cam Ranh thì hiệu
quả kiềm chế Trung Quốc là rất lớn.
Theo
“gợi ý” của ông Hiroyuki Noguchi, nếu kết hợp với vịnh Subic của Philippines,
Cam Ranh sẽ tạo thành 2 cánh kéo sắc có thể khống chế sự bành trướng của đường
lưỡi bò. Năm 2010, Việt
Toàn cảnh vịnh
Cảng
“Tiếng nói tự do của người dân Việt
Hội Luận ngày 19/1/2014 từ 12 giờ trưa đến 3 giờ 15
(edited)
PHẦN I.
Linh Mục Phạm Sơn Hà ở Đức giới thiệu
Kính chào Quí vị và các anh chị trên Diễn Đàn.
Hiện nay ở trong nước, từ trí thức đến thường dân gồm cả truyền thông của Đảng đang nêu ra một cách sôi nổi là trận chiến Hoàng Sa ngày 19 tháng 1 năm 1974 của Hải quân VNCH chống trả lại hải quân Trung cộng tiến chiếm Hoàng Sa. Trung cộng tung ra một hạm đội hùng hậu gồm 11 tàu chiến và khoảng 30 tầu, thuyền hỗ trợ trong cuộc xâm lăng quần đảo. Hải quân VNCH chỉ có 4 chiến hạm được điều động tới bảo vệ.
Trong cuốn Hồ Sơ Hoàng Sa Trường Sa và Chủ Quyên Dân Tộc, in lần 3 , tháng 4 năm 2010, trang 69, Giáo sư Nguyễn văn Canh viết “Ngay trong những phút giao chiến đầu tiên, lực lượng hải quân VNCH đã bắn chìm soái hạm 274 của TC . Toàn thể Bộ Chỉ Huy Chiến Dịch dưới quyền điều động của Đô Đốc Phương quang Kính, tư lệnh phó Hạm Đội Nam Hải, kiêm Tư Lệnh Mặt Trận, cùng với 4 Đại tá, 6 Trung tá trong số này có 4 hạm trưởng, 2 thiếu tá, 7 sỹ quan cấp uý và một số thuyền viên trên tàu tử trận. Hộ tống hạm 271 của TC, và 2 trục lôi hạm 389 và 396 bị hư hại nặng về sau bị phế thải, 4 ngư thuyền bị đánh chìm…”
Phía VN 74 anh hùng Hải quân VNCH bị tử thương trong đó có Hạm Trưởng, chiến hạm Nhật Tảo, HQ 10, Thiếu tá Nguỵ văn Thà và Hạm phó Đại uý Nguyễn thành Trí. 42 người bị bắt làm tù binh. Chiếc HQ 10 bị trúng đạn, rút ra ngoài vòng chiến, rồi bị chìm. Hạm trưởng Nguỵ văn Thà quyết định từ chối xuống thuyền bỏ chạy dù bị thương và đã chết theo tàu...
Gương hi sinh anh dũng cũa chiến sĩ Hải quân Việt nam Cộng Hoà trong sứ mệnh bảo vệ sự vẹn toàn lãnh thổ phải được đề cao và ghi nhận đời đời trong lòng dân tộc. Liệu có ai không hãnh diện về các hi sinh cao quí của các anh hùng Nguỵ văn Thà, Nguyễn thành Trí và 72 chiến sĩ hải quân VNCH ấy? Chỉ có lãnh đạo Việt cộng từ đó đến nay hoặc ngấm ngầm ngăn cản làn sóng ghi ơn này của con dân nước Việt , hoặc giữ thái độ im lặng để được an toàn với quan Thày Trung Cộng. Lòng can trường và quyết chí hi sinh mạng sống của các tử sĩ VNCH nói trên quả là tấm gương sáng cho mọi người. Điều này trái ngược hẳn với thái độ và hành vi ươn hèn, và còn nối giáo cho giặc ngoại xâm của các lãnh đạo Đảng Cộng Sản Việt nam, và của cái gọi là Quân Đội Giải Phóng Nhân Dân của Hồ chí Minh. Ngay cả đến suốt thời gian TC xua quân xâm lăng, Cộng Sản Bắc Việt cũng giữ thái độ im lặng. Một điều nực cười là trong suốt thời giam cuộc chiến xảy ra, một quan thày khác của Đảng Cộng Sản Việt nam là Liên Bang Sô Viết đã cho Đài phát thanh Mạc Tư Khoa lên án cuộc xâm lăng ấy. Và tập đoàn lãnh đạo đàn em của Hồ không nắm bắt lấy cơ hội nhờ lãnh đạo Liên Bang Sô Viết giúp đỡ để bảo vệ lãnh thổ.
Hôm nay, 19 tháng 1 năm 2014 là ngày kỷ niệm 40 năm ngày Hoàng Sa mất vào tay Trung Cộng, sau một cuộc chiến đấu anh dũng ấy của Hải quân VNCH. Để vinh danh các chiến sỹ anh hùng, đã xả thân bảo vệ sự vẹn toàn lãnh thổ mà ông cha chúng ta đã đổ bao xương máu bảo vệ và để lại giải sang sơn gấm vóc này cho đến ngày nay.
Vì đã có nhiều đoàn thể nói lại về trận chiến oai hùng này, nên chúng tôi đề nghị sẽ nói tới một số vấn đề khác nhưng có liên hệ, góp phần cắt nghĩa tấm gương sáng của các chiến sĩ ấy để nói lên ý nghĩa đích thực của sự hi sinh này. Đó là:
Chủ đề I: Vài vấn đề liên quan đến Biển Đông trong đó có Hoàng Sa
Trường Sa; Đó là Công Hàm Phạn văn Đồng với Tình trạng Biển Đông hiện
nay.
Chủ đề II: Dự tính của Hoa Kỳ là gì giúp ngăn chặn các âm mưu bành trướng của Trung Cộng hiện nay.. Đó là Hoa Kỳ và An Ninh Á Châu.
Hôm nay, Diễn Đàn một lẫn nữa hân hoan chào đón GS Nguyễn văn Canh trong buổi Hội Luận này.Chúng tôi có vài lời giới thiệu về GS Nguyễn văn Canh.
Cho đến năm 1975, GS Canh là Giaó sư Ban Công Pháp, Đại Học Luật Khoa, Sàigon. Ông cũng là thuyết trình viên các trường Cao Đẳng Quốc Phòng, và trường Chỉ Huy và Tham Mưu Quân Lực Việt nam Cộng Hoà. Tại Hoa Kỳ, Giáo sư nguyên là Học giả Viện Nghiên Cứu Hoover về Chiến Tranh, Cách Mạng và Hoà Bình, Đại Học Stanford, tiểu bang California và nay là Chủ Tịch Uỷ Ban Bảo Vệ Sự Vẹn Toàn Lãnh Thổ .Trước khi đi vào nội dung buổi thảo luận, xin Giáo sư nói qua về Uỷ Ban Bảo Vệ Sự Vẹn Toàn Lãnh Thổ mà Giáo sư là Chủ Tịch. Cách đây 3 năm, vào dịp tháng 1, Giáo sư phát động ngày Hoàng Sa Toàn Cầu để vinh danh các chiến sĩ Hải Quân Việt nam Cộng Hoà nhân dịp Hoàng Sa mất vào tay Trung Cộng . Tại Đức, chúng tôi hưởng ứng lời kêu gọi của Giáo sư, và nhân dịp tôi có hân hạnh được biết Giáo sư. Tôi rất khâm phục về kiến thức của Giáo sư và thấy Uỷ Ban Bảo Vệ Sự Vẹn Toàn Lãnh Thổ có một vai trò rất lớn và đã có đóng góp quan trọng cho dân tộc.
Trước khi đi vào đề tài, chúng tôi yêu cầu Giáo sư nói qua về Uỷ Ban Bảo Vệ Sự Vẹn Toàn Lãnh Thỏ.GS Nguyễn văn Canh:
Vào khoảng tháng 4 năm 1994, Cố Giáo sư Nguyễn khắc Kham ở San Jose, CA điện thoại cho tôi, nói rằng “ tôi có một bài báo viết nằng tiến Tàu, nói về một Hội nghị tại Đài Loan, trong đó có 10 học giả từ Hoa Lục sang và khoảng 100 học giả địa phương. Họ họp 2 ngày và cuối cùng họ lên tiếng tuyên bố Hoàng Sa và Trường Sa là của Hoa Lục. Họ kêu gọi Hoa Kiều trên khắp thế giới giúp đỡ họ tìm kiếm bằng chứng để chứng minh chủ quyền của người Tàu trên vùng này.” Giáo sư Kham nói thêm rằng “ lúc nào rảnh Giáo sư xuống gặp tôi về việc này”Cố Giáo sư Kham là thầy tôi. Vì vậy, tôi ghé thăm Giáo sư để xem Giáo sư nói gì. Giáo sư Kham nói “ Chính quyền Cộng sản Việt nam là kẻ bán đất, nên họ lặng yên. Trí thức trong nước phải có một thái độ về việc này. Họ cũng im luôn. Bọn Tàu, Quốc Cộng Trung Hoa chúng chống nhau, nhưng chúng lại hợp tác với nhau về vấn đề này. Ở hải ngoại. Mình không thể ngồi yên.” Giáo sư nói rằng tôi phải lên tiếng về việc này. Tôi đề nghị Giáo sư Kham lãnh đạo và tôi sẽ theo. Giáo sư Kham nói rằng người phải làm là tôi.Theo khuyến áo của GS Kham,, tôi triệu tập khoảng 30 trí thức đến họp vào ngày 22 tháng 6 năm 1994 tại một phòng họp thuộc Viện Nghiên Cứu Hoover Về Chiến Tranh Cách Mạng và Hoà Bình tại Đại Học Stanford, nơi tôi làm việc.
