Nguyễn văn Canh
24 tháng 1, năm 2012 ( cập nhật 1 / 9, /13)
Giới hạn của bài này là nói về âm mưu bành trướng Bắc Kinh tại Á Châu. Biển Đông và một phần Thái Bình Dương là trọng điểm của âm mưu đó. Hoa Kỳ áp dụng các biện pháp gì để duy trì hoà bình và ổn cố trong toàn thể khu vực và thế giới trước các thái độ hung hãn của Bắc Kinh để thực hiện các âm mưu này sẽ được đề cập ở phần sau.
I. CON ĐƯỜNG HUYẾT MẠCH CỦA THẾ GIỚI QUA BIỂN ĐÔNG
- VÀI CON SỐ NÊU RA TẦM QUAN TRỌNG CỦA VÙNG NÀY:
- SỐ LƯỢNG TÀU VẬN CHUYỂN QUA VÙNG BIỂN ĐÔNG:
Văn phòng Thủ tướng Mã lai cho biết: mỗi năm, có
khoảng 100,000 chuyến tàu đi qua Biển Đông vào Ấn Độ Dương, chuyên chở
quá ¼ lượng hàng hoá trên tòan thế giới. Theo Bộ Ngư nghiệp Mã Lai,
riêng năm 2010, có trên 74,000 chuyến tàu di chuyển qua Eo Biển Malacca,
chuyên chở 30% hàng hoá trên tòan thế giới, ¼ số lượng dầu hoả, tương đương với 11 triệu
thùng dầu, mỗi ngày.
Con đường giao thông huyết mạch này rất quan trọng cho sự sinh tử của Nhật, Nam Hàn và Tàu về thương mại. Nam Hàn và Nhật còn tuỳ thuộc vào đó để nhập cảng dầu hoả.
- TRỊ GIÁ GIAO THƯƠNG: Tổng số trị giá hàng hoá chuyển qua Biển Đông hiện nay được ước lượng là 5 ngàn tỉ MK/ năm.
Trị giá giao thương riêng của Mỹ và Á Châu vào năm 2010: Qua Malacca là 1,300 tỉ, và trên toàn vùng vào năm 2014 được ước tính là 3,140 tỉ MK; Bộ trưởng Ngoai Giao Mỹ Hilary Climton cho biết Hiệp Ước Thương Mại Mỹ-Đại Hàn, năm 2011 tạo ra 70,000 việc làm.
II. ÂM MƯU ĐỘC CHIẾM BIỂN ĐÔNG & BÀNH TRƯỚNG TRÊN THÁI BÌNH DƯƠNG CỦA TC.
A. Quyền lợi cốt lõi trên Biển Đông:
- Tháng 3, 2010, Cui Tiankai, Thứ Trưởng Ngoại Giao, có mặt Đới Bỉnh Quốc, thuộc Quốc Vụ Viện TC, báo cho Jeffrey A. Bader and James B. Steinberg của Bộ Ngoại Giao Mỹ khi họ thăm Bắc Kinh ‘về quyền lợi cốt lõi của TC ở Biển Đông và quyền lợi này của TC tương đương với Đài Loan, Tây Tạng’ nghĩa là TC nay coi Biển Đông chính thức là tài sản của chúng.
- Tháng 5, 2010 tại Hội Nghị Đối Thoại Chiến Lược và Kinh Tế (ĐTCL & KT), ở Bắc Kinh, ngày 24-25, Đới Bỉnh Quốc nhắc lại tuyên bố ấy với Clinton rằng họ coi Biển Đông là quyền lợi cốt lõi của TC. Đó là thông điệp chính thức thông báo cho Hoa Kỳ biết rằng việc lưu thông qua Biển Đông phải có phép của chúng, cũng như khai thác tài nguyên như tìm dò dầu hoả trong vùng Biển này sẽ bị cấm chỉ.
- Ngày 19 tháng 8 năm 2013, khi đến thăm Mỹ, Bộ trưởng Quốc Phòng TC, tướng Thường vạn Toàn trong buổi họp báo tại Ngũ Giác Đài Hoa Kỳ nhấm mạnh: “Đùng có ai có ý nghĩ rằng Trung Quốc sẽ đánh đổi quyền lợi cốt lõi ấy của mình”.
