Hà Vũ: "Ảo tưởng tổng bí thư" / Người Hà Nội: "Lý luận ABC chính trị"

15 Tháng Mười 20159:31 CH(Xem: 16946)

"BÁO VĂN HÓA-CALIFORNIA" THỨ SÁU 16 OCT 2015

Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng sẽ giải tán đảng CSVN để độc tài cá nhân

image054

Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng.

 

TS Luật Cù Huy Hà Vũ


VOA 11.10.2015

Từ hai năm trở lại đây, đặc biệt trước thềm Đại hội Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ 12 sẽ diễn ra vào đầu năm sau, 2016, từ trong nước đã lan tin này: “Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng một khi nắm chức Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam sẽ giải tán Đảng. Vì vậy, những người Việt Nam đấu tranh cho dân chủ cũng như Mỹ và các nước dân chủ phương Tây khác hãy ủng hộ Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng làm Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam”.

Phải nói rằng tin này là có cơ sở.

Sau khi Liên Xô và chế độ cộng sản ở các nước Đông Âu sụp đổ một cách ngoạn mục cách đây một phần tư thế kỷ thì ai cũng biết rằng sự cáo chung của các nước cộng sản còn lại gồm Trung Quốc, Triều Tiên, Việt Nam, Lào ở bán cầu Đông và Cuba ở bán cầu Tây chỉ còn là vấn đề thời gian. Do đó, để tránh né trừng phạt nghiêm khắc của nhân dân thì những kẻ có tài sản kếch xù gom trên xương máu của người dân và quốc gia trong ban lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam mà Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng là đại diện hẳn đã phải tính “đoái công chuộc tội” bằng cách đứng ra giải tán đảng cộng sản độc tài. Vả lại, một trong trong những đặc tính nổi trội của dân tộc Việt Nam là “đánh kẻ chạy đi chứ không đánh người chạy lại” đồng nhất với tha thứ cho những kẻ thủ ác biết sám hối kịp thời. Mặt khác, những kẻ này cũng hy vọng rằng với sức mạnh của khối tài sản kếch xù của mình sẽ còn tiếp tục cầm quyền ở Việt Nam hậu cộng sản.

Để tránh né trừng phạt nghiêm khắc của nhân dân thì những kẻ có tài sản kếch xù gom trên xương máu của người dân và quốc gia trong ban lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam mà Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng là đại diện hẳn đã phải tính “đoái công chuộc tội” bằng cách đứng ra giải tán đảng cộng sản độc tài

TS luật Cù Huy Hà Vũ.

Bên cạnh đó, việc một đảng cộng sản độc tài bị kết liễu bởi chính người đứng đầu đảng đó đã có tiền lệ với Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô Gorbachov.

Có thể nói có một bộ phận những người Việt Nam đấu tranh cho dân chủ hoan hỉ trước tin này vì nếu nó thành hiện thực thì chẳng những Việt Nam có cơ hội có được chế độ dân chủ - đa đảng mà còn có cơ hội “thoát Trung” để bảo vệ hiệu quả lãnh thổ và chủ quyền lãnh thổ cũng như chủ quyền kinh tế trước cuộc xâm lăng ồ ạt đa phương diện được phát động từ Trung quốc. Thực vậy, quan hệ ý thức hệ với Trung Quốc của Đảng Cộng sản Việt Nam đã và đang là nguyên nhân biến Việt Nam dần thành thuộc địa của láng giềng bành trướng phương Bắc này.

Về phần mình, Mỹ và các nước dân chủ phương Tây khác hẳn cũng bị kịch bản “Nguyễn Tấn Dũng giải tán Đảng Cộng sản Việt Nam để dân chủ hóa chế độ” quyến rũ bởi lẽ với các nước này loại bỏ càng sớm càng tốt chế độ cộng sản tự phong sứ mệnh “đào mồ chôn chủ nghĩa tư bản” dù ở nơi đâu luôn là mục tiêu đầu bảng.

Việc con gái Nguyễn Tấn Dũng là Nguyễn Thanh Phượng lấy công dân Mỹ Henri Nguyen, tức Nguyễn Bảo Hoàng, con của một cựu quan chức Việt Nam Cộng Hòa, càng làm cho Mỹ tin rằng Nguyễn Tấn Dũng thực sự muốn trở cờ, đập tan Đảng Cộng sản Việt Nam vốn là “bên thắng cuộc” trong chiến tranh Việt Nam.

Vì thế, việc chính quyền của Tổng thống Obama mới rồi đã quyết định cho Việt Nam gia nhập TPP trong khi đàn áp nhân quyền ở đây không hề giảm chỉ có thể là đòn bẩy cho Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng giành vị trí đứng đầu Đảng Cộng sản Việt Nam tai Đại hội 12 sắp diễn ra của đảng này.

