Ngay sau kỳ nghỉ lễ 2/9 vừa qua hai cây viết người Việt đã mất việc.

06 Tháng Chín 20159:37 CH(Xem: 16631)

"BÁO VĂN HÓA - CAILIFORNIA" THỨ HAI 07 SEP 2015

image033

Ảnh trái: nhà báo Lê Diễn Đức. Phải: nhà báo Đỗ Hùng.

Về hai nhà báo 'mất việc' vì Facebook

Nguyễn Hùng BBC Tiếng Việt

 

BBC 06/9/15 4 giờ trước

 image035

Hai cây viết gặp rắc rối cùng vì những gì viết trên Facebook. Image copyright iStock Image caption

Ngay sau kỳ nghỉ lễ 2/9 vừa qua hai cây viết người Việt đã mất việc.

Một người làm báo trong nước và một người làm báo ở nước ngoài, cả hai đều bị xử lý vì những gì họ viết trên Facebook chứ không phải trong công việc thường ngày.

Nhà báo Đỗ Hùng bị miễn nhiệm khỏi chức Phó Tổng Thư ký tòa soạn Báo điện tử Thanh Niên và cũng bị Bộ Thông tin và Truyền thông thông thu hồi thẻ nhà báo.

Blogger Lê Diễn Đức bị đài Á châu Tự Do, RFA, hủy hợp đồng mà theo đó ông được sử dụng trang web của đài này để thể hiện cách nhìn của ông về các vấn đề thời sự.

Hiện trang blog của ông Đức trên RFA đã không còn truy cập được nhưng ông vẫn tiếp tục bảo vệ ý kiến của mình trên Facebook của ông nơi ông tuyên bố có 5.000 bạn và hơn 7.000 người theo dõi.

Nhà báo Đỗ Hùng trong khi đó đã xóa nội dung đã đăng trên Facebook cá nhân và hiện trang Facebook của ông cũng không thấy còn xuất hiện trên Facebook (6/9/2015).

Cách viết 'tếu táo'

Cả hai nội dung được đăng trên Facebook của hai cây viết đều về những người đã khuất và về những sự kiện trong quá khứ.

Tuy nhiên nhiều người Việt có cách nhìn hoàn toàn khác nhau về những nhân vật được nêu và sự kiện được nêu.

Nhà báo Đỗ Hùng viết thông điệp "tếu táo" toàn dấu sắc, giờ đã không còn truy cập được, về các diễn biến ở Việt Nam cách đây 70 năm trong đó có đoạn:

"...[B]ác Ái Quốc, tướng Giáp với mấy chú, mấy mế xứ Pác Bó vác cuốc, vác giáo mác, vác súng ống xuống đánh Phát xít, đánh Pháp, cướp lấy khí giới, cướp thóc, chiếm bót, cứ thế đánh tới bến.

"Đánh tới cuối tháng 8, bác Ái quốc thắng lớn. Bác ấy với các chú kéo xuống Giáp Bát, chiếm phố, chiếm lấy bót phát xít, chiếm hết. Hết đánh đấm , bác ấy nói: "Các chú thắng phát xít, thắng Pháp, quá xuất sắc". Tới tháng 9, bác ấy xuống phố bố cáo quốc khánh. Bác ấy nói: "Đất nước hết chiến đấu, hết đói kém. Phát xít cút. Đế quốc Pháp cút. Các mế, các chú, các cháu bé hết khóc lóc. Thế giới bác ái...".

Viết báo, nói xấu bác Ái Quốc, nói xấu tướng Giáp. Viết thế "đám cán ngố d[ố]t nát" tức tới chết. Chúng chém hết, đốt hết, chúng nói "đám chống đối, phá nước, giết hết...dám viết láo thế".Người dùng Facebook Van Vo trong phong trào viết toàn dấu sắc

"Nói tới đó, bác Ái Quốc thắc mắc: "Bác nói thế các chú, các mế, các cháu có thấy quá lí nhí?" Bá tánh phía dưới đáp: "Chúng cháu thấy bác nói rất lớn. Nói thế quá tốt!". Tướng Giáp đứng kế đó thét lớn: "Quyết chiến quyết thắng!".

Sau quyết định thu hồi thẻ nhà báo của ông Đỗ Hùng, một phong trào viết bình luận chỉ có dấu sắc đã diễn ra trên Facebook.

Người dùng Facebook Van Vo viết:

"Viết báo, nói xấu bác Ái Quốc, nói xấu tướng Giáp. Viết thế "đám cán ngố d[ố]t nát" tức tới chết. Chúng chém hết, đốt hết, chúng nói "đám chống đối, phá nước, giết hết...dám viết láo thế".