Nhằm tiến tới mục tiêu trên, TC đã bỏ ra nhiều thập niên, nếu không nói là hơn nửa thể kỷ để chuẩn bị:
1). Thiết lập căn bản luật pháp đơn phương coi Biển Đông là tài sản của mình từ khi TC chiếm được Hoa Lục. Vào năm 1958, Chu ân Lai công bố một văn kiện nói rằng các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt nam thuộc chủ quyền của TC và Phạm văn Đồng gửi công hàm chấp thuận quan điểm ấy. Rồi có một Bản Đồ vẽ Biển Đông thuộc TC nhưng ranh giới chỉ nằm giữa Biển. Đến tháng 2 năm 1992, Quốc Vụ Viện TC ban hành một đạo Luật tuyên bố rằng các tầu khoa học, tàu quân sự đi qua Biển Đông phải xin phép, nếu không sẽ bị đánh chìm. Đến tháng 5 năm ấy, TC ký một khế ước với công ty dầu hoả Hoa Kỳ là Crestone có trụ sở ở Denver, Colorado về thăm dò và khai thác dàu khí tại một khu vực phía Nam Hoàng Sa, rộng 25, 000 cây số vuông. Tháng 6, 2006, chúng phổ biến lại một bản đồ khác là bản đồ 9 đoạn hay Lưỡi Bò để xác nhận chủ quyền. Đường ranh giới Bản đồ này được nới rộng hơn bản đồ cũ: về phía Tây nằm sát bờ biển Việt nam. Tháng 11 năm 2007, Quốc Hội TC tuyên bố thành lập huyện Tam Sa thuộc tỉnh Hải Nam. Huyện này là đơn vị hành chánh quản trị 3 quần đảo: đó là Hoàng Sa, Trường Sa và Trung Sa. Đây là hành vi sát nhập Biển Đông vào lãnh thổ Trung Hoa.
2). Hoạt động xác nhận chủ quyền trên Biển Đông của Việt nam:
- Vào năm 1956, TC mang quân xuống chiếm phần phía Đông quần Đảo Hoàng Sa là Khu Tuyên Đức. Năm 1974, chúng đưa một hạm đội xuống đánh chiếm khu Lưỡi Liềm, nằm về phía Tây quần đảo này. Lúc đó hải quân VNCH trấn giữ và cuộc giao tranh dữ dội đã xảy ra tại đảo Quang Hoà và Duy Mộng, nhưng không bảo vệ được lãnh hải này. Từ đó, quần đảo Hoàng Sa thuộc vào tay TC.
- Về Trường Sa, vào năm 1988, TC đưa 4 khu trục hạm xuống Trường Sa, bất thình lình bắn giết một toán công binh VC gồm 74 người, không võ trang, đang bơi lội chuyển đồ tiếp liệu và tiếp tế cho quân đội VC đóng trên đảo đá Gạc Ma. 64 nười bị giết ngay tại chỗ. Vào lúc này, TC chiếm 6 bãi đá hay cồn thuộc Trường Sa. Giữa thập niên 1990, vào năm 1994, Phi Luật Tân khám phá thấy có một kiến trúc bằng gỗ có cắm cờ TC, dựng tại một địa điểm phía Đông khu vực Đá Vành Khăn, gần Phi. Phi cử viên Thứ Trưởng Ngoại Giao sang TC, phản đối việc này. TC trả lời rằng đó là kiến trúc tạm thời để cho ngư dân của họ trú nắng, mưa, bão. Sau đó, Phi cho tàu hải quân ra, đătt chất nổ, phá huỷ kiến trúc ấy. Đến giữa thập niên 2000, nhiều kiến trúc quân sự, kiên cố mọc lên từ các bãi đá ngầm của Việt nam, như Khu Vành Khăn, Chữ Thập, một số khác, như Gạc Ma, Chigua… Cho đến nay, có hơn một chục công sự như vậy đã sừng sững mọc lên, khỏi mặt nước trong khu vực. Khoảng 16 bãi đá, cồn đã bị hải quân TC chiếm đóng. Tất cả nằm về phía Nam quần đảo Trường Sa. Từ 2007 trở về sau, TC gia tang cường độ hoạt động trên Biển Đông đặc biệt trên vùng Trường Sa để xác nhận chủ quyền của chúng: Tháng 7 năm 2007, tàu hải quân TC bắn chết một ngư dân Việt và đánh chìm vài thuyền đánh cá Việt đang hoạt động gần đảo Trường Sa của quân đảo Trường Sa trước sự chứng kiến của một tàu hải quân VC. Chúng cho hải quân tập trận, bắn đạn thật phía Bắc quần đảo Trường Sa. Chúng cho tàu Ngư Chính và các tàu hải quân nguỵ trang là tàu dân sự gia tăng tuần tra trên biển. Hàng năm, chúng cấm ngư dân Việt hành nghề trên vĩ tuyến 15 từ tháng 5 đến tháng 8, với lý do bảo vệ tài nguyên (của chúng). Trong vòng vài năm qua, thái độ và hành động của hải quân TC tỏ ra rất hung hãn. Tháng 9 năm 2010, thao diễn quân sự qui mô trên vùng bãi đá Chữ Thập. Chúng gia tăng hoạt động đe doạ và trấn áp, bắn giết ngư dân Việt khắp vùng trên 2 quần đảo này. Trong năm 2010, có đến 200 vụ bắt bớ ngư phủ Việt và giam tại các đảo Phú Lâm, Hữu Nhật, Lincoln, cướp hết hải sản, tịch thu các ngư cụ, đòi tiền chuộc mạng. Chúng ngược đãi như đánh đập, bắn chết ngư dân. Hung hãn hơn là ngày 25 tháng 6, năm 2011, chúng vào thềm lục địa cắt dây cáp, tàu Bình Minh 2 của công ti quốc doanh VC đang tìm dò dầu khí trên thềm lục đia VN, cách Đại Lãnh, Tuy Hoà, 120 hải lý; rồi 2 tầu lễ sau, ngày 9 tháng 6, chúng cắt dây cáp tàu Viking 2 của VC, cách hải cảng Vũng Tàu 140 hải lý. Trong tháng 7, có một tin cho biết chúng cho tàu vào kéo một tàu dò dầu khí của VC ra khỏi nơi đang hoat động trên thềm lục địa Việt nam, nhưng VC dấu nhẹm tin này. Rồi vài tháng sau đó, VC phổ biến tin và cho chiếu hình “tàu VC kéo Tàu TC” ra khỏi lãnh hải VN. Từ năm 2009, TC đe doạ công ty BPH của Anh đang khai thác khí đốt tại Nam Côn Sơn, doạ công ty ExxonMobil của Hoa Kỳ đòi chấm dứt khế ước khai thác dầu khí với VC. Tháng 7, 2011, Tầu đổ bộ Airavat của Ấn Độ đến thăm Nha Trang. Trên đường trở về, vừa mới rời khỏi Nha Trang độ 45 hải lý, tầu này bị TC điện báo cảnh cáo vì di chuyển trên lãnh hải TC mà không xin phép. Kế đó, vào tháng 9, TC phản đối công ty dầu ONCG của Ấn Độ thăm dò dầu khí hoạt động trên thềm lục địa Việt nam, dù tiếp tục thực thi khế ước đã có từ 2004...