Nhóm này được mệnh danh là Nhóm trí Thức Hải Ngoai lên tiếng phản bác Tuyên Cáo của các học giả người Tàu vê chủ quyền trên Hoàng Sa và Trường Sa, xác nhận chủ quyền của Việt nam về phương diện lích sử và pháp lý. Ít lâu sau, thỉnh thoảng tôi được tin qua báo chí Tàu cho biết có một học giả nọ tìm thấy một mảnh bát ở trên một đảo của Trường Sa, rồi một học giả kháthấy một mảnh lọ vỡ năm trên một đảo khác. Vì thế tôi nghĩa tới có một tổ chức thường trực để đối phó với bấn đề này. Do đó một năm sau, Uỷ Ban Bảo Vệ Sự Vẹn Toàn Lãnh Thổ ra đời. Uỷ Ban này gốm GS Vũ quốc Thúc, GS Nguyễn cao Hách, LS Vũ ngoc Tuyên, LS Võ văn Quan và tôi.
Một cánh tay đắc lực của Uỷ Ban là Center For Vietnam Studies, được lập từ 1987 để tiếp sức cho tôi làm việc nghiên cứu, tồn trữ rài liệu, nay được giao thêm nhiệm vụ về Hoàng Sa- Trường Sa ( hay Biển Đông). Đến năm 2007, khi Trung cộng lập huyện Tam Sa để quản trị 2 quấn đảo này của Việt nam, Uỷ Ban Lãnh Thổ lấp thêm Uỷ Ban Hoàng Sa.
Mục đích của Uỷ Ban Lãnh Thổ là sưu tầm, đánh giá, phân tích, tổng hợp, giải đoán các tài liệu liên hệ, phổ biến và lưu trữ tại nhiều nơi, nhất là một số Trung Tâm Nghiên Cứu để cho bất cứ ai cần có thể sử dụng trong hiện tại, kể cả trong tương lai xa, như 100 năm tới. Về phổ biến, Uỷ Ban cung cấp tài liệu cho các giới chức trong chính quyển Hoa Kỳ để họ biết ( thường viết bằng Anh Ngữ). Uỷ Ban có 8 đường giấy chuyển tin bằng các phương tiên khác nhau, kể cả điện tử vào trong nước. Uỷ Ban biết rằng nhiều nơi nhận được an toàn. Các giới trong nước cần được thông tin đầy đủ, được cung cấp các bản nghiên cứu đứng đắn, như thế việc đâu tranh hữu hiệu hơn.
-Đã phổ biến 2 cuốn 1) Hồ Sơ Hoàng Sa Trường Sa và Chủ Quyền Dân Tộc, 2) Chủ Quyền Lãnh Thổ và Bành Trướng Bắc Kinh. Có hơn 30 bản đồ, và phần lớn là cổ, vẽ từ thế kỷ thứ 16, chứng minh chủ quyền Việt nam trên vùng biển này, với hơn 100 bức hình chụp cơ sở quân sự , đồ sộ được xây cất trên quần đảo Hoàng Sa và độ 40 hình chụp các căn cứ quân sự kiên cố xây trên các bãi đá ngầm, mọc sừng sững trên biển, trong số 16 đảo trong vùng quần đảo Trường Sa mà TC chiếm đoạt từ 1988.
-Cũng đã phổ biến cuốn Bạch Thư về Âm Mưu Bành Trướng của Bắc Kinh với sự Đồng Loã của Đảng Cộng Sản VN. Một bản tài liệu nghiên cứu liên hệ khác như bản Phản Đối Chủ Nghĩa Bá Quyền Trung Cộng có sự tiếp tay của CSVN với các Bản Đồ về bành trướng bao coi tất cả Á Châu (ngoại trừ Nhật Bản) là lãnh thổ của chúng , và bản đồ phòng thủ trên Thái Bình Dương. Các tài liệu này đã được gửi cho các nhà lãnh đạo tối cao Liên Hiệp Quốc. ….
-Từ 1994, khoảng 60 bản tiếng về các vấn đề liên hệ đến Chủ Quyền Việt Nam trên Biển Đông và trên đất liền cũng đã được công bố….
LM Sơn Hà: Tiếp theo đây, Xin Gíao sư Canh đi vầ đề tài.
GS Canh:
CHỦ ĐỀ I: CÔNG HÀM PHẠM VĂN ĐỒNG VÀ
HIỆN TRẠNG BIỂN ĐÔNG
I. CÔNG HÀM CỦA PHẠM VĂN ĐỒNG VỀ HOÀNG SA-
TRƯỜNG SA:
Bằng chứng quan trọng và duy nhất mà Trung Cộng (TC) dựa
vào đó để biện minh rằng chúng có chủ quyền là văn thư của
Phạm văn Đồng chuyển nhượng Hoàng Sa và Trường Sa cho TC.
Nó chính là nguồn gốc của mọi vấn đề tại Biển Đông hiện nay.
Biện minh này của TC được công khai nhắc đi nhắc lại để công
chúng và quốc tế hiểu. Một thí dụ điển hình trong tuần lễ bắt đầu
ngày 14 tháng 9 năm 2008, Toà Đại Sứ Trung Cộng tổ chức một
buổi lễ long trọng ngay tại Hà nội để kỷ niệm 50 năm ngày ký
công hàm ấy, nhắc nhở nhà cầm quyền Hà nội và dân chúng Việt
nam nhớ lại sự việc này.
NỘI DUNG CÔNG HÀM
Chúng ta biết rằng, với tư cách Thủ Tướng của Chính Phủ Hồ
chí Minh, Phạm văn Đồng gửi một công hàm cho
ngày 14 tháng 9 năm 1958 công nhận quyết định của Trung Cộng
mà 10 ngày trước đó TC tuyên bố về chủ quyền của chúng trên
các quần đảo này.
Trước hết, tôi nhắc lại Công hàm của Phạm văn Đồng:
Thủ Tuớng Nước Việt-Nam Dân-Chủ Cộng-Hoà
Thưa Đồng chí Tổng lý,
Chúng tôi xin trân trọng báo tin để Đồng chí Tổng lý rõ:
Chính phủ nước Việt-nam Dân Chủ Cộng Hoà ghi nhận và tán
thành bản tuyên bố, ngày 4 tháng 9 năm 1958, của Chính phủ
nước Cộng Hoà Nhân dân Trung-hoa, quyết định về hải phận
của Trung-quốc.
Chính phủ nước Việt-nam Dân Chủ Cộng Hoà tôn trọng quyết
định ấy và sẽ chỉ thị cho các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm
triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung-quốc, trong
mọi quan hệ với nước Cộng hòa Nhân dân Trung hoa trên mặt
bể.
Chúng tôi xin kính gửi Đồng chí Tổng lý lời chào rất trân
trọng./.
Ngày 14 tháng 9 năm 1958.
Văn thư này được Phạm văn Đồng tự nguyện viết để trả lời
Bản Tuyên Bố đơn phương của
Bản tuyên bố của
Bản Tuyên bố này gồm 4 điều khoản và điều khoản I được
viết như sau:
Tuyên Bố của Chính Phủ Nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung
Quốc về Lãnh Hải
(1) Bề rộng lãnh hải của nước Cộng Hòa Nhân Dân
Trung Quốc là 12 hải lý. Điều khoản này áp dụng cho toàn lãnh
thổ nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc, bao gồm phần đất
Trung Quốc trên đất liền và các hải đảo ngoài khơi, Đài Loan….
và các đảo phụ cận, quần đảo
đảo Tây Sa, quần đảo Trung Sa, quần đảo Nam Sa, và các đảo
khác thuộc Trung Quốc.
……………….
Tóm lại, nhân dịp xác nhận giới hạn lãnh hải mà mỗi
quốc gia hải cận thường làm, Trung cộng qua Bản Tuyên cáo
này lại đơn phương công khai tự nhận chúng có chủ quyền
trên Tây Sa (Hoàng Sa) và Nam Sa (Trường Sa) của Viẽt nam.
Đáp ứng lời tuyên bố đơn phương ấy, Thủ tướng của Viêt
Nam Dân Chủ Cộng Hoà, Phạm Văn Đồng gởi văn thư ấy đến
Thủ tướng Trung quốc Chu Ân Lai, nhấn mạnh rằng “Chính
Phủ nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà tôn trọng quyết
định này”.
Như vậy, VC nhìn nhận Trung Cộng có chủ quyền trên 2 quần
đảo ấy.
NGUYÊN NHÂN NÀO ĐƯA TỚI SỰ CHUYỂN NHƯỢNG CHỦ
QUYỀN CHO TRUNG CỘNG
Đây rõ ràng là hành vi bán nước. Tại sao Lãnh đạo VC có
hành vi như vậy?
Ngay từ 1979, theo Tạp Chí Kinh tế Viễn Đông số
ra ngày 16/3/1979, vì công luận ngạc nhiên về sự công
nhận cho Trung cộng chủ quyền trên Hoàng Sa và Trường
Sa, Phạm văn Đồng đã biện minh rằng “Lúc đó là thời kỳ
chiến tranh và tôi đã phải nói như vậy”. Biện minh đó lại
gây thêm thắc mắc, vì lẽ trong khu vực này vào thời kỳ ấy,
không có một cuộc chiến tranh nào xảy ra.
Rồi phải tới năm 1992, trước sức ép của công luận
về hành vi này, Nguyễn mạnh Cầm, với tư cách Bộ trưởng
Ngọai Giao của Việt nam Dân Chủ Cộng Hoà khai triển thêm
lời phát biểu về ‘cuộc chiến tranh’của Đồng trong cuộc họp
báo vào ngày 2 tháng 12 năm 1992, do hãng Thông Tấn VN
tường thuật ngày 3 tháng 12, như sau:
“ Bản Tuyên bố trước đây của lãnh đạo chúng tôi được
công bố trong hoàn cảnh sau đây: Với Hiệp Định Genève vào
năm 1954, phần lãnh thổ phía Nam Vĩ Tuyến 17, gồm cả 2
quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc quyền quản trị của
chính quyền Miền
lực lương cho mục tiêu cao nhất để chống cuộc chiến tranh
xâm lược của Mỹ ngõ hầu bảo vệ độc lập quốc gia, cần có hậu
thuẫn của các bạn bè khắp thế giới. Trong khi đó, các mối quan
hệ Việt Trung rất thắm thiết và hai quốc gia tin cậy lẫn nhau.