Chả thế mà Hoàn Cầu Thời Báo, cơ quan ngôn luận của Đảng Cộng sản Trung Quốc, số ra ngày 25/1 năm nay, đưa ra nhận định: “Washington đã nhận ra tiềm năng của ông Dũng như một đại diện hiệu quả. Đại hội đảng lần thứ 12 có thể là cơ hội duy nhất cho ông Dũng lên nắm quyền lực tối cao. Mỹ có ý định ca ngợi thành công tại bàn đàm phán TPP là một trong những thành tựu lớn của ông Dũng”.

Mọi dấu hiệu cho thấy lộ trình “chính biến” của Nguyễn Tấn Dũng là như sau.

Trước hết, giành chức Tổng Bí thư Đảng.


Tiếp đó, giành luôn chức Chủ tịch Nước đồng nhất với Tổng tư lệnh các lực lượng vũ trang để chính danh vị trí nguyên thủ quốc gia và nhất là chính danh điều động quân đội. Thực vậy, trong các chế độ cộng sản Tổng Bí thư đảng cộng sản là người có quyền lực chính trị lớn nhất, tức nguyên thủ quốc gia nhưng không chính danh nên khi muốn điều động quân đội lại phải thông qua Chủ tịch Nước. Ngược lại, Chủ tịch Nước không thể điều động quân đội nếu không được phép của Tổng Bí thư đảng với tư cách Bí thư Quân ủy trung ương.

Cuối cùng, giải tán Đảng và tự cử làm Tổng thống thông qua một Quốc hội đã hoàn toàn bị tê liệt.

Nghĩa là tương tự những gì mà Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô Gorbachov đã làm.

Quan hệ ý thức hệ với Trung Quốc của Đảng cộng sản Việt Nam đã và đang là nguyên nhân biến Việt Nam dần thành thuộc địa của láng giềng bành trướng phương Bắc này

TS luật Cù Huy Hà Vũ.

Lẽ dĩ nhiên để thực hiện trót lọt lộ trình này, Nguyễn Tấn Dũng phải nắm được Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa 12, hay nói một cách cụ thể hơn, phải được đa số ủy viên Trung ương Đảng khóa này ủng hộ. Việc Nguyễn Tấn Dũng lật ngược thế cờ, thoát án kỷ luật của Bộ Chính trị do Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đề xướng bằng lá phiếu của Hội nghị Trung ương 6 họp tháng 10/2012 để rồi giành được số phiếu tín nhiệm cao nhất trong số các ủy viên Bộ Chính trị tại Hội nghị Trung ương 10 họp tháng 1/2015, đó chưa kể “kình địch” của Nguyễn Tấn Dũng là Trưởng Ban nội chính Trung ương Nguyễn Bá Thanh đã không được Hội nghị Trung ương 7 họp tháng 5/2015 bầu vào Bộ Chính trị cho dù được đích thân Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đề cử, cho thấy khả năng Nguyễn Tấn Dũng lũng đoạn Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa 12 là hoàn toàn hiện thực.

Còn vì sao đa số ủy viên Trung ương Đảng hiện nay cũng như đa số ứng viên cho Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa 12 đã và sẽ ủng hộ Nguyễn Tấn Dũng thì là vì phần lớn trong số họ là thành viên chính phủ, quan chức đầu tỉnh, tướng lĩnh công an, quân đội được Nguyễn Tấn Dũng trực tiếp bổ nhiệm, thăng cấp cũng như chia chác ngân sách Nhà nước để đút túi cá nhân. Bài “Bàn về “thị trường Sao và Vạch” đăng trên báo Người Cao Tuổi số ra ngày 1/4/2014 đã cho thấy mua quan bán chức trong lực lượng vũ trang Việt Nam đã trở thành quốc nạn như thế nào.

Trên thực tế, từ khi nắm chức Thủ tướng vào năm 2006, Nguyễn Tấn Dũng đã ký quyết định phong tướng cho hàng trăm người, lập kỷ lục về số lượng tướng được phong trong chưa đầy một thập kỷ, một kỷ lục cho đến tan cả đất trời không chắc bị phá! Mà lực lượng được coi là “rường cột quốc gia” còn bị thị trường hóa đến như thế thì nói gì đến các cơ quan Nhà nước khác! Cũng cần nói thêm rằng ngay cả các ủy viên Trung ương là bí thư thành ủy, tỉnh ủy tưởng chừng ít chịu chi phối của Nguyễn Tấn Dũng thì phần lớn trong số họ ngay trước đó đã là cấp trưởng, cấp phó chính quyền địa phương.

Ngoài ra, với tư cách tham quan – “con sâu” theo diễn đạt của Chủ tịch Nước Trương Tấn Sang - gắn liền với hàng loạt tệ nạn phái sinh khác, các ủy viên Trung ương Đảng này chắc chắn đã hoặc sẽ bị Nguyễn Tấn Dũng khống chế không mấy khó khăn bằng Bộ Công an và Tổng cục tình báo quốc phòng (Tổng cục 2 – Bộ Quốc Phòng) là “công cụ ruột” của Dũng.