Tất cả các hoạt động trên của TC được biện minh là ngư dân Việt, công ty tàu tìm dầu VC và ngoại quốc ….. đã vị phạm lãnh hải của TC.
- Với Phi Luật Tân, TC cũng có các hành vi tương tự: Vụ việc nghiêm trọng đầu tiên phải kể đến là vào ngày 25 tháng 2, 11 hai tàu cá của Philippines khi đang hoạt động cách đảo Palawan của Phi khoảng 140 hải lý đã bị một tàu chiến có hỏa tiễn điều khiển của Trung cộng dùng đạn thật bắn, đe dọa và đòi phải rời khỏi khu vực này ngay lập tức. Không lâu sau đó, vào ngày 2 tháng 3, 2 tàu hải giám khác của TC đã đe dọa và đòi một tàu thăm dò của Phi phải rời khỏi khu vực hoạt động gần Bãi Cỏ Rong ngoài khơi đảo Palawan.
- Với Mã lai Á, tàu hải quân TC cũng dùng đạn thật đe doạ ngư phủ Mã Lai trong hải phận nước này.
B. Bành Trướng Bá Quyền ngoài Biển Đông:
- Bản Đồ Đại Hán phổ biến năm 2010: toàn thể lục địa Á
Châu đều nằm trong lãnh thổ TC, gồm toàn vùng Đông Á, ngoại trừ Nhật Bản, Đông
Nam Á Châu, mà cả Trung Á như Ấn Độ, Pakistan, A Phú Hãn. 5 quốc gia nguyên
thuộc Khối Liên Bang Sô Viết, nằm về phía Đông bờ biển Caspian cũng thuộc lãnh thổ TC.
a) Tuyến phòng thủ “Chuỗi Đảo”: từ Nhật Bản xuống Phi. 4 quôc gia đồng minh của Mỹ là Nhật, Nam Hàn. Đài Loan và Phi nằm trong vành đai này để TC bảo vệ.
b) Phòng thủ “Viễn Dương”. Tuyến phòng thủ này bao gồm một khu rộng lớn từ Nam Dương qua Guam xuống đến Úc Châu. TC nới rộng vành đai phòng thủ là âm mưu chiếm toàn phần phía Tây Thái Bình Dương. Với tuyến phòng thủ này, TC bảo vệ chủ quyền trên toàn vùng Thái Bình Dương này và đẩy lui lực lượng Mỹ về phía Tây, tới Hawaii. Ngoài ra, TC còn một âm mưu bành trướng về phía Ân Độ Dương với ‘ xâu chuỗi Ngọc Trai’: 6 hải cảng nằm trong xâu chuỗi này, bắt đầu từ Cao Miên, bao trùm Miến Điện, qua Banglades, Sri Lanka, đảo Cocos, Maldives, đến Pakistan. Tham vọng kiểm soát sâu chuỗi này là giúp TC kiểm soát Ân Độ Dương và đi tới Phi Châu, Nam Mỹ. Quốc gia chính đóng góp cho âm mưu này là Miến Điện.
3) Phối hợp sức mạnh quân sự, kinh tế, chính trị để đối đầu với Mỹ ngõ hầu chiếm trọn Biển Đông và bành trướng trên Thái Bình Dương.
- Về quân sự: TC đã sản xuất được J20, Tầu ngầm JIN CLASS (094) HKMH Liêu Ninh, Đông Fong 21D; thiết lập căn cứ hải quân đồ sộ “Tam Á”ở Hải Nam với các kiến trúc quân sự đồ sộ trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa v.v
- Kinh tế & Tài chánh: Nhờ có nguồn ngoại tệ thặng dư to lớn được TC sử dụng để mua chuộc các lãnh đạo làm áp lực một số quốc gia ASEAN, đặc biệt là nhắm vào CHXHCNVN, Miên, Lào, Miến Điện để làm tay sai phục vụ mưu đồ bá quyền của Đại Hán.