Blogger Đoan Trang cũng chia sẻ trên Facebook phản ứng của một nhà báo giấu tên đề cập tới công văn thu hồi thẻ nhà báo của Thứ trưởng Thông tin Truyền thông Trương Minh Tuấn:

"Lính chú Tuấn tức tốc cách chức cái đứa viết láo. Chú Tuấn thích lắm, thấy thế ký giấy lấy giấy báo chí đứa ấy. Chú Tuấn quyết giết nó mất chức, chấm dứt cái kiếp báo chí chán ngán. Chú ghét dấu sắc, nếu có viết báo nhớ tránh dấu sắc. Có viết nhớ lấy dấu khác cấm viết dấu sắc."

Nhưng cũng có nhiều người phản đối cách viết của ông Đỗ Hùng và cho rằng ông "đã xúc phạm đến Chủ tịch Hồ Chí Minh và xuyên tạc về Cách mạng tháng Tám".

Một người dùng Facebook được dẫn lời nói cựu nhà báo Thanh Niên là người "biến dị tư tưởng đội lốt nhà báo".

Tranh luận lịch sử

Trong lời chia sẻ, vốn góp phần dẫn tới việc RFA cắt hợp đồng với ông, blogger Lê Diễn Đức viết về thất bại của quân lực Việt Nam Cộng hòa và của chiến dịch Đông Tiến của Việt Tân thời Tướng Hoàng Cơ Minh:

"Cả hàng trăm ngàn quân lính trong tay, vũ khí xềnh xàng mà còn bị bộ đội Bắc Việt đánh cho tan tành, chạy chít chết, cuối cùng phải đầu hàng, thì vài chục người đi qua rừng núi Thái Lan dựng "chiến khu" với mục đích "Đông Tiến","phục quốc" chỉ là trò cười, ảo tưởng, chứ "anh hùng" cái nỗi gì.

Ông Đức không giống như nhà báo Đỗ Hùng, ông không bị một cơ quan thẩm quyền nào rút đi tư cách nhà báo, và chắc chắn là ông sẽ không bị một chính quyền nào lăm le đàn áp nếu tiếp tục bày tỏ quan điểm của ông.Trinity Hồng Thuận

"Đây đích thực là một cuộc làm "chiến khu" giả lừa gạt bà con hải ngoại nhẹ dạ để kiếm tiền, không hơn không kém! Niềm tin vào những "anh hùng vị quốc vong thân" ấy là niềm tin ngô nghê, mù quáng."

Trong khi chỉ trích ông Đỗ Hùng "phỉ báng" và "bêu riếu" lãnh tụ, những người phản đối ông Hùng cho rằng ông Lê Diễn Đức đã nói "sự thật" và chỉ trích quyết định của RFA.

Họ nói quyết định của RFA gửi thông điệp tới các cộng tác viên với một số cơ quan truyền thông hải ngoại rằng "các người phải bẻ cong ngòi bút chửi cộng sản và không được đụng chạm đến Hoàng Cơ Minh thì mới không bị mất việc".

Nhưng Trinity Hồng Thuận, một đảng viên Việt Tân bình luận trên Facebook của cô:

"[Ông] Lê Diễn Đức sau khi bày tỏ những quan điểm mang tính xúc phạm và gặp phải những phản ứng mạnh mẽ từ dư luận, ông đã bị những cơ quan truyền thông mà ông đang hợp tác cho nghỉ. Đơn giản vì họ đánh giá hành động của ông ảnh hưởng đến uy tín của họ, cũng như làm mất niềm tin mà độc giả / thính giả dành cho họ và họ muốn khẳng định sự không liên quan đối với những quan điểm này của ông.

"...Ông Đức không giống như nhà báo Đỗ Hùng, ông không bị một cơ quan thẩm quyền nào rút đi tư cách nhà báo, và chắc chắn là ông sẽ không bị một chính quyền nào lăm le đàn áp nếu tiếp tục bày tỏ quan điểm của ông. Chuyện những nhà báo trong nước không những bị rút đi tư cách cầm bút mà còn bị đàn áp, tù đày, vì có những bài viết "vượt quá khuôn khổ" là chuyện không quá xa lạ với tất cả chúng ta."

Tôi là người cầm bút. Nhiệm vụ của người cầm bút là nói lên và bảo vệ sự thật.Blogger Lê Diễn Đức

Trininy Hồng Thuận cũng nói ông Đức đã "miệt thị đối những người lính" Việt Nam Cộng hòa và "nhục mạ" những đảng viên Việt Tân thế hệ đi trước.