Tóm lại, trong thể chế cộng sản nơi mà pháp luật đồng nhất với kiểm soát quyền lực được bày ra chỉ để lừa bịp thiên hạ thì kẻ nào nắm giữ các nguồn lực quốc gia, kẻ đó nắm sinh mạng của quan chức thối nát theo cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Để nói Nguyễn Tấn Dũng có thể nói là chắc xuất Tổng Bí thư tại Đại hội 12 của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Mặc dầu vậy, người viết bài này khẳng định rằng tất cả những ai, từ những người Việt Nam đấu tranh cho dân chủ cho đến Mỹ và các nước dân chủ phương Tây, nếu tin vào kịch bản “Nguyễn Tấn Dũng giải tán Đảng Cộng sản Việt Nam để dân chủ hóa chế độ” thì đúng là đang tự biến mình thành thực khách của “quả lừa thế kỷ”!

Thực vậy, mục tiêu giải tán Đảng Cộng sản Việt Nam của Nguyễn Tấn Dũng không nhằm thiết lập thể chế dân chủ - đa đảng với một Nhà nước “tam quyền phân lập” thực sự “của Dân, do Dân, vì Dân” mà là nhằm thiết lập chế độ độc tài cá nhân trộn lẫn gia đình trị để tối đa hóa cướp đoạt tài sản của nhân dân và của quốc gia.

Chỉ cần so sánh những gì Nguyễn Tấn Dũng nói và những gì Nguyễn Tấn Dũng làm cũng đã đủ cho thấy không cách gì Việt Nam có dân chủ với con người này.

Trong Thông điệp đầu năm mới 2014 của Thủ tướng, Nguyễn Tấn Dũng đã không tiếc lời tụng ca dân chủ, pháp quyền. Nào là “Đổi mới thể chế và phát huy mạnh mẽ quyền làm chủ của Nhân dân”, nào là “Dân chủ cũng là xu thế khách quan trong tiến trình phát triển của xã hội loài người”, nào là “Dân chủ và Nhà nước pháp quyền là cặp ‘song sinh’ trong một thể chế chính trị hiện đại”, nào là “Người dân có quyền làm tất cả những gì pháp luật không cấm và sử dụng pháp luật để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Cơ quan nhà nước và cán bộ, công chức chỉ được làm những gì mà pháp luật cho phép. Mọi quyết định quản lý của Nhà nước đều phải minh bạch” vv…vv

Rồi ngày 15.10.2014 tại Viện Körber ở Berlin, Đức, Nguyễn Tấn Dũng tiếp tục lớn tiếng: “Chúng tôi tin rằng nhân quyền, tự do, dân chủ là xu hướng không thể đảo ngược và là đòi hỏi khách quan của xã hội loài người. VN không phải ngoại lệ, không đứng ngoài xu thế này.” Thế nhưng chỉ sau đó có 2 tháng, ngày 21/12/2014, Nguyễn Tấn Dũng chỉ thị cho ngành Công an "nắm chắc tình hình, không để xảy ra hình thành tổ chức chính trị đối lập trong nước"!

Trên thực tế, chỉ tính từ Thông điệp “dân chủ” 2014 của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đến nay đã có hàng loạt blogger và bất đồng chính kiến bị bắt giam và khởi tố theo các điều 79 (Hoạt động nhằm lật đổ chính quyền), 88 (Tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam) và 258 (Lợi dụng các quyền tự do, dân chủ để xâm phạm lợi ích của Nhà nước…) Bộ Luật Hình sự, những điều luật đã bị cả thế giới dân chủ lên án là những điều luật mơ hồ dùng để đàn áp bất đồng chính kiến. Đó là Ba Sàm - Nguyễn Hữu Vinh và trợ thủ Nguyễn Thị Minh Thúy (Điều 88), Người Lót gach - Hồng Lê Thọ, Bọ Lập - Nguyễn Quang Lập, Nguyễn Ngọc Già – Nguyễn Đình Ngọc (Điều 258), nguyên tổng biên tập Người cao tuổi Kim Quốc Hoa (Điều 258), Trần Anh Kim (Điều 79). Bên cạnh đó, các vụ chính quyền dùng công an mặc thường phục và côn đồ để đánh đập dã man những người đấu tranh cho nhân quyền và dân chủ cũng như những “dân oan”, nạn nhân của các vụ chính quyền cướp đất, gia tăng chóng mặt!

Đó là nói về “dân chủ” của Nguyễn Tấn Dũng trong lĩnh vực chính trị. Còn “dân chủ” của Nguyễn Tấn Dũng trong lĩnh vực kinh tế thì sao?

Mục tiêu giải tán Đảng cộng sản Việt Nam của Nguyễn Tấn Dũng không nhằm thiết lập thể chế dân chủ - đa đảng với một Nhà nước “tam quyền phân lập” thực sự “của Dân, do Dân, vì Dân” mà là nhằm thiết lập chế độ độc tài cá nhân trộn lẫn gia đình trị để tối đa hóa cướp đoạt tài sản của nhân dân và của quốc gia.TS luật Cù Huy Hà Vũ.