Trung Hoa đã thuận cung cấp cho Việtnam một yểm trợ đồ sộ
và viện trợ vô giá. Trong bối cảnh đó và bắt nguồn từ nhu cầu
cấp bách kể trên, việc lãnh đạo của chúng tôi công nhận chủ
quyền trên Hoàng Sa và Trường Sa mà Trung Hoa đòi hỏi là
điều cần thiết để ngăn ngừa đế quốc Mỹ dùng các hải đảo tấn
công chúng tôi, vì nó phục vụ trực tiếp cuộc chiến đấu bảo vệ
độc lập và tự do của tổ quốc.
Sự công nhận ấy không có dính dáng gì đến nền tảng
lịch sử và pháp lý trong chủ quyền của Việt
quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.”
Như vậy, Nguyễn mạnh Cầm đã khai triển rõ hơn vềc
cuộc “chiến tranh” mà Phạm văn Đồng nêu ra. Đó là cuộc
chiến tranh xâm lược của Mỹ. Nhằm vào cái mà gọi là bảo
vệ độc lập quốc gia, Hồ đã phải nhượng bộ theo đòi hỏi
của Mao là cho Phạm văn Đồng chuyển nhượng 2 quần
đảo ấy cho Mao với danh nghĩa là ngăn ngừa đế quốc Mỹ
dùng hai quần đảo ấy tấn công Việt nam.
Tập San Kinh Tế Viễn Đông số ra ngày 16 tháng 3 năm
1979 kể trên nhận xét về vấn đề này: “Những gì xảy ra ngày
nay có liên hệ đến 2 quần đảo chỉ là những hậu quả của sự dàn
xếp mờ ám của hai người cộng sản anh em trong qúa khứ.
Không một ai trong cộng đồng thế giới muốn bước vào để dàn
xếp sự bất đồng giữa Cộng sản Việt
rất rõ ràng: cái công hàm ngoại giao và sự nhìn nhận của
Cộng sản Việt
nước nhỏ như Việt
dối Trung Quốc. Hơn nữa, Cộng sản Việt
thoát được khỏi bàn tay của Trung Quốc, trong khi họ lại
phải theo cách ‘đổi mới’ của Trung Quốc để tiến lên chủ nghĩa
xã hội.”
“Do sự hồ hởi muốn tạo ra một cuộc chiến thê thảm cho
cả hai miền Bắc và
cộng sản, ông Hồ Chí Minh đã hứa, mà không có sự tự trọng,
nhượng một phần đất “tương lai sẽ có” để cho Trung Quốc,
dù biết không chắc gì có thể nào sẽ nuốt được miền Nam Việt
“ Vậy thì ai đã tạo
ra cuộc chiến Việt
làm tất cả mọi sự có thể làm được để chiếm miền Nam Việt
cuộc chiến đã chấm dứt, Phạm Văn Đồng lại chối bỏ điều đó
bằng cách bịa đặt ra việc đổ thừa cho chiến tranh”.
Frank Ching trong Tạp Chí này trong số ra ngày 10,
1994 kết luận:
“Rõ ràng là Hồ chí Minh qua tay của Phạm văn Đồng
đã dâng hiến cho Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa một cái
“ bánh ngọt to lớn” (món quà quá hậu hĩ) vì lúc đó Họ Hồ
đang chuẩn bị xâm lăng Miền
và đã nhắm mắt chấp nhận mọi điều kiện Bắc Kinh đưa
ra. Thật là rất dễ cho Hồ chỉ bán trên giấy hai quần đảo
ấy vì vào lúc đó thuộc Miền
Tóm lại, riêng về hai quần đảo này, thì một tay đại gian
hùng như Hồ chí Minh, dù rất khôn ngoan, thành thạo dùng
tiểu xảo trong mọi trường hợp, nay gặp phải Trung cộng là
bậc Thày thâm độc lừa lại vì lẽ TC biết rằng Hồ đâu có làm
chủ 2 quần đảo ấy vào lúc đó. Hơn nữa, Trung Cộng theo
truyền thống bành trướng của của Hàn Tộc nên có thể “mai
phục tường kỳ” dù mất 100 năm chờ cơ hội thuận tiện đánh
chiếm “vật” ấy. Vì trí đoản, Hồ chỉ biết và quen dùng mưu
thuật nhằm đạt chiến thắng nhất thời, như chỉ tìm kiếm ít lợi
lộc trước mắt, nên đã bị mắc kẹt trong vụ này. Về sau, việc
biện hộ rằng vì bị chiến tranh, vì cần phải bảo vệ tổ quốc
chống đế quốc Mỹ xâm lăng, nên đã “tôn trọng quyết định”
ấy của Mao là một sự chạy tội, phản ảnh trạng thái trí tuệ u
mê của họ Hồ. Không có bóng ma chiến tranh nào, cũng chẳng
có đế quốc Mỹ nào hiện diện, hay dình dập để thực hiện âm
mưu xâm lăng vào lúc đó.
Tuy nhiên, với “yểm trợ đồ sộ và viện trợ vô giá” cho Hồ,
Mao đã đạt được cả 2 mục tiêu:
a)Thụ đắc được 2 quần đảo này một cách hoà bình.
Mao không mất một giọt máu để được làm chủ. Ngược
lại, Hồ và đồng bọn tỏ ra rất hồ hởi vì hưởng được món
viện trợ lớn, mà không thấy mất mát gì.
b) Đánh chiếm Miền
mang quân xuống đánh chiếm Nam Việt
không làm nổi và đã dùng Hồ và đồng bọ làm lính tiền
phong cho công tác này.
Thực vậy, những lời giải thích của Phạm văn Đồng và
Nguyễn mạnh Cầm cho thấy điều đó. Sau khi chiếm
được Miền Bắc vào năm 1954, Hồ đã lập một dự án bành
trướng thế lực cộng sản trên bán đảo Đông Dương trước
khi tiến xa hơn. Hồ chia vùng này làm 4 chiến trường :
A, Bắc Việt; B, Nam Việt; C, Miên Lào; và D, Thái Lan và
Hồ lãnh nhiệm vụ tiền phong thực hiện cuộc chiến tranh
này. Đây là một nghĩa vụ cao cả của người Cộng Sản quốc
tế.
Trong kế hoạch này, B là Nam Việt nam, là mục tiêu đâu
tiên. Hồ cần Mao gấp rút “yểm trợ đồ sộ (cần hậu thuẫn
của các bạn bè khắp thế giới) và viện trợ vô giá ( tiền bạc,
súng ống và các quân dụng khác…) , vì đó là “nhu cầu cấp
bách.”
Mao biết rằng Nam Việt
diến xa hơn trong chủ nghĩa bá quyền. Các lực
lượng dân tộc Việt, đối kháng với bá quyền Bắc Kinh
còn lại nằm ở Nam Việt nam. Mao biết rằng kẻ ngoai
xâm như Mao không làm nổi. Hơn 1000 Bắc thuộc đã là
những bài học tủi nhục. Cách hay nhất là dùng người bản
xứ làm công việc này. Mao đã quá khôn ngoan biến Hồ
và các thế hệ tay em trở thành lính đánh thuê, mà các kẻ
này không ý thức được vai trò của chúng. Chính những
kẻ này gây ra cuộc chiến tranh tương tàn khủng khiếp
giúp Mao tận diệt các thế lực dân tộc Việt thù địch ấy.
Trong cuộc chiến này, Hồ và đồng bọn đã không nương
tay chém giết tàn bạo đồng bào của họ, tiêu huỷ các giá
trị nền tảng của chủ nghĩa dân tộc và các sức mạnh khác
chống lại Mao để bảo vệ độc lập và tự chủ của dân tộc.
Nếu xét về mọi phương diện như văn hoá, xã hội, lãnh
thổ, kinh tế, chính trị…., những gì đã và đang xảy ra trên
tòan cõi Việt nam từ thập niên 1950 đến nay, ta có thể
thấy âm mưu thực hiện mục tiêu này đã lộ rõ.
Hồ và đàn em chiếm được Nam Việt nam vào tháng 4,
1975 và cho đến nay chúng vẫn còn đang nỗ lực làm tròn
sứ mạng hoặc đặt ách thống trị trên lãnh thổ như xưa kia
hay biến Việt nam thành một phần lãnh thổ của Hoa Lục.
Liệu nhưng kẻ nội thù nảy có đạt được mục tiêu này hay
không?
GIÁ TRỊ PHÁP LÝ CÔNG HÀM
Liệu Công Hàm Phạm văn Đồng có giá trị pháp lý để giúp
cho TC căn cứ vào đó nhìn nhận chủ quyền trên HS & TS
một cách hợp pháp?
A. Về nội dung, ‘chuyển nhượng’ trong Công Hàm phải
dựa trên tinh thần tự do, trong sáng, minh bạch, bình
đẳng, ngay thẳng, …., ngay cả đến động lực của sự công
nhận này cũng phải có tính cách chính đáng. Nếu không,
hành vi này sẽ bị coi là có hà tì và sẽ trở thành vô giá trị.
a) Không ai có thể chuyển nhượng cho một đệ tam nhân
cái gì mà mình không có. Hai quần đảo Hoàng Sa và Trường
Sa này lúc đó thuộc quyền sở hữu của Việt Nam Cộng Hòa.
Vì không là chủ tài sản, VC không có quyền nhượng cho TC.