Còn blogger Lê Diễn Đức đã dùng Facebook của ông để đáp lại:

"Tôi là người cầm bút. Nhiệm vụ của người cầm bút là nói lên và bảo vệ sự thật. Thất bại cay đắng ê chề của VNCH là sự việc không thể chối cãi và bức tranh những ngày cuối cùng của Tháng Tư năm 1975 quân lính chạy tán loạn, vứt bỏ quân phục đầy đường, là những gì tôi nói ra. Nhưng nói ra được hiểu là mạ lị quân lực VNCH.

"Mặt Trận Hoàng Cơ Minh là ý tưởng ảo tưởng thì đúng như nó đã xảy ra! Cán bộ nòng cốt của Mặt trận lấy danh nghĩa thu tiền của bà con là Hoàng Cơ Định đưa vào lợi tức của mình, bị đưa ra tòa án Liên bang Mỹ, vì tội gian lận thuế. Đó cũng là sự thật, nhưng nói ra là xúc phạm đến những người đã chết."

Góc nhìn từ Anh

Trong các tranh luận liên quan tới nhà báo Đỗ Hùng, một số người dùng Facebook đã dẫn các quy định của BBC về sử dụng mạng xã hội mà theo đó các nhà báo BBC không được "nêu ý kiến riêng về các vấn đề chính trị" hay các vấn đề khác mà trách nhiệm của một nhà báo BBC không cho phép nêu ra.

Tuy nhiên có lẽ sẽ hợp lý hơn nếu so báo Thanh Niên với các tờ báo ở Anh, vốn có những tờ thiên tả và những tờ thiên hữu, chứ không bắt buộc phải có quan điểm "trung dung" như cơ quan có nguồn ngân sách từ lệ phí truyền hình thu từ dân và cũng dùng tài nguyên công cộng như sóng phát thanh và truyền hình.

Image caption Thẻ nhà báo ở Anh do một tổ chức tình nguyện, không liên quan tới chính quyền, cấp

Chẳng hạn báo Independent của Anh khi viết về cuộc khủng hoảng người tị nạn hiện nay ở châu Âu đã có bài viết với tít "Anh không có chỗ cho người tị nạn? Thế những phòng này thì sao?" kèm theo ảnh và dòng tin trên Facebook "Đây là nhà nghỉ ở nông thôn của ngoại trưởng Philip Hammond. Nhà 115 phòng."

Tờ The Guardian thường có quan điểm ủng hộ BBC mỗi khi chính quyền tìm cách giảm ngân sách hay chỉ trích BBC nói chung trong khi Daily Mail có quan điểm ngược lại.

Cũng phải nói thêm những nhà báo BBC tham gia nghiệp đoàn có lựa chọn giữa thẻ nhà báo thông qua BBC hay thông qua nghiệp đoàn báo chí NUJ.

Cả BBC hay nghiệp đoàn sẽ đều đề nghị tổ chức không do chính phủ kiểm soát, UK Press Card Authority, cấp và chính quyền hoàn toàn không tham gia vào chuyện cấp thẻ nhà báo cho báo giới.

Điều kiện để được cấp thẻ báo chí chỉ là "có hầu hết hay toàn bộ thu nhập từ nghề báo".

Liên quan tới trường hợp của blogger Lê Diễn Đức, BBC đã gọi điện thoại tới người phụ trách RFA nhưng hiện chưa liên hệ được để lấy phản hồi trực tiếp.

Trong lần trả lời phỏng vấn BBC Tiếng Việt hồi tháng Hai năm ngoái, Tổng Giám đốc RFA Libby Liu nói Đài Á châu Tự do đăng tải những thông tin mà chính quyền Việt Nam không cho phép xuất hiện ở trong nước.

Đoạn viết của nhà báo Lê Diễn Đức công khai nhận định chủ quan về những người lính Việt Nam Cộng hòa, và quy chụp những người có tư tưởng, suy nghĩ và hành động riêng là “lừa gạt bà con Hải ngoại nhẹ dạ để kiếm tiền” mà không có bằng chứng chứng minh. Từ đó gây ra mâu thuẫn, chia rẽ trong cộng đồng người Việt trong nước và Hải ngoại.Đài RFA viết trên Facebook

Bà nói nếu "dòng chảy tự do thông tin" không bị ngăn thì RFA sẽ không có lý do để đưa những tin tức như hiện tại.