Nguyễn Tấn Dũng về cơ bản đã thâu tóm doanh nghiệp Nhà nước khi đặt dưới sự điều hành trực tiếp của Thủ tướng khoảng hai chục Tập đoàn,Tổng Công ty lớn nhất vốn trực thuộc các Bộ. Tất nhiên việc thâu tóm này là để Nguyễn Tấn Dũng tối đa hóa và đơn giản hóa tham nhũng ngân sách Nhà nước. Thực vậy, Nguyễn Tấn Dũng vừa là đại diện Nhà nước cấp vốn cho các “đại doanh nghiệp Nhà nước” này vừa là người trực tiếp quản lý chúng thì việc biến của công thành của tư là chuyện không phải bàn bởi làm sao có chuyện tay này kiểm soát được tay kia! Thế nên mới có chuyện Vinashin, Vinalines – chỉ hai trong số các “quả đấm thép” của Thủ tướng cũng đã làm thất thoát số tiền hơn 6,5 tỷ USD …

Bản thân người viết bài này trong bài “30-4-1975: Giai nhân và quái vật” gửi từ trong nhà tù ra và được Bauxite Việt Nam đăng ngày 30/4/2013 dưới tên Sơn Văn (đối chữ từ Hà Vũ, do Bauxite Việt Nam đặt) đã vạch rõ bản chất làm nghèo đất nước này: “Nhà nước vừa là người quản lý đồng nhất với giám sát, kiểm soát tài sản quốc gia vừa là người sử dụng tài sản ấy, tức là làm cái chuyện “vừa đá bóng vừa thổi còi” theo cách nói dân gian. Nói cách khác, nhà nước không phải chịu bất cứ sự giám sát, kiểm soát nào trong việc sử dụng tài sản quốc gia và chính lỗ hổng thể chế này đã tạo ra tham nhũng - tham nhũng thể chế!”

Vấn đề cuối cùng là nếu như giải tán Đảng cộng sản Việt Nam là cốt lõi của cương lĩnh không công khai cho tranh cử Tổng Bí thư Đảng của Nguyễn Tấn Dũng thì liệu một sự đoạn tuyệt ý thức hệ cộng sản như vậy có giúp Việt Nam “thoát Trung”?

Giáo Sư Carl Thayer, trong bài “Yếu tố Trung Quốc của Việt Nam” (Vietnam’s China factor), đăng trên APPS Policy Forum tháng trước, cho rằng một trong những yếu tố giúp Nguyễn Tấn Dũng trở thành Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam tại Đại hội 12 là “ông Dũng đã thẳng thắn bảo vệ chủ quyền Việt Nam trong cuộc khủng hoảng giàn khoan năm ngoái và nêu lên khả năng sẽ thực hiện các hành động pháp lý quốc tế chống lại Trung Quốc”.

Thế nhưng, như chúng ta đã thấy, hơn một năm trôi qua nhưng tuyệt nhiên không có đơn của chính phủ Nguyễn Tấn Dũng kiện Trung Quốc ra trước Tòa án của Liên Hiệp Quốc như Philippines đã làm trong khi ngày càng rầm rộ các hoạt động bồi đắp và xây cất công trình quân sự của Trung Quốc trên các đảo thuộc Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam mà nước này đã đánh chiếm. Nhưvậy, chủ quyền và lãnh thổ quốc gia rõ là đã bị Nguyễn Tấn Dũng hy sinh cho quan hệ vụ lợi của bản thân với Trung Quốc như đã từng thể hiện qua vụ Bauxite Tây Nguyên…

Kết luận lại, Nguyễn Tấn Dũng có giải tán Đảng Cộng sản Việt Nam thì cũng chỉ thay thế chế độ độc tài tập thể của đảng này bằng chế độ độc tài cá nhân trộn lẫn gia đình trị của bản thân Nguyễn Tấn Dũng. Do đó, dân chủ hóa Việt Nam gắn với “thoát Trung” chỉ có thể đạt được bằng một cuộc cách mạng bất bạo động của toàn thể người Việt Nam trong và ngoài nước với sự ủng hộ mạnh mẽ của lương tri dân chủ toàn thế giới.

*Các bài viết được đăng tải với sự đồng ý của Đài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ


image055

TS Luật Cù Huy Hà Vũ


Tác giả là một nhà bất đồng chính kiến và tù nhân chính trị Việt Nam, đã hai lần khởi kiện Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng về các quyết định trái Hiến pháp và pháp luật, hiện là học giả tại Đại học Northwestern, Hoa Kỳ.

+++++++++++++++++++++++++++++++++

Người Hà Nội: ABC chính trị!