Hành vi này có thể giải thích là một sự lừa đảo; Hồ có ý định
đành lừa TC để được hưởng viện trợ. Ngược lại, Trung cộng
biết sự lừa đảo này, nhưng đòi VC phải công khai công nhận
sự chuyển nhượng. Mặt khác, đây có thể còn là một sự lạm
quyền, một hành vi bất hợp pháp, vì chủ nhân ông tài sản là
Việt nam Cộng Hoà, không ban cấp cho Hồ và đồng bọn quyền
ấy.
b). Hồ và đồng bọn ký công nhận này trong trạng thái
tinh thần u mê, không sáng suốt. Phạm văn Đồng viện cớ
“vì chiến tranh nên đã phải nói như vậy”. Rồi Bộ trưởng
Ngoại giao VC Nguyễn mạnh Cầm còn thêm: “chúng tôi đang
dồn nỗ lực vào chống đế quốc Mỹ xâm lược.” Chiến tranh
ám ảnh quá mạnh đến trí óc nên chúng mất khả năng phán
đoán, vì lúc là thời kỳ toàn thịnh của VC, và không có đế quốc
Mỹ nào dình dập để xâm lược, và cũng chẳng có con ma chiến
tranh này đe doạ Bắc Việt. Cũng vì u mê, nên chúng mất hết
khả năng nhận biết về sự hành động và hậu quả việc làm
của sự công nhận ấy. Một người bình thường có thể nhìn thấy
hiện nay những gì đang xảy ra ở Biển Đông. Hơn nữa, chúng
u mê và mờ mắt vì TC đã chấp thuận viện trợ quá nhiều như
Nguyễn mạnh Cầm nhấn mạnh “Trung Hoa đã thuận cung
cấp cho chúng tôi một yểm trợ đồ sộ và viện trợ vô giá….”,
để đáp ứng “nhu cầu cấp bách” là “ chống đế quốc Mỹ xâm
lược để bảo vệ tổ quốc”. Cũng vì thế mà hồ hởi quá độ, say
sưa và xung phong đóng vai trò của kẻ thừa sai trong âm mưu
của Cộng Sản quốc tế ấy cho Mao mà không biết.
c) Lầm lẫn vì tin ở lòng tốt của TC. Cầm ca ngợi mối
liên hệ ấy là “ các mối quan hệ Việt Trung rất thắm thiết,
và hai quốc gia tin cậy lẫn nhau”; Bọn Hồ còn bị lầm vì
tưởng “viện trợ đồ sộ và vô giá” là cho không ( bất hoàn
trái) để giúp VC, đảng cộng sản anh em xây dựng xã hội chủ
nghĩa ở Miền Bắc, và đang chuẩn bị đánh chiếm Miền
từng bước tiến chiếm Đông Nam Á là nghĩa vụ quốc tế; mặt
khác, Hồ còn có lầm lẫn khác và thiếu trí tuệ với hiểu biết
nông cạn vì tưởng rằng dù có công nhận cho TC có chủ quyền
nhưng “vẫn còn chủ quyền lịch sử và pháp lý.”
d) Tính chất bất bình đẳng trong hành vi này: “Yểm trợ đồ
sộ và viện trợ vô giá” của đàn anh vĩ đại mồi nhử to lớn cho
VC là kẻ nghèo đói, tham lam, đang có “nhu cầu cấp bách”
để xâm chiếm Miền
chấp thuận “đòi hỏi” của Trung cộng phải công nhận Hoàng
Sa và Trường Sa là của Trung Cộng để đổi lấy viện trợ ấy.
e) Động lực công nhận cũng bị dị nghị. Họ Hồ và đồng
bọn đã đánh đổi đất đai của dân tộc lấy viện trợ để thực hiện
một âm mưu không trong sáng của Đảng Cộng Sản Việt
nam: theo đuổi mục tiêu của Cộng Sản quốc tế và dùng làm
phương tiên để thực hiện một cuộc chiến tranh xâm lăng. Đó
là cuốc chiến tranh huy đệ tương tàn. Và sự kiện này đã được
chính Phạm văn Đồng, Nguyễn mạnh Cầm, thú nhận. Nói cho
rõ hơn, như lời nhận xét của ký giả Frank Ching của Tạp Chi
Kinh Tế Viễn Động đã noi ở trên rằng đây chỉ là ‘dàn xếp mờ
ám’ của hai đảng Cộng Sản anh em….
Tóm lại, hành vi công nhận của VC được biểu lộ trong Công
hàm này bị coi là hà tì. Do vậy, hành vi công nhận ấy không
có giá trị.
Và chủ quyền của Việt nam trên hai quần đảo này không
thể thay đổi.
B. Giá trị pháp lý của công hàm của Phạm văn Đồng về
phương diện hình thức.
Công hàm chỉ là một văn thư hành chánh, trao đổi quan
điểm giữa hai chính phủ (hành pháp) của hai quốc gia. Một
văn thư hành chánh như vậy lại là văn thư ấy công nhận chủ
quyền như trường hợp này không có giá trị trong việc chuyển
nhượng chủ quyền lãnh thổ hay lãnh hải. Muốn chuyển
nhượng một lãnh thổ, luật pháp quốc tế đòi hỏi phải thục hiện
bằng một hiệp ước. Để một hiệp ước có hiệu lực, trước hết,
hai bên đối tác phải ký kết một văn kiện về chuyển nhương.
Khi nói tới điều này, phải nói rõ trao đổi giữa hai bên như
việc mua bán một vật gì đó. Dĩ nhiên, phải có tính cách chính
đáng, công khai để cho công chúng hiểu biết và tham gia ý
kiến. Kế đó, Quốc Hội mỗi bên phê chuẩn đúng cách văn kiện
ấy. Và cuối cùng, nguyên thủ quốc gia phải ban hành đúng
cách thì việc chuyển nhượng ấy mới có giá trị. Có một số quốc
gia đòi hỏi một điều kiện khó khăn hơn là phải có trưng cầu
dân ý của toàn dân về Hiệp ước mua bán lãnh thổ. Thủ tục
như vậy biểu lộ ý chí thực sự của toàn dân về vấn đề này. Nếu
không được thực hiện như vậy, hành vi ấy bị coi là hà tì và trở
thành vô hiệu và bị bác bỏ..
C. Hành vi của Trung cộng là bất hợp pháp. Trong bản
tuyên bố, họ
phương tuyên bố làm chủ hai quân đảo như vậy là hành vi
bất hợp pháp. TC không bao giờ thụ đắc hợp pháp quyền làm
chủ hai quần đảo này. Việt nam đã là chủ từ cả ngàn năm nay
và đang còn là chủ. TC là chủ bất hợp pháp một tài sản , thì
việc ‘tán thành’/’công nhận’ của Phạm văn Đồng chẳng có giá
trị gì..
D. Tuyên bố lãnh hải là 12 hải lý theo luật biển và vùng
lưỡi bò. Luật biển 1982 cho phép một hải đảo được nới rộng
một phần biển là thềm lục địa và khu đặc quyền kinh tế rộng
200 hải lý ngoài lãnh hải 12 hải lý, nghĩa là nới rộng lãnh thổ
ra biển khơi. Để một hải đảo được quyền này, hải đảo ấy
phải có đầy đủ điều kiện như tự sinh tồn (kinh tế) mới được
hưởng qui chế ấy. Các đảo trong hai quần đảo này không hội
đủ điều kiện của Luật biển 1982. Mặt khác, về phương diện
địa lý, hai quần đảo này cách quá xa lục địa Trung Hoa , nhất
là Trường Sa cách bờ biển Hoa Lục cả ngàn cây số không thể
nào là lãnh thổ Trung Hoa. Khi
trên Hoàng Sa và Trường Sa với vùng biển 200 hải lý nới rộng
như trên, Trung Cộng không thể dựa vào đó để biện minh
bản đồ lưỡi bò được phổ biến hồi tháng 6 năm 2006, để rồi
nhằm chiếm cả Biển Đông. Hành vi ấy là hành vi của bọn bá
quyền, không bao giờ có thể biện minh được.
---------------
Tóm lại, về phương diện pháp lý, Công hàm của Phạm
văn Đồng là một hành vi không có giá trị. Do đó việc Trung
cộng viện dẫn công hàm đó để chứng minh chủ quyền chỉ là
một cái cớ không chính đáng của kẻ mạnh, theo chủ nghĩa bá
quyền.
Chính vì Công hàm của Phạm văn Đồng được dùng làm
cái cớ để TC chiếm trọn hai quần đảo này. Nay chúng đã có
hàng không mẫu hạm, chúng đã xây dựng nhiều căn cứ quân
sự trên hai quần đảo để bảo vệ tài sản mà chúng đã đánh
chiếm một cách bất hợp pháp trên đó, chúng đã thiết lập cơ
quan hành chánh để quản trị và như vậy là chính thức sát
nhập toàn bộ Biển Đông vào lãnh thổ Trung Hoa. Vậy VC phải
chịu trách nhiệm về vấn đề này và ở vị trí nhà cầm quyền
chúng phải làm gì để đòi lại Hoàng Sa và Trường Sa?
GIẢI PHÁP ĐÒI LẠI HOÀNG SA VÀ TRƯỜNG SA
Đảng Cộng Sản Việt nam phải có trách nhiệm lớn lao để
mất Hoàng Sa và Trường Sa về tay Trung Cộng. Đây là một
tội ác nghiêm trọng đối với dân tộc Việt, vì chúng thực hiện
âm mưu bán Hoàng Sa-Trường Sa cho kẻ thù của dân tộc, và
không bao giờ có thể được tha thứ.