III. PHẢN ỨNG VÀ CÁC ĐỐI PHÓ CỦA MỸ.
- Tại Hội Nghị ĐTCL & KT ở Bắc Kinh kể trên, Bộ trưởng ngoại giao Hillary Clinton rất lịch sự trả lời Đới bỉnh Quốc rằng “chúng tôi không đồng ý” (khi Đới nói thẳng rằng coi Biển Đông là quyền lợi cốt lõi.). Tuy nhiên, đến tháng 6,2010, Mỹ đã khai triển ý niệm của Clinton, tại Hội Nghị Đối Thoại Quốc Phòng Shangri-la, ở Tân Gia Ba, BT Quôc Phòng Mỹ, Robert Gates tuyên bố rằng “Biển Nam Trung Hoa không những quan trọng cho các quốc gia hải cận, mà còn cho tất cả các quốc gia có quyền lợi kinh tế và an ninh ở Á Châu, do đó tự do hải hành và phát triển kinh tế đựơc tự do, không bị ngăn cản, phải được duy trì. Chúng tôi không đứng về phe nào trong việc tranh chấp chủ quyền; nhưng chúng tôi chống lại việc sử dụng võ lực và các hành động làm cản trở tự do hải hành. Chúng tôi phản đối bất cứ nỗ lực nào nhằm đe doạ các công ty dầu hoả của Mỹ hoặc các công ty của bất cứ quốc gia nào tham dự vào hoạt động kinh tế chính đáng. Tất cả các bên phải làm viẽc với nhau để giải quyết các khác biệt bằng các nỗ lực hoà bình, đa phương phù hợp với luật pháp thông dụng quốc tế. Bản Tuyên Bố về Ứng Xử ký năm 2002 là một bước quan trọng đi về hướng này và chúng tôi hi vọng rằng công việc cần thực hiện một các cụ thể sẽ được tiếp tục.” Gates còn nhấn mạnh tới tự do lưu thông trên không, trên mặt biển của cả Thái Bình Dương. Như vậy, Mỹ coi các vùng này là tài sản chung của mọi người, dù không nói tới việc sử dụng sức mạnh để bảo vệ lập trường của Mỹ.
- Tháng 7, 2010, Bộ trưởng Ngoại Giao Hillary Cliton tuyên bố tại Hội Nghị ASEAN ở Hà nội, nhắc lại rằng Mỹ chia vấn đề khu vực này ra làm 2 là: vấn đề lưu thông và vấn đề tranh chấp chủ quyền các đảo trên Biển Đông.
- Về vấn đề lưu thông trên Biển Đông: Mỹ chủ trương Tự Do Lưu Thông. Mọi quốc gia đều có quyền tự do đi lại trên vùng biển này, không ai được ngăn cản. Clinton nói đây là quyền lợi quốc gia của Hoa Kỳ. Hoa Kỳ sẽ bảo vệ và có một chủ trương cứng rắn rõ rệt.
- Về vấn đề tranh chấp chủ quyền trên các
đảo. Mỹ không đứng về phe nào. Các quốc gia phải thương thảo một
cách hoà bình để xác nhận chủ quyền của họ, cấm sử dụng võ lực. Điều
này đã được chấp thuận từ năm 2002 khi các bên tranh chấp ký Bản Tuyên Bố Về
Cách Ứng Xử tại Cao Miên (DOC): các quốc gia ASEAN một bên và bên kia là TC. Mỹ
chủ trương thương
thảo đa phương để giải quyết tranh chấp về chủ quyền và đó là
chủ trương quốc tế hoá Biển Đông của Mỹ.
Để thực hiện chính sách của Hoa Kỳ qua tuyên bố của Bộ trưởng Quốc Phòng Robert Gates tại Shangri-la và Bộ trưởng Ngoại Giao Hillary Clinton tại Hà nội vào tháng 8, 2010 vừa kể, Mỹ đưa ngay Hàng Không Mẫu Hạm (HKMH) George Washington vào đậu tại bờ biển VN, cửa bể Đà nẵng, đối diện với căn cứ Tam Á của TC trên đảo Hải nam, dù có mời các sĩ quan hải quân VC lên thăm tàu, chơi thể thao, thực tập cứu nạn trên biển….Sau đó, Mỹ đưa ngay một HKMH thứ hai là Ronal Reagan đến Okinawa để tăng cường cho Hạm Đội 7. Đây là hành vi thị uy về sức mạnh để thực hiện các lời tuyên bố về quyèn lợi quốc gia của Mỹ.