Thử đi tìm cái nhầm lẫn GỐC về triết lý

Trong Chủ nghĩa tư bản (CNTB) thì mọi người luôn được tự do cạnh tranh tìm tòi cái mới để sáng tạo, phát triển, nên xã hội ngày càng giầu có văn minh hạnh phúc. Ai thông minh, tài giỏi, chăm chỉ cần cù, được học hành, hoặc có điều kiện thuận lợi hơn thì sẽ giầu có hơn, trở thành ông chủ; Cũng là một lẽ đương nhiên rằng, giai cấp tư sản, vì tài giỏi, nên khi được tự do cạnh tranh thì đã giành được quyền làm chủ lãnh đạo xã hội. Ai không được như vậy, thì đi làm thuê, làm công nhân, dân thường. Đó là mặt được – công bằng tự nhiên - của CNTB. Mặt xấu xa của CNTB là các ông chủ TB bóc lột quá cái mức mà người công nhân có thể chịu đựng được (như Các Mác đã miêu tả trong quyển “Tư bản”) và đã từng tự do cạnh tranh đi quá đà tạo ra chủ nghĩa thực dân, đế quốc, phát xít trên thế giới.

Vì mấy thế kỷ trước đây, giai cấp chủ tư bản giầu có đã bóc lột giai cấp công nhân quá tàn bạo, không còn tình người, nên trên thế giới đã xuất hiện một cách tự nhiên những ý tưởng muốn làm dịu bớt, thậm chí xóa bỏ những hiện tượng bóc lột tàn tệ giữa con người với nhau, xây dựng một xã hội tự do bình đẳng, không có hiện tượng người bóc lột người, tất cả đều hạnh phúc sung sướng. Nổi trội nhất của xu hướng nhân đạo này là Chủ nghĩa Cộng sản của Các Mác (người của nước Đức văn minh đấy nhé). CNCS chủ trương đấu tranh lật đổ nền thống trị của người giầu – giai cấp tư sản, lập nên nền thống trị của người nghèo – giai cấp công nhân. Từ đó một nghịch lý quan trọng đã nổ ra: Đã là nghèo, tức do không đủ thông minh, ít sáng tạo, thiểu năng trí tuệ hơn do ít được học hành, thậm chí vốn lười nhác mà lại dùng bạo lực cướp quyền lãnh đạo, “tiêu diệt” người giầu để lên lãnh đạo, cuối cùng vì vậy đã làm xã hội lộn xộn, điên loạn, phản phát triển, dẫn xã hội vào ngõ cụt, tương tự hiện tượng một “Ô sin” dùng vũ lực tước đoạt quyền làm chủ của một người chủ giầu có.

            Vì trong xã hội theo CNCS, nơi quyền lãnh đạo thuộc giai cấp công nhân, vốn đã thiểu năng trí tuệ, thậm chí ngu dốt, nên luôn phải theo dõi kìm kẹp con người không cho họ được tự do cạnh tranh sáng tạo vì sợ nếu để như thế lại xuất hiện các nhà Tư bản tranh mất quyền lãnh đạo của mình, do đó xã hội trở nên mất dân chủ, trì trệ, thậm chí lụn bại, hơn thế, vì trong điều kiện bị chặn mất quyền tự do cạnh tranh phát triển lành mạnh đó, nên cái bản chất tham sân si của con người nói chung, cả dân – và quan – dưới chính quyền CS đó họ buộc phải chuyển sang hướng khác là giả dối, mưu mẹo, thủ đoạn gian ác để thực hiện được lòng ham muốn, lòng tham của con người. Nói khác đi: CNCS đã vô tình chuyển xã hội từ chế độ vua quan phong kiến – độc tài bóc lột ở dạng cá nhân – sang chế độ “độc đảng toàn trị” – tức là chế độ “Vua tập thể”, dùng quyền lực cả tập thể lãnh đạo để đảm bảo quyền lợi, thậm chí tham nhũng bóc lột nhân dân dưới cái nhãn mác (mục đích có thật) ban đầu là “giải phóng nhân dân lao động”. Đó thực sự là một sự lừa gạt số đông. Nghe và đi theo CNCS là vô tình bị lừa gạt, vì chính tác giả của CNCS (Các Mác, Anghen và Lê nin) cũng là người ngộ nhận, và Mác và Anghen đã tự từ bỏ CNCS rồi. Tuy vậy, đã làm gần ½ thế giới bị ngộ nhận, bì lừa gạt.

            Đức Phật đã nói rất đúng: “Kẻ thù lớn nhất của mỗi đời người là chính mình”. Tư bản bóc lột quá đáng là không ổn, sẽ bị người nghèo nổi dậy đấu tranh lật đổ, cướp chính quyền. Còn người nghèo đã đấu tranh giai cấp mù quáng không biết điều, đòi nhẩy lên cầm quyền, nên cũng chết do bế tắc vì không có khả năng tổ chức làm ăn để cạnh tranh với thế giới (nên đã chui vào một con đường sai lầm bế tắc khác, như đã phân tích, như Liên Xô và Đông Âu trước đây).