Trước nguy cơ việc Trung Cộng chiếm hữu vĩnh viễn để
làm tài sản của chúng như mọi người chứng kiến, để chuộc tội
này, ít nhất, Đảng Cộng Sản Việt nam với Cộng Hoà Xã Hội Chủ
Nghĩa Việt nam phải làm một vài việc sau đây, làm nền tảng
pháp lý cho các thế hệ tương lai đòi lại, nếu không phải bây
giờ, nghĩa là phải làm bằng chứng về duy trì tính cách liên tục
của chủ quyền. Chỉ có Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt
mới có danh nghĩa làm việc này.
a). Đảng phải ra lệnh cho Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa
Việt nam công khai tuyên bố huỷ bỏ Văn Thư của Phạm văn
Đồng và coi văn thư ấy là vô giá trị. Cũng không cần phải gửi
Bản Tuyên Bố như vậy cho Trung Cộng. Hành vi này có thể
có hay không cần viện dẫn lý do và tôi nhấn mạnh rằng đơn
phương tuyên bố là đủ.
Nếu muốn viện dẫn lý do, VC có thể nói rằng bị TC dụ
dỗ như đã được TC hứa cung cấp nhiều viện trợ để xâm lăng
Miền
nhận; bị TC lừa dối nay mới biết rõ sự thật về mưu mô của
TC; bị TC áp lực thực hiện Xã Hội Chủ Nghĩa tại Việt nam;
bị quá say mê, quá hồ hởi, mất sáng suốt, vì chiến thắng
mới thu được vài năm trước đó, nên không đoán trước được
những gì sẽ xảy ra hàng chục năm về sau; bị áp lực (đòi hỏi
của TC) phải nhượng Hoàng Sa- Trường Sa cho TC, để lập
vòng đai phòng vệ , bảo vệ tổ quốc; sự công nhận này rõ ràng
là bất bình đẳng, vì sức mạnh của Trung cộng; không có ý
định thực sự chuyển giao chủ quyền vì nghĩ rằng VC dù
có công nhận quyết định của TC về chủ quyền, vẫn còn chủ
quyền lịch sử và pháp lý….
b). Phải làm hồ sơ đưa vấn đề ra Toà Án quốc tế về
vụ Trung Cộng dùng võ lực xâm lăng, đánh chiếm Hoàng Sa
vào năm 1956, 1974, và chiếm 6 đảo đá ngầm thuộc vùng
từ năm 1992. Trung cộng hiện đã xây biết bao công sự quân
sự kiên cố để bảo vệ sự chiếm đóng vĩnh viễn của chúng. Việc
nộp hồ sơ này là khởi đầu của công tác đòi lại chủ quyền. Dù
tiến trình có kéo dài đi chăng nữa, ít nhất đó là bước căn bản.
Uỷ Ban Bảo Vệ Sự Vẹn Toàn Lãnh Thổ đã có đủ tài liệu, bản
đồ, hình ảnh làm bằng chứng .
VC hãy ngưng hành vi tiếp tay cho Trung cộng củng cố và
chiếm hữu vĩnh viễn Biển Đông của ông cha để lại. Đừng tiếp
tục hèn nhát và che dấu sự hèn nhát ấy bằng các hoạt động
bề ngoài như chỉ lên tiếng xuông như VN có chủ quyền pháp
lý và lịch sử, hay loan báo mua võ khí để cho mọi người giải
thích là bảo vệ lãnh thổ.
Phi Luật Tân là bài học cần phải theo ngay.
c). Dĩ nhiên hai việc này là giải pháp pháp lý cần phải có,
và chỉ là bước đầu của công tác phải làm để bảo vệ lãnh thổ.
Kế đó phải chuẩn bị lâu dài nhiều giải pháp khác về mọi
phương diện như ngoai giao, kinh tế, quân sự,…. nhất là
củng cố nội lực cho công cuộc bảo vệ lãnh thổ và đồng thời
giành lại phần đất tổ mà Đảng CSVN đã để cho giặc ngoại
xâm chiếm.
Các điều này đã được UBBVSVTLT đòi hỏi VC phải làm
nhiều lần từ trước đến nay.
Âm mưu của Hồ dẫn đến tình trạng hiện nay ở Biển Đông.
Vậy tình trạng Biển Đông như thế nào?
Xem tiếp phần II
DIỄN ĐÀN
“Tiếng nói tự do của
người dân Việt
Hội Luận ngày 19/1/2014 từ 12 giờ trưa đến 3 giờ 15
PHẦN II (tiếp theo)
Văn Thư của Phạm văn Đồng như tôi đã nói ở Phần I là cái cớ duy nhất để Trung Cộng
biện minh cho hành động xâm chiếm Biển Đông bằng võ lực. VC đã ký giấy bán và
nhận ‘tiền rồi’, lại tìm cách né tránh không giao “vật” hay Hoàng Sa và Trường Sa, nay
Kẻ mua là Trung cộng mang quân xuống chiếm hay dùng sức mạnh để cưỡng hành lời
cam kết.
Phần I ở trên đề cập đến khía cạnh quốc tế công pháp trong việc đòi lại chủ quyền
Trường Sa và Hoàng Sa của Việt nam.
Văn thư ấy đưa đến tình trạng sau đây trên Biển Đông.
(Nội dung phần này là Phần Nhận Định ( có cập nhật) của Bản Tuyên Cáo của Uỷ Ban
Bảo Vệ Sự Vẹn Toàn Lãnh Thổ v/v TC sát nhập Biển Đông vào Hoa Lục qua việc thiết
lập Thành Phố Tam Sa. Tuyên Cáo được cựu Thiếu Tá Cảnh Sát Thái văn Hoà long
trọng đọc trong buổi lễ Tổng Kết Hoạt Động của Uỷ Ban Hoàng Sa ngày 1 tháng 9 năm
2012 tại phòng Khánh Tiết, Nhà hàng
II. HIỆN TRẠNG BIỂN ĐÔNG
Ngày 23 tháng 6 năm 2012, Quốc Vụ Viện Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa (TC) phê
chuẩn sự thiết lập “Địa Các Tam Sa Thị”, nghĩa là lập thành phố
Tam Sa và trụ sở của thành phố này nay đặt tại Đảo Phú Lâm,
trên quần đảo Hoàng Sa của Việt nam. Tam Sa nguyên là địa
danh một khu vực nhỏ trên đảo Hải
một huyện mà TC lập ra tại đây vào tháng 11 năm 2007, với
nhiệm vụ là quản trị 3 quần đảo, trong đó có Hoàng Sa và
Trường Sa của Việt nam. Việc nâng cấp đơn vị hành chính này từ cấp huyện lên cấp
thành phố là để nêu cao tầm quan trọng của nó và cũng nhắc cho quốc tế biết nay TC
thực sự sát nhập vùng lưỡi bò (Biển Đông của Việt nam) vào lãnh thổ Hoa Lục. Để
chính thức hoá việc quản trị vùng biển này, TC cho thiết lập một cơ quan hành chánh,
dù không có dân chúng lập nghiệp tại đây, không có một sinh hoạt kinh tế (1). Ủy ban
Thường vụ Đại hội đại biểu nhân dân (ĐHĐBND) tỉnh Hải
32 ngày 17 tháng 7, 12 đã quyết định thành lập Hội Đồng Nhân Dân Thành phố Tam
Sa. Đây là Cơ quan Quyết Nghị (lập pháp) gồm 45 thành viên (2), đặt tại ngôi nhà gạch
hai tầng lầu (3) trên đảo Phú Lâm có nhiệm vụ ban hành luật lệ về các vấn đề trong
khu vực lien hệ. Con số to lớn hội viên Hội Đồng Nhân Dân này làm nhiều người lầm
tưởng các quần đảo này có một dân số rấtđông. Đồng thời, Tân Hoa Xã cho biết phiên
họp đầu tiên của 'hội đồng nhân dân thành phố Tam Sa' đã kết thúc hôm thứ Hai 23/7,
và đã bầu Bố Tráng, cựu Phó Tổng tham mưu trưởng Quân khu
Hải
Hội Đồng và Tiêu Kiệt được cử làm Thị trưởng, đứng đầu cơ quan chấp hành của
thànhphố. Ngoài ra, Hoàn cầu Thời báo cùng lúc cũng loan tin TC đang xây dựng một
nhà tù và nói rõ có mục đích giam giữ các ngư dân nước ngoài mà Bắc Kinh cáo buộc
xâm nhập trái phép vùng biển của chúng
Thêm vào đó, đặc biệt để cảnh giác các quốc gia trong vùng, TC loan báo quân sự hoá
thành phố Tam sa. Phát ngôn viên bộ Quốc phòng TC Dương Vũ Quân cho biết là TC đã
thiết lập Bộ Chỉ Huy Quân sự Tam Sa. Thái Hỷ Hồng, đại tá, được cử làm tư lệnh thành
phố, và Lưu Triều Nghi, đại tá, làm chính ủy. Đại diện bộ Quốc phòng TC còn nói rằng
các nhiệm vụ chính của cơ quan quân sự Tam Sa là huy động lực lượng quốc phòng,
bảo vệ thành phố Tam Sa, hỗ trợ phòng chống thảm họa thiên tai. Còn các hoạt động
quốc phòng trên biển (ngoài phạm vi hai quần đảo trên) vẫn do hải quân TC phụ trách
(China Daily ngày 27 tháng 7, 12).
Mặt khác, Đài phát thanh Quốc tế TC phổ biến bản tin nói rằng ngày 28/6, trong một
cuộc họp báo tại Bắc Kinh, một viên chức quốc phòng là Cảnh Nhạn Sinh nói là quân
đội TC đã thiết lập chế độ tuần tra bình thường để "phòng ngừa chiến tranh trên vùng
biển Trường Sa", trong khuôn khổ các hoạt động bảo vệ « chủ quyền quốc gia »…. ,«
quyết tâm và ý chí của quân đội Trung Quốc để bảo vệ chủ quyền quốc gia và toàn vẹn
lãnh thổ là không thể lay chuyển. Bối cảnh mà TC tạo ra có nghĩa là những đội tuần tra
sẽ ở trong tư thế sẳn sàng chiến đấu. Cảnh Nhạn Sinh nói thẳng rằng TC sẽ kiên quyết
chống lại « mọi hành động gây hấn quân sự từ các nước láng giềng.”