Thực tế, Mỹ đã chuẩn bị từ nhiều năm trước. Người ta đã lưu tâm tới lời tuyên bố của Phó Tổng Tư Lệnh Quân Đội Giải Phóng Nhân Dân Trung Hoa với China News vào 7 tháng 4, 1992, tướng Zhang Xusan về nhiệm vụ hải quân TC yểm trợ công tác khai thác vùng biển này, gồm cả bảo vệ các đảo đang có tranh chấp trong vùng Trường Sa. Vào thời gian này, Phó Đô Đốc Zhang Lianzhong, Tư Lệnh Hải quân TC loan báo với China News Services rằng Quân Ủy Trung Ương ra lệnh cho hải quân phải sẵn sàng bảo vệ lãnh hải và vùng phụ cận, vì vậy với các khai thác kinh tế các vùng biển sâu, tình thế sẽ phức tạp hơn, và công tác chiến đấu bảo vệ biển sẽ trở thành khốc liệt. Âm mưu bành trướng của Bắc Kinh không chỉ dừng ở tại Biển Đông, ở toàn Á Châu, Thái Bình Dương và còn cả ở khắp nơi trên thế giới, ngay cả Hoa Kỳ. Trong những năm gần đây, người ta đã thấy có các bằng chứng này.
Ngay
từ giữa thập niên 2000, dưới thời TT Bush, Mỹ đã hợp tác với Ấn Độ: bãi bỏ cấm
vận kỹ thuật nguyên tử giúp để nước này sẽ làm đồng minh trong tương lai. Đến
nay, TT Barrack Obama đã có một kế hoạch
chi tiết hơn: Trong văn thư đề ngày 4 tháng 10, 2011 trả lời thư của ông Nguyễn
trung Châu, chủ tịch Tổng Hội Cựu Tù Nhân Chính Trị viết rằng “ Chính quyền của tôi đang sử dụng mọi thành
tố của sức mạnh quốc gia để duy trì quốc gia của chúng ta được an toàn, thịnh
vượng và tự do. Chúng tôi đã tái thiết lập quyền lãnh đạo của chúng ta trên thế
giới bằng cách củng cố các mối liên minh cũ, và tôi luyện các hợp tác mới để đối phó các
thách thức chung, như chặn đứng các cuộc tấn công của quân khủng bố, đảo ngược
cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu…..” Tư tưởng này đã được Ông Obama nhấn
mạnh tại Hội Nghị Thượng Đỉnh ASEAN, kỳ II, họp tại Nữu Ước tháng 9, 2010: “ Với tư cách Tổng Thống Mỹ, tôi minh bạch xác
nhận rằng Hoa Kỳ có mục tiêu đóng vai trò lãnh đạo ở Á Châu. Chúng tôi tăng
cường các liên minh cũ. Chúng tôi củng cố các hợp tác mới. Chúng tôi tái cam
kết với các tổ chức trong khu vực trong đó có ASEAN….”
Về hai Bản đồ:
1) Bản đồ chiến lược ‘phòng vệ’ của Mỹ trong thế “ Củng Cố Liên Minh Cũ và Tăng Cường Hợp Tác Mới” mà Obama nêu trong thư kể trên. Điểm chính trong chiến lược này là mỗi quốc gia phải lo tự vệ trong trường hợp kẻ bá quyền mang quân xâm lăng. Mỹ sẽ yểm trợ trong nỗ lực mà Mỹ lãnh đạo, và Mỹ không cần phải đưa quân tham chiến. Các quốc gia liên minh sẽ yểm trợ khi cuộc chiến xảy ra.
2) Và Bản Đồ các vị trí đóng quân và tiếp vận của Quân Đội Hoa Kỳ.
Hai bản đồ này cho thấy vòng vây mà Mỹ hình thành để kìm chế TC.
Lưu ý là khi nhìn vào 2 bản đồ này, người ta thấy ngay rằng VC không được đưa vào Liên Minh mà Mỹ thiết lập để bảo vệ và như vậy là mục tiêu tấn công của Mỹ. Mỹ coi VC là một thành phần (đồng minh) của TC, ở trong vị trí mà TC sử dụng làm bàn đạp để thực hiện mưu đồ bá quyền. Điều này rất dễ hiểu là tại sao Nguyễn minh Triết trước đây đã đến găp Tổng Thống Bush xin viện trợ tàu chiến. Thỉnh cầu này bị bác với lý do luật lệ Mỹ cấm viện trợ võ khí sát thương cho quốc gia Cộng Sản. Nay Obama cũng bác thỉnh cầu viện trợ quân sự do Trương tấn Sang đề nghị khi y xin đến Hoa Kỳ trong tháng trước, dù đề nghị của Sang ngầm ý là đứng về phe Mỹ. Lý do được viện dẫn kỳ này là VC vi phạm nhân quyền. Nếu Mỹ coi VC có một vai trò quan trọng trong chính sách của Mỹ kìm chế TC, thì Mỹ chớp ngay lấy cơ hội hiếm có này mà hợp tác. Trong các trường hợp này, Hành Pháp Mỹ chỉ cần đề nghị Quốc Hội cho phép miễn áp dụng điều khoản viện trợ võ khí sát thương, thì sẽ được thông qua một cách dễ dãi (như trường hợp Nguyễn minh Triết), hay tự động coi vấn đề nhân quyền không là quyền lợi ưu tiên của Mỹ nữa là đủ (trường hợp Trương tấn Sang). Thêm vào đó cung cách tiếp đón của các Tổng Thống Mỹ, với một nguyên thủ quốc gia, nhất là trường hợp Trương tấn Sang cũng là một tín hiệu rõ rệt.