Chủ nghĩa Xã hội Dân chủ (XHDC), dẫn đầu là khối các nước Bắc ÂU, là dạng thể chế chính trị chọn phương án nằm giữa chế độ TBCN và chế độ CSCN: Người tài giỏi, tức Tư bản, vẫn được nắm chính quyền, như một lẽ tự nhiên, nhưng giai cấp công nhân được cử người đại diện của mình vào ban lãnh đạo chính quyền để đấu tranh có trật tự hợp lý ôn hòa cho quyền lợi của giai cấp mình. Giai cấp tư sản Bắc Âu đã chấp nhận điều đó, bóc lột lợi nhuận vừa phải, đời sống giai cấp công nhân cũng được cải thiện . . thậm chí cũng trở nên giầu có, tuy it hơn, và giầu lên chậm hơn giai cấp tư bản.

            Hiện nay các nước tư bản Bắc Âu (Phần lan, Thụy điển, Na uy, Đan mạch, Hà lan . .) là đang ổn định, hòa bình, phát triển hạnh phúc nhất thế giới. Bởi rất vô tình, ngẫu nhiên, các nước Bắc Âu đã làm giống ý kiến của Đức Phật Thích ca. Còn phần lớn các nước Tư bản phương Tây đã có bước tiến lên văn minh rất rõ rệt sau khi Chủ nghĩa thực dân, Chủ nghĩa đế quốc và Chủ nghĩa phát xít (đều do Tư bản phương Tây “sáng tạo” ra cả), đặc biệt là sau thất bại Thế chiến II năm 1945.

            Việt Nam ta có cái khác rất lớn: Nước ta, một nước phong kiến nông nghiệp lạc hậu (sự bị lạc hậu trước tháng 9 năm 1945 đó rõ ràng không phải do đảng Cộng sản !), nên chưa có giai cấp công nhân, bị thực dân Pháp xâm chiếm, bóc lột. Chúng ta đấu tranh với giặc ngoại xâm (Phong kiến phương Bắc và Thực dân phương Tây) vì độc lập, thống nhất đất nước, chứ chưa đến giai đoạn đấu tranh giữa giai cấp công nhân và giai cấp tư sản ngay trong nước ta. Vì vậy, mấy người miền Trung của nước ta (như Trần Phú, Hà Huy Tập, Nguyễn Thị Minh Khai . . ) dẫn đầu nhập cảng CNCS vào để “đấu tranh giành độc lập dân tộc” (điển hình là Xô Viết Nghệ tĩnh đã thất bại) là một sự thiếu am hiểu. Còn sau khi Nhật Pháp đều thua đồng minh, nhân dân ta lợi dụng thời cơ giành được độc lập năm 1945, Pháp trở lại đánh chiếm nước ta, Mỹ lại nhẩy vào can thiệp . . .là cả một sự phức tạp tầm quốc tế liên quan giữa các phe phái “ý thức hệ”, mà Việt Nam, do thiểu năng trí tuệ, nhiều nhầm lẫn, chúng ta đã là nạn nhân của cuộc đấu tranh giữa cả 2 cái loại thể chế cực đoan TBCN và CSCN nói trên từ phương Tây tràn vào, có nghĩa là bị lôi cuốn, giằng kéo mất chủ động đi từ thái cực này sang thái cực kia, hoặc bị động chưa nhận rõ ra bản chất của cả hai thái cực. Trong khi đó, các thế lực tàn bạo trên thế giới lợi dụng (lôi kéo, giúp đỡ, ủng hộ hoặc đe dọa, chống phá) dùng cuộc đấu tranh chính nghĩa vì độc lập của Việt nam làm PHƯƠNG TIỆN và “bãi chiến trường” để đạt những mực tiêu tranh giành lợi ích đen tối tàn bạo kéo dài của họ.

            VIỆT Nam chúng ta cần nhận rõ BẢN CHẤT CỦA VẤN NẠN QUỐC GIA nói trên. Nếu ngay từ đầu, sau Cách mạng tháng 8 năm 1945, mà thực dân Pháp không quay lại xâm chiếm VN lần thứ 2, để yên cho Việt Nam từ chế độ phong kiến vươn lên xây dựng nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa theo mô hình TBCN phương Tây, như VN đã công bố với thế giới ngày 2 tháng 9 năm 1945, thì VN đã khác xa bây giờ rồi. Có thể nói: Theo Mác và Lê nin, các nước Tư bản tiên tiến nhất, tức là đã có năng suất lao động cao nhất và chế độ tự do dân chủ cho cá nhân của họ cũng đã phát triển đến hết mức, đến giới hạn tột đỉnh của nó rồi, thì nhân dân họ phải đấu tranh để chuyển lên xây dựng chế độ Tự do Dân chủ cho toàn Dân (dù dân giầu hay dân nghèo), tức là lên Chế độ “Hậu tư bản” (mà Mác gọi là Chế độ XHCN). Còn với Việt Nam, nếu muốn tiến lên Chủ nghĩa Hậu tư bản (tức “CNXH”) thì theo học thuyết Mác, trước đó Việt nam từ chế độ phong kiến phải tiến lên Tư bản Chủ nghiã trước đã.