Loan báo quyết định lập bộ tư lệnh Tam Sa và đặt quân đồn trú dưới sự chỉ huy của bộ
tư lệnh ấy và nhiệm vụ của nó mang ý nghĩa là quân đội TC sẵn sàng dùng võ lực để đối
đầu với các đe doạ để bảo vệ chủ quyền.
ooo
Từ thập niên 1970, sau khi chiếm quần đảo Hoàng Sa của VNCH, TC xây các doanh trại,
các cơ sở, phi trường, bến tàu, lập các kho võ khí, hệ thống
viễn thông… khắp nơi.
Sau đây là một số kiến trúc quân sự bằng xi măng cốt sắt
trên:
A) Quần đảo Hoàng Sa: -Phú Lâm là trung tâm quan trọng
nhất với 1 phi đạo dài 2700 m, chiều ngang rộng 120 m cho
phi cơ phản lực của quân đội TC lên xuống. Vì Phú Lâm rất
nhỏ, Trung cộng phải kè thêm xi măng và đá ở 2 đầu phi đạo
ra biển để nới rộng thêm (vào thập niên 1970, chiều dài phi đạo là 1000 m, cho phi cơ
cánh quạt sử dụng); hai hải cảng cho tàu chiến; hai toà nhà, mỗi cái có 2 tầng lầu, bãi
trực thăng, 4 hồ chứa nước, mỗi hồ chứa được 5000 thước khối nước mưa (mỗi năm
quân đội TC hứng được tất cả 140,000 tấn nước mưa) cho quân đội sử dụng; các cơ sở
viễn thông, đài khí tượng, hệ thống radar. Doanh trại được xây cất cho cả ‘ngàn’ quân
(thuỷ quân lục chiến) ra trú đóng. Về phía đông bắc, một cồn nhỏ có một con đường
dẫn ra. Ở nơi đây là các kho đạn. Phú Lâm là một trong 4 đảo, Quân đội TC trong gần
một thập niên qua đã bắt, giam giữ, đánh đập, cướp bóc và xử phạt tù và đòi tiền chuộc
mạng đối với ngư dân Việt thuộc đảo Lý Sơn hành nghề ngoài khơi Hoàng Sa.
Không có một bóng dáng dân chúng lập nghiệp tại đây, cũng không có một sinh hoạt
kinh tế nào.
-Quang Hoà, nơi đã xảy ra cuộc chiến chống xâm lăng của Trung cộng vào tháng 1, năm
1974, là đảo có một bộ chỉ huy khang trang.
-Các căn cứ quân sự cũng được sây cất trên các đảo Cù Mộc, Linclon, Hữu Nhật, Quang
Ảnh. Đảo Tri tôn, cách Cù Lao Ré thuộc Quảng Ngãi 123 hải lý có xây một kiến trúc viễn
thông và trong năm 2012 TC cho xây một hải cảng ở đây.
B.Tại Trường Sa, hơn một chục kiến trúc quân sự, kiên cố, đồ sộ sừng sững mọc trên
mặt nước tại các bãi đá ngầm nằm về phía
như Khu Chữ Thập (5 kiến trúc), Khu Vành Khăn (4 kiến trúc), và trên bãi đá Gạc Ma,
Su bi, Colin, Đá Nam, Đá Tây, Hòn Sáp Chiqua , Châu Viên ( Đá Hoa Lau) v.v.
Xem Hình chụp các kiến trúc trên được in trong cuốn Bản đồ Chủ Quyền và Bành
Trướng Bắc Kinh, và Cuốn Hồ sơ Hoàng Sa Trường Sa và Chủ Quyền Lãnh Thổ.
Tóm lại, tất cả các hoạt động và hành vi trên của TC được thực hiện trong một tiến
trình dài để hợp thức hoá âm mưu chiếm đoạt Biển Đông của VN và nay như vậy là sát
nhập Biển Đông vào lãnh thổ TC. Trong tình trạng này, TC đã tự coi Biển Đông là lãnh
thổ của chúng và sẵn sàng bảo vệ bằng võ lực.
ooo
Đơn phương tự nhận là chủ nhân ông trên một dải đất mà kẻ xâm lược biết rằng sự
chiếm đoạt là bất hợp pháp, TC tìm cách hợp thức (pháp) hoá phần lãnh thổ ấy. Cách
nào đây? Ép VC ký hiệp ước như trên vùng biên giới? VC không dám (4), dù mặc thị/
âm thầm tiếp tay cho giặc để đạt mục tiêu này.
Chỉ còn cách là hành sử chủ quyền và bảo vệ chủ quyền bằng cách mua chuộc bằng tiền
bạc, như vụ bauxite ở Tây Nguyên để kéo dài thời gian, hay hù doạ kể cả bằng cách phô
trương sức mạnh đã chuẩn bị sẵn từ nhiều thập niên, hoặc bằng các hoạt động liên tục
và kiên trì chứng tỏ hiện diện của chúng một cách thường trực, lâu dài gây sự chú ý
của mọi người và lâu dần sẽ chấp nhận thực trạng này, gồm cả bằng cách khua chiên
gõ mõ om sòm/ngăn chặn những ai đi qua, và tố cáo họ vi phạm lãnh thổ dù là hành
nghề như đánh bắt hải sản như trường hợp ngư dân VN v.v.. Còn nữa, với tư cách là
chủ nhân ông, khi cần chúng có thể đứng ra thương thảo chia sẻ quyền lợi với bất cứ
ai có đủ sức mạnh đòi hỏi và loại VC ra ngoài…. Các hoạt động loại này có thể kéo dài
dù nhiều năm, hay cả hàng thế kỷ cũng được và sẽ giúp cho kẻ xâm lược trở thành chủ
nhân ông thực sự, bất khả tranh cãi về sau. Tuy nhiên, các hoạt động ấy không được
thực hiện, khi chúng còn thấy còn yếu. Khi tự cảm thấy đủ mạnh võ lực, chúng sẽ dùng
sức mạnh ấy, để đánh bại các đối thủ và trở thành kẻ chiến thắng cuối cùng.
----------------
Các hoạt động của TC trên Biển Đông để xác nhận chủ quyền. Có 2 lãnh vực hoạt động
là hành sử và bảo vệ chủ quyền.
A. Hành Sử Chủ Quyền
Một mặt, vì đây là hành vi xâm lược lãnh thổ Việt nam một cách bất hợp pháp, và mặt
khác vì là con đường hàng hải quốc tế chạy qua Biển Đông, nghĩa là nó có liên quan
đến quyền lợi thiết yếu của nhiều quốc gia nhất là Hoa Kỳ, trong lúc này, TC lựa chọn
các hành vi để hành sử chủ quyền ở một mức độ chừng mục chứng tỏ rằng chúng là
chủ Biển Đông một cách hoà bình, cốt để tránh đối đầu trực tiếp về quân sự nhất là với
Hoa Kỳ và thế giới. Cần có hiện diện thường trực trên Biển Đông là chính.
1). Hoạt động tuần tra, giám sát bằng phương tiện “dân sự.”
Theo Tân Hoa Xã ngày 04 tháng 07, đội tàu hải giám của TC tuần tra tại « vùng biển
do TC quản trị tại Nam Hải », đã quan sát “gần”, để « thu thập chứng cứ, giữ gìn quyền
lợi » đối với một số đảo và bãi đá ở miền trung quần đảo Trường Sa. Sáng 3 tháng 7,
đội tàu hải giám đó cũng đã đi qua một số bãi ngầm và bãi cạn phía đông quần đảo này.
Vì là nguỵ trang, các tàu hải giám (tầu quân sự được sơn màu trắng để giảm bớt tính
cách gây hấn) được công khai sử dụng để tuần tra khắp Biển Đông. Hiện nay, TC có 4
chiếc và căn cứ của chúng là đảo Hải
đó là bốn chiến hạm của hải quân được nguỵ trang là các tàu hải giám, và thuộc quyền
quản trị của Quốc gia Hải dương Cục, trực thuộc Bộ Tài Nguyên Lãnh thổ Trung Quốc,
chứ không thuộc lực lượng hải quân.
Trong những năm trước đây, các tàu hải giám được dùng để tuần tra, giám sát ngăn
chặn ngư dân Việt bắt đánh cá. Chúng bắt bớ họ, tịch thu tàu thuyền, ngư cụ, cướp đạt
hải sản đã bắt được, cướp đoạt tiền bạc, giam cầm và đưa các nạn nhân về các đảo Phú
lâm, Lincoln, Hữu Nhật giam giữ, truy tố vì xâm phạm “lãnh hải”, có cả đòi tiền chuộc
mạng. Chúng là tác giả nhiều vụ đánh chìm ngư thuyền Việt hành nghề trên Biển Đông,
rồi bỏ chạy. Và VC không dám tố cáo, chỉ nói là tàu lạ.
Chúng không ngần ngại bắn giết ngư dân Việt.
Ngoài ra các tàu này còn hộ tống và bảo vệ ngư thuyền TC hành nghề, như ngày 15
tháng 7, 2012 vừa qua các tàu hải giám đó hộ tống một đoàn 30 tàu cá TC đến Khu Chữ
Thập, phiá
TC cho biết có kế hoạch cho đến 2020 sẽ có 500 chiếc hải giám để tuần tra, thực thi
pháp luật tại các vùng đánh bắt cá, bảo vệ ngư trường, bảo vệ ngư dân hành nghề, bảo
vệ vùng biển và chủ quyền quốc gia cũng như giám sát các đường hàng hải, bảo vệ an
ninh hàng hải. 500 chiếc này cũng hỗ trợ cho ngư dân Hải
Khu Vành Khăn.
-Nhân dân Nhật báo Trung Quốc số ra ngày 1 tháng 8, cho biết Chính phủ TC đã cho
hạ thủy một tàu tuần tra mới nhất, loại 5.400 tấn. Tàu được thiết kế đặc biệt để bảo
vệ "chủ quyền biển".