Còn về trường hợp cụ thể liên quan tới blogger Lê Diễn Đức, RFA cũng có thông báo trên Facebook mà theo đó:

"Đoạn viết của nhà báo Lê Diễn Đức công khai nhận định chủ quan về những người lính Việt Nam Cộng hòa, và quy chụp những người có tư tưởng, suy nghĩ và hành động riêng là “lừa gạt bà con Hải ngoại nhẹ dạ để kiếm tiền” mà không có bằng chứng chứng minh. Từ đó gây ra mâu thuẫn, chia rẽ trong cộng đồng người Việt trong nước và Hải ngoại.

"Đối với các vấn đề lịch sử, chúng ta cần có góc nhìn khách quan, không thiên kiến và tôn trọng cả hai bên của cuộc chiến, dù thành hay bại, nhằm mục tiêu xa nhất là xóa bỏ hận thù, hòa hợp, hòa giải, hàn gắn vết thương chiến tranh. Đó là một trong những mục tiêu, nguyên tắc của RFA.

"Do đó, trong các bài viết, RFA Việt ngữ dù có nói đến vấn đề lịch sử cũng đều cố gắng nói về hiện tại và tương lai. Những vấn đề hiện tại là hậu quả của quá khứ, chúng ta cần biết để khắc phục, hoàn thiện cho tương lai, chứ không phải bới móc, quy chụp mà không chứng minh."/

++++++++++++++++++++++++++++++++

XEM THÊM:

Ngàn nén hương tưởng niệm vị tướng lãnh duy nhất của QLVNCH hy sinh sau ngày 30 tháng 4 năm 1975

27 Tháng 8 2013 lúc 12:45

https://vi-vn.facebook.com/notes/513732108719587/

image037

 Xin phép được cùng các anh chị em Việt Tân đốt một nén hương trầm cho Phó Đề Đốc Hoàng Cơ Minh đã anh dũng hy sinh ngày 28 tháng 8 năm 1987 tại Nam Lào trên đường Đông Tiến. 

« Làm sao Dân ta giàu, làm sao nước ta mạnh ? Dân có giàu thì nước mới mạnh. Nước chẳng thể mạnh nếu người dân nghèo nàn. Nếu nước mạnh mà người dân nghèo thì đó chỉ là cái mạnh nhất thời, cái mạnh giả tạo và nó có thể  sụp đổ bắt cứ lúc nào. Tài sản quốc gia là tài sản của tất cả mọi người trong nước. Sức mạnh của quốc gia là như vậy. Chứ sức mạnh quốc gia không thể đặt trên khẩu súng, đặt trên số người cầm súng. Sức mạnh của quốc gia là ý chí xây dựng đào tạo được cả một thế hệ thanh niên có một ý chí xây dựng quốc gia mới. Đó là sức mạnh của quốc gia ».

Phó Đề Đốc Hoàng Cơ Minh năm 1935.

Phó Đề Đốc Hoàng Cơ Minh sinh ngày 20 tháng 6 năm 1935 tại xã Đông Ngạc, huyện Từ Liêm,Thành phố Hà Nội. Thân sinh ông là cụ Hoàng Huân Trung, đổ Cử nhân Nho học khoa Quý Mão (1902), cựu Tuần phủ. Hội trưởng Hội Khai Trí Tiến đức. Do xuất thân trong một gia đình văn học nên thuở  thiếu thời ông theo học hàng tuần lớp chữ Nho do Việt  Nam Văn Hóa Hiệp Hội tổ chức.

Ông là người thẳng thắn, bộc trực, rất cương quyết, thường hay nói gì là làm y như  vậy, không ai lay  chuyển nổi. nhưng cũng rất tình cảm và lòng nhân từ với người chung quanh.  Trong gia đình ông là một người rất hiếu kính cha mẹ và thuận thảo với anh em. 

Là một  học sinh xuất sắc của trường Trung học Chu Văn An. Sau khi tốt nghiệp trung học ông theo học tại trường Đại Học Khoa Học thuộc Viện Đại Học Hà Nội. Đất nước phân ly, ông theo làn sóng di cư vào Nam cùng với đoàn sinh viên Đại Học Hà nội vào trung tuần tháng Tám năm 1954.

Năm 1955 ông quyết đình từ giả đèn sách, tình nguyện  nhập học trường Sĩ quan Hải Quân Nha Trang.

Ra trường với cấp bậc Thiếu Úy, ông về phục vụ tại Hải Đoàn Xung Phong, hoạt động tại các vùng kinh rạch Tiền Giang. Trong thời gian này vì can thiệp cho một số binh sĩ thuộc quyền mà ông cho là bị bắt giữ trái phép, nên bị giam tại nhà giam Chí Hòa gần 2 tháng.