            Nói cách khác, do hoàn cảnh và lịch sử để lại, nước ta không thể bỏ qua phát triển chế độ TBCN được, ví dụ tương tự, chúng ta hiện nay mới hết cấp II (vì mới tập tọe đi vào cơ chế thị trường của “Tiền tư bản chủ nghĩa” để được vào WTO), nên hãy học hết cấp III đã (để trụ được trong TPP đã),sau đó hãy nghĩ đến việc phấn đấu lên đại học và làm đốc tơ (tiến lên hậu Tư bản CN) như các nước Tư bản văn minh phương Tây.

            Chúng ta không thể theo TQ được, bởi họ có thể dùng sức mạnh bạo lực để dàn xếp sự lệch lạc trong tiến hóa theo quy luật tư nhiên của Nhân loại, và xem ra, họ sẵn sàng trả giá cho sự khác biệt với quy luật chung ấy…

            Tất cả những gì đã xẩy ra rất lộn xộn, đau khổ, tan nát, tàn khốc và chia rẽ cùng cực trên đất nước ta suốt từ năm 1947 cho đến 30 tháng 4, 1975, chính là từ khi Pháp bắt đầu nổ phát súng đầu tiên hòng chiếm lại VN ta lần thứ 2 . Pháp muốn chiếm lại VN, nên chính họ phải lập ra – và giúp lập ra -  chính phủ VNCH để giúp họ thực hiện mưu đồ xâm lược đó. Nên khi không cần, là họ thủ tiêu (ông Diệm), hoặc không nuôi dưỡng ằng đô la nữa (ông Thiệu).Chính phủ Hà Nội năm 1946 sang tận Pháp đàm phán, vật nài mãi để vào Liên hiệp Pháp không được, nên VN muốn chống lại xâm lược của Pháp, đành phải nhờ vào Trung Quốc và Nga Xô. Dưới trướng của Tư bản Pháp và Mỹ giầu có, lại triển khai Cơ chế thị trường TBCN thì đương nhiên   Miền Nam VN giầu có hơn Miền Bắc VN là cái lẽ dễ hiểu. Miền Bắc buộc phải dựa vào mấy nước CS Tầu và Nga còn nghèo để làm chiến tranh, lại theo chế độ CS (đặc tính dở hơi như đã mô tả ở trên) nên khó khăn chật vật trong cuộc sống là cái đương nhiên. Cái quan trọng là lòng yêu nước, quyết tâm giải phóng dân tộc và thống nhất đất nước – đó là điều khác với 2 nước Đức trước kia và 2 nước Triều Tiên hiện nay. VN đã tự làm lấy việc thông nhất đất nước, còn Đức là do Liên Xô tan rã nên mới thông nhất lại được, Triều tiên thì đến nay vẫn còn chia đôi và đang còn sung đột Nam – Bắc. Cái giá mà VN phải trả để đạt được độc lập thống nhất sớm hơn, nên nó “đắt” hơn cái giá mà nước Đức và 2 nước Triều tiên đã và đang phải trả chính là ở chỗ đó. Những gì đã và đang bôi nhọ “CSVN” chỉ là sự hiểu nhầm, và một phần là sự cay cú vì đã thua mà thôi. Còn các nước Tư bản văn minh họ đã hiểu hết vấn đề sai lầm thủa xưa rồi.

            Hãy nói sơ qua thêm về sự lạc hậu, nhơ nhuốc, dã man, tàn bạo dưới các thời đại, trong đó có thời đại “CSCN”.

Có mấy nội dung nên lưu ý:

1/ Trên bước đường văn minh hóa, các nước phương Đông, trừ Nhật, đều bị chế độ phong kiến, sau đó là chế độ thuộc địa phương Tây kìm hãm, làm tha hóa, lạc hậu. Chế độ phong kiến càng thâm sâu, “uyên bác”, như tại Trung Quốc, thì sự lạc hậu càng có vị thế vững chắc hơn (vì chúng chống lại được sự “nổi lọan” của nhân dân để phát triển lên Tư bản chủ nghĩa, như kiểu phương Tây). Việt nam vừa phong kiến lạc hậu, vừa bị là thuộc địa của một anh thực dân tàn bạo, bủn xỉn, ngoan cố trì trệ nhất, nên quá thiệt thòi . . .;

2/ Sự tàn phá của chiến tranh kéo dài mấy chục năm: Mục tiêu thì chính đáng, biện pháp thì trong nội bộ VN đã phạm sai lầm lớn: Chia làm 2 phe, dựa vào theo 2 bên “ý thức hệ” khác nhau nên đều đã trở thành công cụ để đánh nhau giúp họ, rồi vì là nước nhỏ, bị họ múa kiếm sau lưng, bị lừa gạt và dắt mũi . . .