Kế hoạch thi hành sự hiện diện của hải giám trên Biển Đông là để chứng minh chủ
quyền của chúng trên vùng biển này.
Khi đưa một đoàn tàu gọi là « dân sự » của Cục Quản lý Đại dương hay của Cơ quan
Ngư chính ra khơi, và tàu thuyền ấy được trang bị vũ khí nặng, có cả trực thăng, Bắc
Kinh đang bền bỉ dùng chính sách « sự đã rồi » để áp đặt chủ quyền của họ. Trên bề
mặt, đây không phải là “dùng bạo lực” để dành giật chủ quyền, và như vậy né tránh
được đòi hỏi ấy của Hoa Kỳ.
2). Chỉ đạo, hướng dẫn và tổ chức để ngư dân TC hành nghề thường trực trong một kế
hoạch qui mô có chủ đích tại Trường Sa .
- Hơn 1.000 tàu cá tại thành phố cảng Dương Giang, tỉnh Quảng
Đông, hôm 1 tháng 8, đã hướng ra
biển ngay sau khi lệnh cấm đánh cá
kết thúc. Phó chủ tịch tỉnh Quảng
Đông Liu Kun đã đến khai mạc lễ
hội đánh bắt cá của tỉnh và cho biết
thêm rằng hơn 14.000 tàu cá đăng ký tại tỉnh Quảng Đông đã
xuất phát đến biển Đông từ ngày 1-8 (Nhật báo Trung Quốc số ra ngày 2-8)
-Còn ở tỉnh Hải
Đông hết hiệu lực, ở nơi mà TC gọi là “ngư trường Tam Sa”, thì tổng cộng có 8994 tàu
cá với 35.600 ngư dân Hải
hôm trước, 31/7, rất nhiều tàu cá Hải
chuẩn bị xăng dầu, tích trữ lương thảo. Một viên chức thuộc Sở Ngư nghiệp và Hải
dương thuộc Hải
toàn lực làm công tác chuẩn bị để hỗ trợ cho ngư dân của họ đổ ra Biển Đông đánh bắt
từ trưa 1/8 (Nhật báo Hải
-Bản tin của Tân Hoa Xã hôm ngày 24 tháng 8, 12 loan báo tàu yểm trợ của Trung Cộng
đã được đưa tới khu vực quần đảo Trường Sa để hậu thuẫn cho đoàn tàu đánh cá ấy.
Đó là tàu tiếp liệu và chế biến thủy sản có tên là Quỳnh Tam Á F-8138 trọng tải 4,000
tấn của công ty Giang Hải đi từ đảo Hải
khả năng đánh bắt trên biển, cắt lát sấy khô, ướp lạnh, đồng thời bảo đảm đầy đủ dịch
vụ tiếp vận cho các tàu cá ở Trường Sa. Với khả năng tiếp viện thực phẩm, nước uống,
nhiên liệu gần hơn và nhanh hơn, đám tàu đánh cá Trung Cộng tràn xuống khu vực
Trường Sa từ đầu tháng 8 vừa qua có thể kéo dài thời gian trên biển thay vì phải quay
về Hải
3). Các hoạt động khác để hành sử chủ quyền:
- TC dùng Tàu ngư chính để xâm phạm vào sâu trong thềm lục địa VN như cắt dây cáp
tàu thăm dò dấu khí của VC như Bình Minh (cách Vũng Tàu, 180 hải lý) và Viking (cách
Tuy Hoà, 140 hải lý) như hồi tháng 5 và tháng 6 năm 2011, với lý do “VC đã vi phạm
lãnh hải của chúng.”
-Kêu gọi đấu thầu khai thác dầu khí trong phạm vi Thềm Lục Địa và Khu Đặc
Quyền Kinh Tế của VN.
Vào ngày 23 tháng 6, 2012, tập đoàn dầu khí Hải Dương CNOOC của TC phân lô (9 lô)
nằm trên thềm lục địa Miền Trung và
hơn 160.000 km2, chồng lên những lô mà Việt
145 đến 156, và TC mời các tập đoàn quốc tế đến tham gia đấu thầu, thăm dò dầu khí.
Theo Reuters trong bản tin hôm 01/08/2012, “Bắc Kinh mở ra mặt trận này nhằm
áp đặt chủ quyền của mình trên vùng Biển Đông, song song với mặt trận ngoại giao và
quân sự.” Vào tháng bảy vừa qua, Vương Nghi Lâm, chủ tịch tập đoàn CNOOC đã tuyên
bố với báo chí rằng lời mời thầu họ đưa ra về 9 lô ngoài
khơi Việt
nhiều mối quan tâm từ các công ty Mỹ, dù từ chối cho biết đó là những công ty nào….
Mới đây, ngày 28/08/2012 , CNOOC đã loan báo một quyết định khác, mời quốc tế đấu
thầu thăm dò 26 lô dầu khí, đại đa số nằm ngoài vùng Biển Đông. Tuy nhiên, theo bộ
Ngoại giao VC, lô dầu khí mang ký hiệu 65/12 lại “nằm cách đảo Cù Mộc thuộc quần
đảo Hoàng Sa của Việt
- TC cảnh cáo, áp lực hay đe doạ các công ty dầu khí ngoại quốc đã, đang hay sẽ thăm
dò dấu khí trên thềm lục địa VN, và đòi hỏi các công ty đang hoạt động rút lui, như
công ty dầu Ấn độ ONGC đang tìm dầu tại các lô 127 và 128 trên thềm lục địa VN và yêu
cầu rút lui khỏi khu vực ấy, dù đã làm, đã hoạt động từ nhiều năm về trước…. Trước
đây, TC đã áp lực với các công ty của Hoa Kỳ, Anh, Ý, Nga v.v.
- Ngày 29 tháng 11, 2014 vừa qua, tỉnh đảo Hải
phủ ngoại quốc phải xin phép đến hành nghề trong vùng Hoàng Sa, nếu không sẽ bắt
giữ các thuyền đánh cá xâm nhập trái phép lãnh hải, truy tố và phạt các kẻ xâm nhập
tại toà án xây trên đảo Phú Lâm. Quyết định này có hiệu lực tứ 1 tháng 1, 14.
B. Bảo vệ Chủ Quyền
TC đã chính thức loan báo TC có quyền lợi cốt lõi trên Biển Đông. Với tuyên bố này, TC
coi Biển Đông là một phần lãnh thổ phải bảo vệ, kể cả bằng võ lực.
Vậy chúng trù liệu những gì để bảo vệ chủ quyền trên Biển Đông của VN
mà chúng chiếm đóng trước một tình thế mà cả thế giới chống đối, nhất
là từ Hoa Kỳ, để có thể giữ được phần lãnh hải này?
1). Quân sự hoá Tam Sa và lực lượng quân sự cơ hữu trong phạm vi
Hoàng Sa và Trường Sa được đặt dưới sự chỉ huy của Bộ Tư Lệnh quân sự của Thành
Phố Tam Sa. Các cơ sở quân sự cũng thuộc Bộ Chỉ Huy Tam Sa gồm kho tàng, phi
trường, hải cảng chiến cụ cùng với quân trú phòng đóng trên các đảo của quần đảo
Hoàng Sa, các kiến trúc kiên cố ở Phú Lâm, Lincoln, Hữu Nhật, Hoàng Sa, Quang Hoà,
Tri tôn, Cù Mộc … và trên các đảo của quần đảo Trường Sa, các kiến trúc được xây trên
các khu bãi đá Chữ Thập, bãi đá Vành Khăn, các đảo đá ngầm: Giác Ma, Chigua, Subi,
Hoa Lan, Châu Viên, Len Dao, Colin, ….
Đảo Phú lâm có diện tích lớn nhất trong quần đảo Hoàng sa và đang bị Trung Quốc
chiếm giữ, có một vai trò rất lớn vì dủng làm "bàn đạp" thâu tóm Biển Đông.
2). Hải quân TC nằm ngoài khu vực Tam Sa có nhiệm vụ bảo vệ toàn vùng. Căn cứ hải
quân Tam Á, phía
đối đầu với các lực lượng thù địch.
Với hai cầu tầu dài 800 m, đã xây xong, đủ cho 8 HKMH cùng đậu cùng một lúc, và 3
cầu tàu cho các tầu ngầm nguyên tử 094, Jin Class, trang bị hoả tiễn tầm xa, mang đầu
đạn nguyên tử, hay Song S-20 trang bị hoả tiễn Yingji-8 có thể tấn công HKMH đối
phương từ dưới đáy biển, căn cứ Tam Á có một hầm có thể chứa được 20 tầu ngầm
094, được dùng làm bàn đạp để yểm trợ các mũi xung kích cho cuộc
chiến. Hiện nay, chúng mới có 5 chiếc.
-Ngoài ra, để yểm trợ cho căn cứ Tam Á, TC vừa thành lập một lữ đoàn
hoả tiễn 827 ở tỉnh Quảng Đông. Theo United Daily News của Đài Loan số
ra ngày 02/07/2012 thì Lữ đoàn 827 này là một phần của chiến lược đối
phó với những nước tranh chấp chủ quyền Biển Đông với Bắc Kinh. 827
có các hoả tiễn Đông Phong, DF-21D và Đông Phong, DF -16. Hoả tiễn DF -21D là hoả
tiễn diệt chiến hạm, có tầm bắn từ 2000 đến 3000 km, có thể bắn trúng mọi mục tiêu
đang di chuyển, với độ chính xác rất cao. Còn DF- 16 là hoả tiễn mới, có tầm bắn 1.200
km, có thể tới Hà nội, vì chỉ cách xa 1,000km.
3). Hoạt động quân sự để bảo vệ chủ quyền.
-Ngày 31/7, đúng dịp kỷ niệm 85 năm ngày thành lập Quân đội giải phóng nhân dân,
Bộ Quốc phòng TC tuyên bố thành lập "một hệ thống tuần tra trực chiến" tại các vùng
biển "thuộc quyền tài phán" của TC, nghĩa là Biển Đông của Việt nam.