Giải thích như thế nào về việc lãnh đạo cao nhất của ‘nhà nước’ đích thân đến xin viện trợ, nghĩa là hợp tác để trở thành đồng minh được bảo vệ, mà bị từ chối một cách rất ngoại giao theo văn hoá Tây phương này?
Có lẽ lãnh đạo VC nay đã lờ mờ mở mắt thấy được sự thật là chúng không được Mỹ coi là kẻ có vị trí quan trọng về địa lý và có sức mạnh đánh bại (thường tự kiêu) các cường quốc hàng đầu trên thế giới trong quá khứ mà Mỹ phải cần đến chúng và để trở thành đồng minh được bảo vệ như các quốc gia khác trong vùng. Cũng có thể vì bản chất phản phúc cố hữu của chúng, và nay lại tìm cách áp dụng đường lối đi dây, lợi dụng Mỹ để hưởng lợi, nên chúng bị Mỹ lịch sự gạt ra ngoài lề. Vì thế, trong tháng 8 vừa qua chúng vội vã cử Phạm đình Minh, và Phùng quang Thanh đi Manila để tìm cách hợp tác chống TC và cùng một lúc cũng tuyên bố hợp tác chặt chẽ với ASEAN đối đầu với TC để đạt COC về Biển Đông, thay vì công khai cam kết với TC thương thảo song phương như trước.
Điều quan trọng là lãnh đạo VC nay có vẻ ý thức được rằng việc ‘sắp hàng’ với TC kiểu này là điều nguy hiểm ngay cả đến tính mạng của chúng trong bất cứ tình thế nào, dù TC thắng hay bại thực hiện mục tiêu của chúng.
2. HỢP TÁC XUYÊN THÁI BÌNH DƯƠNG (TPP). Đây là một thoả hiệp toàn diện bao gồm tất cả các ‘lãnh vực’ chính yếu của nền tự do mậu dịch như trao đổi hàng hoá, xuất xứ hàng hoá, bồi thường trong mậu dịch, các biện pháp vệ sinh an toàn thực phẩm, cây cỏ vả súc vật, các rào cản kỹ thuật về thương mại, trao đổi dịch vụ, sở hữu trí tuệ, chính sách ‘cung cấp’ cho chính quyền dựa trên căn bản cạnh tranh. Đến năm 2015, sẽ gỡ bõ hết hàng rào quan thuế. Trong những cuộc đàm phán trước khi ký TPP, các đối tác đều thỏa thuận mục tiêu của TPP là tập hợp kinh tế các quốc gia thành viên – phát triển cũng như đang phát triển – thành một cộng đồng thương mại tự do duy nhất, không còn hàng rào quan thuế. Cộng đồng này sẽ gồm 800 triệu người, nắm 40% kinh tế thế giới với 2 nước chủ chốt là Mỹ và Nhật, siêu cường thứ nhất và thứ 3 trên thế giới.
Nhưng Mỹ cũng đặt điều kiện là các đối tác trong TPP:
- Phải tuân theo những quy định về mậu dịch, về xuất xứ hàng hóa, về rào cản kỹ thuật và về trao đổi dịch vụ.
- Những đối tác nằm trong TPP phải tôn trọng những luật lệ bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ và bảo vệ các sáng kiến và phải minh bạch trong chính sách cạnh tranh.
Cũng trong khuôn khổ TPP, những khế ước ký với các chính phủ phải có những điều
khoản
- Bảo vệ công nhân, bảo vệ môi trường và công việc làm phải phù hợp với nhân phẩm.
- Dòng giao lưu tự do của ngành thông tin (báo chí, truyền thông) cũng phải được khuyến khích.
Khó mà không thấy là TPP, tuy được coi là hậu thân của P4, nhưng thật ra chỉ là
sáng tác của Mỹ. TPP còn có mục đích ngăn chặn bành trướng Trung Quốc về kinh
tế và quân sự ở Tây Thái Bình Dương.