3/ Miền Nam văn minh hơn (vì dưới chế độ Pháp Mỹ giầu có văn minh hơn cai trị, hỗ trợ), miền Bắc nghèo nàn lạc hậu lại tự lực hơn, nên có chút sống sượng ngô nghê dẫn đến tồi tệ hơn . .vì đã chót phải dựa vào Chế độ CS độc tài đấu tranh giai cấp đến mức vô nhân đạo, nên ngày nay, còn điều gì lạc hậu, thì cũng là tàn dư quán tính của sự nghèo nàn lạc hậu và lòng căm thù “kẻ thù giai cấp”, “kẻ thù chế độ” và tàn tích chiến tranh nặng nề của cả 2 phe trước đây còn tồn dư lại.

4/ Muốn quan sát tổng thể một xã hội được chính xác,hãy căn cứ thái độ và cách đối xử của số đông dân cư và dư luận các nước có vị thế lớn trên thế giới. Không nên chú ý chỉ những biểu hiện lặt vặt, xấu xa tầm thường, nhất thời. Có một bộ phận người trên đời đang nhìn nhận khá sai về Việt Nam: hoặc là quá lệch về lịch sử anh hùng dũng cảm thời đã qua, hoặc là quá thiên về chê bai những thói hư tật xấu, sự kém cỏi của một xã hội đã tích tụ lại qua bao gian nan đau tương tang tóc do các loại kẻ thù thời đại đã gây ra.

4/ Để công bằng, cần nhớ lại và so sánh với những gì tồi tệ xấu xa nhất đã xẩy ra khắp nơi trên thế giới từ thế kỷ XX cho đến tận ngày hôm nay để đỡ chê bai quá mức sự lạc hậu tồi tệ ở VN, ví như giai đoạn đầu chinh phạt để lập nước của Hoa Kỳ; nạn giết chết hàng triệu người Do thái ở Đức; sự tàn phá tang tóc kinh khủng do Chủ nghĩa phát xít Đức Ý Nhật gây ra; hiện tượng kéo lê máy chém đi khắp miền Nam và những cuộc tàn sát của quân Mỹ ở Mỹ lai và Gio linh; hiện tượng xe tăng nghiền nát mấy ngàn thanh niên viên sinh viên tại Thiên An Môn hay mổ tù nhân Pháp luân công lấy nội tạng: nạn IS và nạn di dân tị nạn hàng loạt rối loạn hiện nay trên thế giới . v. v. . . thì so với vài chục, vài trăm vụ đụng độ đất đai, quyền lợi, vi phạm nhân quyền, tham nhũng tiêu cực lặt vặt, thậm chí hàng tỷ, tỷ do “Thượng bất chính thì hạ tắc loạn” hiện nay ở nước Việt Nam do đã từng chịu bao thua thiệt và là chiến trường quốc tế về đụng độ sống còn “Ý thức hệ” lạc hậu giữa các nước lớn suốt gần thế kỷ vừa qua thì chẳng bõ bèn thấm thía gì để mà so sánh rồi lên án quá nặng nề, lãng quên giải pháp quan trọng nhất của Đất nước.

            Cuối cùng: Những người xa quê mà còn căm thù Việt cộng, thì nên thực bụng cân nhắc cẩn thận xem: giữa “kẻ thù” Việt Cộng và kẻ thù  Trung Cộng hiện nay, thì kẻ thù nào nguy hiểm hơn đối với Việt Nam ta ? Và để có hiệu quả nhất thì nên tập trung, đoàn kết chống kẻ thù nào trước ? Hiển nhiên, một kẻ thù bành chướng truyền kiếp không thay đổi, và một kẻ thù “ý thức hệ” đang bị nhân dân VN và các nước TB văn minh ép buộc có kết quả phải từ bỏ “ý thức hệ” cũ, phải đổi mới, thì các bạn hãy thực tâm cân nhắc, xem kẻ thù nào ta đáng quyết tâm chống lại (trong ý thức của mình) hơn. Cuối cùng, cứ cho rằng CNCS là xấu xa thật đi, nhưng hơn 80 triệu đồng bào (ngoài đảng CS) trong nước và cả thế giới cũng không coi nó là một thứ xấu xa đến mức như CN thực dân, đế quốc, phát xít, hay bành chướng xâm lược, vì vậy nhân dân trong nước và rất nhiều nước Tư bản phương Tây văn minh vẫn đang chung sống hòa bình với thứ CNCS này, mà đại diện cụ thể của nó là các Đảng CS đang tồn tại ở các nước phương Tây ngay bên cạnh cùng các bạn hiện nay đó ?

            Tóm lại, chính tư duy của những người “chống Cộng” chúng ta cũng cần phải đổi mới, cập nhật và “hiện đại hóa” đi thôi. Đôi điều tâm sự với những ai “chống cộng” xa quê!

Hà Nội, ngày 10, tháng 10, 2015

Người Hà Nội

05 Tháng Giêng 2017(Xem: 12201)
- Lý Kiến Trúc phỏng vấn Đại sứ Đặc mệnh Toàn quyền Lê Công Phụng tại Hoa Thịnh Đốn năm 2008.