Đồng thời đài truyền hình Phượng Hoàng loan báo TC có các loại chiến đấu cơ cất cánh
từ căn cứ không quân trên đảo Phú Lâm như máy bay ném bom JH-7 và Su-30MKK của
Lực lượng Không Hải quân TC. Các phi cơ này sẽ được sử dụng để tiêu diệt mục tiêu
“gây hấn” trên phạm vi Biển Đông. Phượng Hoàng còn cho biết rằng với sự trợ giúp
của các máy bay tiếp nhiên liệu trên không, tầm tấn công của những chiến đấu cơ này
còn có thể “tiếp cận các căn cứ của Mỹ ở
Ngoài phi trường ra, một số hải cảng cũng sẽ được xây dựng thêm trên đảo Phú Lâm
và các đảo khác để yểm trợ hoạt động của các tàu hải quân cỡ lớn (bao gồm cả tàu khu
trục) được Bắc Kinh điều động đến Biển Đông làm nhiệm vụ giữ chủ quyền và bành
trướng.
Tàu vận tải chở khách lớn nhất TC có tên "chuỗi ngọc lục bảo Bố Hải" lớp Roro đã rời
cảng Yên Đài (một cảng nằm ở bờ biển phía đông TC) xuống phía
trang là “tàu dân sự” với trọng tải 36.000 tấn được thiết kế để có thể chở được quân
nhân và phương tiện quân sự hạng nặng. Tàu dài 178m, rộng 28m, có thể chở 2.000
quân và hơn 300 chiến cụ cùng lúc. Đây là chiếc tàu đầu tiên thuộc lớp này. TC đang có
kế hoạch đóng 3 chiếc cùng lớp. Theo lời của giám đốc Cục vận tải quân sự thuộc quân
khu Tế
và chiến cụ.
Tân Hoa Xã loan tin chiếc hàng không mẫu hạm Liêu Ninh đã trở về cảng ở Thanh Đảo
ngày 1 tháng 1 năm 2014, sau khi kết thúc 35 ngày « thử nghiệm và huấn luyện » đầu
tiên tại Biển Đông. Tháp tùng Liêu ninh có khu trục hạm, hội tống hạm với tàu ngầm
theo đội hình giống như đội hình di chuyển của HKMH Hoa Kỳ.
Thực chất của hoạt động này là để thị uy với các nước làng giầng, nhất là Cộng Hoà Xã
Hội Chủ Nghĩa Việt nam. Trong một bài viết cách đây khoảng 15 năm, tôi đã ghi nhận
Tung cộng còn dự trù xây dựng thêm 3 HKMH nữa để thành lập 2 hạm đội Biển Xanh
như chúng quảng cáo từ cuối thập niên 1990. Các HKMH này sẽ đồn trú tại căn cứ Tam
Á (Du Lâm), Hải
cơ sở thông tin viễn liên, tàu ngầm nguyên tử, kho đạn v.v., xem hình trong cuốn Chủ
Quyền Lãnh Thổ và Bành Trướng Bắc Kinh.
Ngày 01/07/2012 Tân Hoa Xã đưa tin Bắc Kinh đã bố trí bốn tàu hải giám tại đảo đá
ngầm mang tên Đá Châu Viên do Việt
mà phía TC gọi là đảo Hoa Dương, làm căng thẳng thêm tình hình tại Biển Đông. Đá
Châu Viên, tên quốc tế là Cuarteron Reef, là một bãi đá ngầm của quần đảo Trường Sa
bị quân TC chiếm đóng từ năm 1988, cùng với 5 đảo đá khác là Gạc Ma, Chiqua, Đá Ba
Đầu, Len Đảo và Colin. Châu Viên là một đảo san hô, phần cao nhất ở phía bắc, có độ
cao 1,5 m so với mặt biển. Kể từ năm 2011, TC đã cho xây dựng những pháo đài kiên
cố và sân bãi có thế chịu đựng được sức gió với vận tốc 71 hải lý/ 130 km giờ, tức cấp
10/12 theo thang sức gió Beaufort. Bắc Kinh còn trang bị các thiết bị thông tin cao tần
và siêu cao tần, radar cũng như đại bác dành cho hải quân và đại bác phòng không trên
đảo. TC có thể sử dụng đảo san hô này làm căn cứ cho các chiến hạm của họ.
Tháng 1 năm 2014, Bắc kinh loan báo sẽ cho một tàu Hải Giám 5,000 tấn đậu thường
trực tại Phú Lâm để đi tuần tra.
-------------
Với kế hoạch này, TC kéo dài hoạt động cả chục hay trăm năm, Biển Đông của Việt nam
sẽ trở thành lãnh hải của Trung cộng; cũng như Quảng Tây, Vân nam hiện nay chỉ là
một cái gì tồn tại trong ký ức của một ít dân Việt, rằng các nơi đó xưa kia là của Việt
nam. Kẻ đóng góp thành quả này cho Trung Cộng phải ghi nhận là công lao họ Hồ và
các thế hệ lãnh đạo kế tiếp của Đảng Cộng Sản Việt nam. Trước kia, dân tộc Việt mất
Quảng Tây, Vân
tồn của dân Việt mà mất, thì sẽ mất tất cả. Về vấn đề này trong một bài viết cách đây
nhiều năm, tôi đã nói rằng hàng chục triệu dân Việt từ Thanh Hoá xuống mãi tận Cà
mâu dưới sự lãnh đạo của Đảng CSVN nếu sinh sống bằng nghề đánh cá phải trở thành
con dân nhà Hán, treo cờ TC trên thuyền, sẽ được bình yên. Và rồi toàn thể dân tộc, đất
nước Việt nam cũng sẽ trở thành một bộ phận của Đại hán.
Đó là tội ác ghê gớm của chúng ./.
Cước chú:
1). Quân đội TC xây các bể hứng nước mưa tại ven phi đạo để chứa nước từ phi đạo
chảy xuống. Ngay sau khi phổ biến Phần I, một cựu sinh viên trường Cao Đẳng Quốc
Phòng gọi cho tôi. Trong điện đàm, tôi có nói đến vấn đề nước uống là nhược điểm
trầm trọng của quân đội Trung cộng tại Phần II, khi chúng xân dựng các công sự,
chiếm đóng các đảo của Việt nam như hiện nay. Vị này có khuyến cáo là Thủ Tướng VC
Nguyễn tấn Dũng nên hành động ngay. Cách đây không lâu , Dũng dám tuyên bố bảo vệ
lãnh hải. Với tàu ngầm Kilo trang bị hoả tiễn tối tân và với hoả tiễn siêu thanh đặt mua
cua Ấn Độ, VC có thể phá huỷ hết các kiến trúc quân sự khắp nơi một cách dễ dàng, và
tiêu diệt hết quân chiếm đóng bằng cách phóng một loạt hoả tiễn trong cùng một lúc.
Riêng về đảo Phú Lâm, chỉ cần phóng 6 hoả tiễn vào đoạn giữa phi đạo trên đảo Phú
Lâm, các bể chứa nước sẽ vỡ hết và quân trú phòng sẽ phải đầu hàng….Đạo quân “Dân
Quân Tự Vệ Biển” mà Quốc Hội VC lập ra cách đây 3 năm, chỉ việc tiếp thu các đảo ấy.
(2) Số 45 hội viên của Hội Đồng thành phố này chỉ là trò bịp bợm, đánh lừa quốc tế.
Quảng cáo này làm cho người ta có cảm tưởng rằng ở các quần đảo liên hệ có tới cả
triệu dân sinh sống nên có nhiều đại biểu như vậy. Thực tế trên đảo Phú Lâm chỉ có
doanh trại với các ngôi nhà trệt để quân đội đồn trú. Trên các đảo khác cũng chỉ có
quân nhân mà thôi. Không có nhà cửa cho dân sinh sống, và rất ít đường xá lưu thông
vì các đảo quá nhỏ.
(3) Văn phòng Thành Phố đặt trong toà nhà 2 tầng, là cơ sở của quân đội. Đó là 1 trong
2 toà nhà xây giống nhau được tuyên bố là văn phòng hành chánh để phục vụ dân
chúng.
(4) Việc làm như vậy đã xảy ra trước đây là một thí dụ. Năm 2000, VC và TC đã ký Hiệp
Ước Nghề Cá trong Vịnh Bắc Việt. Hiệp Ước có chia dôi vùng rõ rệt. Tuy nhiên, TC rất
tham lam, nên đòi được thêm ‘đánh cá chung’. Mọi người hiểu là mỗi bên mang tàu
bè vào lập thành một đội tàu biển để hành nghề trong vùng biển của phía bên kia, rồi
chia đôi. Sau khi chót ký rồi Quốc Hội VC không dám phê chuẩn, vì lẽ TC có nhiều đội
tàu cỡ lớn khoảng 200 Mã Lực hay hơn và lưới dùng để đánh bắt cá dài khoảng 60 hải
lý, do 2 tàu kéo ( trawlers) ở 2 đầu lưới để vét cá. Chỉ có Trung Cộng có các tàu ấy,
còn phía VC, thì chỉ có thuyền làm bằng gỗ. Ai cũng biết tàu như vậy là của TC. Một hay
nhiều hạm đội to lớn hành nghề như vậy trên Biển Đông sẽ bị quốc tế phanh phui. Vì
trì hoãn quá lâu, nên tháng 2 năm 2002 Giang Trạch Dân sang tận Hà nội đòi Nông đức
Mạnh phải cho Quốc Hội phê chuẩn để thi hành. Mãi tới 2 năm sau Quốc Hội VC mới
thông qua. So với Hiệp Ước phân chia lãnh thổ trên vùng biên giới, hiệp ước ấy được
phê chuẩn trong vòng 6 tháng sau khi ký.
Xem tiếp Phần III: Hoa Kỳ và An Ninh Á Châu