Tóm lại, Mỹ đặt điều kiện là các đối tác trong TPP phải tuân theo những quy định về mậu dịch, về xuất xứ hàng hóa, về rào cản kỹ thuật và về trao đổi dịch vụ. Những đối tác nằm trong TPP phải tôn trọng những luật lệ bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ và bảo vệ các sáng kiến và phải minh bạch trong chính sách cạnh tranh…..Có những ràng buộc rất kỹ đối với các đối tác. TC bị dồn vào thế lưỡng nan: Gia nhập thì hệ thống quốc doanh độc quyền dựa trên nền kinh tế thị trường tự do không còn tồn tại và đưa đến nguy cơ chế độ tan rã. Còn, đứng ngoài thì thèm, vì nhu cầu tiêu thụ hàng hoá, dịch vụ của 800 triệu dân trong khu vực quá hấp dẫn. Những gì qui định trong Hiệp Ước đều là những cái mà gian manh TC đang làm sẽ bị tuyệt đối cấm chỉ: từ gian lận trong thương mại, thực phẩm có chứa chất độc, ăn cắp sáng quyền, công nhân bị bóc lột, tù nhân “lao cải” sản xuất hàng hoá để xuất cảng, báo chí bị bịt miệng, đàn áp nhân quyền, tước đoạt tài sản của dân, quốc doanh độc quyền trong mọi lãnh vực, không có cạnh tranh, cấm cản tư nhân tham dự cuộc chơi… Chính nhờ thói gian manh cố hữu của con nhà Hán này mà TC có thặng dư mậu dịch với Hoa Kỳ. Năm 2011, thặng dư này xuống còn 160 tỉ MK (từ 270 tỉ năm 2010). Khi TPP bắt đầu thực sự hoạt động, thì hàng hoá, dịch vụ trong khối sẽ được tự do lưu thông. Lúc đó, hàng hoá và dịch vụ TC sẽ không còn được xuất cảng nhiều như trước nữa, mất một thị trường gồm 800 triệu dân, nhất là khó có thể xâm nhập vào khối này. Tình trạng này sẽ đưa TC vào thế lâm nguy: hàng trăm triệu công nhân sẽ không có việc làm, như trường hợp 300 triệu nông dân TC di cư đến các thị xã làm công nhân như hiện nay v.v. và đây bắt đầu một nguy cơ lớn về xã hội xảy ra ngay trong nội bộ TC, từ đó đi tới tan rã.
PHẢN ỨNG CỦA TC.
Ý thức được kế hoạch phản ứng của Mỹ rất qui mô và quyết liệt, và có tính cách toàn diện, nên tại Hội nghị Thượng Đỉnh Đông Á, ở Bali vào ngày thứ Bảy ( cuối tháng 11,12), Ôn Gia Bảo nhìn nhận rằng Ôn không nêu vấn đề “thương thảo đa phương về Biển Đông” tại Hội nghị dù ngày hôm trước Ôn con hung hăng tuyên bố rằng các thế lực bên ngoài đừng xen vào cuộc tranh chấp nội bộ các quốc gia ASEAN và TC. Ôn còn thêm rằng thật là “vô lễ nếu không đáp ứng các quan tâm của các quốc gia láng giềng của tôi về yêu sách này”. Yêu sách ấy là 17 trong số 19 nguyên thủ quốc gia tham dự Hội Nghị, về hùa với Obama, tự lên tiếng đòi hỏi giải quyết vấn đề Biển Đông bằng hội nghị đa phương, thay vì đơng phương như TC khăng khăng đòi hỏi từ trước đến nay. Hơn thế nữa, vào ngày 19 tháng 11, tại Hội Nghị, Ôn còn xin gặp riêng TT Obama để nói về vấn đề này. Tại sao Ôn gia Bảo lại có sự thay đổi đột ngột và có tính cách quị lụỵ như vậy? Đó là 17 trên 19 nguyên thủ quốc gia tham dự Hội nghị tự lập thành liên minh với Mỹ, và nhất là vì Obama tuyên bố 2 điều trước ngày hội ngh bắt đầu: Mỹ lập căn cứ quân sự ở Darwin để bảo vệ Đông Nam Á và đầu tháng 12 năm đó, cử Hillary Clinton sẽ thăm Miến Điện- một cử chỉ tiến tới lập liên minh với nước này.
IV. TÌNH HÌNH SẼ DIỄN BIẾN RA SAO?
Trong vài năm qua, TC đã thể hiện các hành vi hung hãn trong âm mưu bá quyền của chúng trên Biển Đông. Đây chỉ là bước đầu. Đi xa hơn, chúng còn chuẩn bị thực hiện hành vi “khoanh vùng” chiếm trọn Á Châu và đồng thời xác nhận chủ quyền trên toàn vùng phía Tây, Thái Bình Dương, đẩy lùi ảnh hưởng của Hoa Kỳ về Hawaii qua bản đồ Đại Hán và bản đồ với hai vành đai phòng thủ Thái Bình Dương.
Nhìn xa hơn, chúng còn mơ mộng đặt ách thống trị trên tòan thể thế giới và Hoa Kỳ là mục tiêu chính để tiêu diệt. Trở thành một cường quốc trên biển là bước khởi đầu. Hai con đường quan trọng giúp cho TC thực hiện âm mưu bá quyền trong giai đoạn này: Miến Điện với chế độ độc tài quân phiệt, một cửa ngõ tiến ra Ấn Độ Dương, với “Xâu Chuỗi Ngọc Trai” đã được phác hoạ, và Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt nam với Đảng CSVN đặt dưới sự khống chế của TC trở thành tay sai giúp quan thày kiểm soát Đông Nam Á, làm bàn đạp tiến xa hơn trong đó có cả Thái Bình Dương.
- Nay Miến Điện sáng suốt, nhìn thấy vấn đề và quyết tâm từ bỏ quyền lợi cá nhân của tập đoàn độc tài quân phiệt để hợp tác với Mỹ, và nước này đang chuyển đổi rất mạnh tiến tới dân chủ và như thế mắt xích trong xâu chuỗi này đã thấy bị vỡ và đứt đoạn. Ngoài ra, Hải cảng Iles Cocos ở ngoài khơi Miến Điện nay Mỹ đang xây dựng căn cứ hải quân ở đó. Con đường này đã rõ rệt đang vượt khỏi tầm tay của TC.
- Với VC, tập đoàn lãnh đạo Đảng CSVN gần như đã bị TC khống chế bằng nhiều thủ thuật khác nhau, nên không dám dứt khoát thoát khỏi nanh vuốt của Đảng CS Bắc Kinh, vì thế chúng đứng ở vị trí ‘nửa nọ nửa kia’. Tuy nhiên, vì quyền lợi riêng tư của nhóm lãnh đạo, chúng vẫn cam tâm thi hành mệnh lệnh của kẻ thù dân tộc với những động thái của những kẻ làm Thái Thú cho ngoại bang trong chính sách bành trướng của kẻ thù này: tiếp tục các nỗ lực dâng hiến đất đai, biển đảo, kể cả tổ quốc VN, trong khi đó hầu hết các quốc gia Đông Nam Á đã liên minh với Mỹ để bảo vệ chủ quyền và độc lập, chống lại Bá quyền bành trướng Bắc Kinh- một kẻ thù của các dân tộc trên thế giới độc ác, gian manh và tàn bạo. Liệu Đảng CSVN có cả gan và có khả năng tìm cách thoát khỏi vòng ‘cương toà’, nay đã dầy đặc và xen kẽ ở mọi cấp chính quyền VC, nhất là qua cơ cấu của Đảng CS VN mà quan Thày của chúng từ thời khởi đầu của Hồ chí Minh đã dày công xây dựng khắp nơi trên lãnh thổ VN qua mọi cấp trong nhiều lãnh vực sinh hoat quốc gia như hiện nay?
Với Mỹ, vòng vây kìm chế kẻ bá quyền Bắc Kinh càng ngày càng chặt. Trong tháng 11 năm qua, một căn cứ quân sự khác đuợc thiết lập tại Darwin, Bắc Úc Đại Lợi. Ngoài ra, một điểm cũng cần nhấn mạnh thêm trong lãnh vực tiếp vận: Mỹ có khả năng thiết lập các căn cứ tiếp vận nồi to lớn, trên biển để hỗ trợ cho một cuộc chiến ở xa; hải quân Hoa Kỳ tiếp tục cải tiến bằng các du nhập kỹ thuật cao vào các tầu chiến để thay thế cho thuỷ thủ đoàn “khổng lồ” mà trước đây vẫn được sử dụng để dành chỗ cho tiếp liệu ngay trong mỗi HKMH. Vào đầu thập niên 1980, một HKMH phải dùng tới 16,000 thuỷ thủ. Giữa thập niên đó, số thuỷ thủ rút xuống còn 6,000 người nhờ tiến bộ khoa học và kỹ thuật học; ngày ngay, chỉ cò 4,600 người và khả năng tác chiến cao hơn, vì võ khí tối tân hơn. Các HKMH này là một thành phố đồ sộ tự hoạt động trên biển trong nhiều tháng. Mỹ đang tiến tới sử dụng lại căn cứ quân sự tại Subic Bay. Tháng 8, 2013 Phi đã loan báo việc này. Các căn cứ quân sự cũ của Mỹ tại Á châu được củng cố như ở Nam Hàn, Nhật Bản, Đài Loan, Tân Gia Ba. Và Mỹ đã phát triển thêm căn cứ mới là Guam (1). Từ khỏang hơn 3 hay 4 năm về trước Hoa Kỳ đã biến đổi căn cứ quân sự này thành một căn cứ tiếp vận đồ sộ cho hải lực không quân. Hiện nay HK đã đưa ít nhất hai phi đội máy bay tiềm kích tối tân nhất đến đồn trú, chưa kể đến phi đội B52 có sẵn ở đó. Căn cứ tiếp vận đồ sộ này là nguồn tiếp liệu quan trọng về quân dụng và các loại võ khí. Ở đây tôi không đề cập tới võ khí trong kế hoạch phòng thủ SDI của Mỹ. Kế hoạch này đã làm cho Liên Bang Sô Viết sụp đổ vào ngày cuối thập niên 1980.
Trước sức tàn phá ghê gớm của sức mạnh quân sự của Mỹ, trong những năm tới, TC đi con đường nào? Chắc chúng không từ bỏ tham vọng. Chúng đang lựa chọn con đường “mềm” song song với sự phô trương sức mạnh, đồng thời tiếp tục bành trướng thế lực quân sự, gồm cả chiến tranh “tin học”, chờ đợi thời cơ, dù phải mất 50 năm hay hơn để hạ kẻ thù hàng đầu của chúng là Mỹ. Liệu tham vọng ấy có giúp chúng thành công không hay chính đó lại là nguyên nhân bị huỷ diệt?
--------------------------------------------------
(1) Bản đồ có các ngôi sao gồm các cứ điểm lập vòng đai bao vây của Mỹ nhằm triệt tiêu hai chiến lược khoanh vùng bành trướng của TC: a) phòng thủ ‘chuỗi đảo’ và phòng thủ ‘viễn dương’, b) chiến lược ‘xâu chuỗi ngọc trai’ ( phía Ấn Độ Dương).