Sau khi được phóng thích, ông trở về quân ngũ và ghi danh học tại Đại Học Luật Khoa Sài Gòn và tốt nghiệp năm 1959.

Sau đó ông sang Hoa Kỳ tu nghiệp 2 năm tại trường Hải Quân US Naval Post Graduate School tại Monterey, California.

Năm 1961, ông về nước với cấp bậc Đại Úy và phục vụ trên các chiến hạm của Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa.

Sau một thời gian phục vụ trên các chiến hạm ngoài biển, ông được thuyên chuyển về trường Hải Quân Nha Trang với chức vụ Chỉ Huy Phó.

Năm 1964, ông được chỉ định làm Tùy Viên Hải Quân, rồi Tùy Viên Quân Lực tại Tòa Đại Sứ VNCH tại Đại Hàn với Cấp bậc Thiếu Tá.

Sau 2 năm phục vụ tại Đại Hàn, ngày rời nhiệm sở ông được trao tặng huy chương cao quý nhất của Quốc Hội và Tổng Thống Đại Hàn dành cho người ngoại quốc mà thường  là các nguyên thủ Quốc gia. Ông là người thứ 14 và cũng là người Việt Nam đầu tiên được trao tặng huy chương này.

Ông được Bộ Ngoại Giao VNCH cho quyền lựa chọn chức vụ Tùy Viên tại Trung Hoa Quốc Gia hay Tây Đức. Nhưng ông đã từ chối và xin trở lại phục vụ Quân Đội.

Năm 1969, ông tốt nghiệp khóa chỉ huy tham mưu cao cấp tại Trường Võ bị Đà Lạt. Ông được chỉ định làm Trưởng phòng Chiến Tranh Chính Trị tại Bộ Tư Lệnh Hải Quân với cấp bậc Trung Tá.

Từ năm 1971 đến năm 1974, chiến trường sôi động, ông được đề cử làm Tư Lệnh Phó, rồi Tư Lệnh Lực Lượng Thủy Bộ đóng tại Cần Thơ với cấp bậc Đại Tá.. . Đó là một lực lượng gồm khoảng 300 chiến đỉnh. Lực Lượng này được coi là dũng mãnh nhất, một mũi nhọn sắc bén nhất trong sông ngòi của Hải Quân Việt Nam. Các chiến đỉnh của Lực Lượng này vỏ dày, hoả lực hùng hậu. Đặc biệt loại chiến đỉnh Tango, nóc bằng, trực thăng có thể đáp xuống dễ dàng, có mặt ở khắp nơi, kể cả những vùng mà từ lâu nay được coi là an toàn khu của địch. Từ Chương Thiện, Cà Mau, Sóc Trăng đến Rạch Sỏi, Sẻo Rô, kinh Đồng Tiến, kinh Cổ Cò hóc hiểm sình lầy, những "hàng không mẫu hạm tý hon" này đều có mặt, tạo ra những phản ứng thần tốc, khốc liệt, kinh hoàng khiến đối phương không kịp trở tay. Vì ngoài hỏa lực cơ hữu của các chiến đỉnh và bộ quân tùng đỉnh, khi cần, quân tiếp viện sẽ được trực thăng ào ạt chở tới, đáp trên sàn tàu, mở đường, phản công và tải thương rất hữu hiệu. Nên mỗi khi thấy chiến đỉnh của Thủy Bộ xuất hiện, địch chỉ còn có hai cách: nằm im, ẩn mình; hoặc chẳng đặng dừng thì liều lĩnh khai pháo rồi "chém vè" (chạy) để gục chết nát thây mà thôi. Vì thế những vị chỉ huy trưởng bên Bộ Binh đều muốn có những chiến đỉnh của Lực Lượng Thủy Bộ hoạt động trong vùng trách nhiệm của mình.

Trong những cuộc hành quân sôi động, với một trực thăng biệt phái, ông Minh hầu như hiện diện khắp nơi thuộc Vùng 4 Chiến Thuật. Những "đứa con" của ông, hễ có đụng là đã thấy tiếng ông trên máy. Và khi khẩn cấp, ngặt nghèo, không gọi, đã thấy ông bay trên đầu theo dõi, chỉ thị, hỗ trợ và tiếp cứu. (Phan Lạc Tiếp)

Năm 1974, ông được vinh thăng Phó Đề Đốc Hải Quân. Là vị Tướng lãnh trẻ nhất của Hải Quân và là Sĩ Quan đầu tiên của Khóa 5 Sĩ Quan Hải Quân  năm 1955. Ông rời Lực Lượng Thủy Bộ, nhận trách vụ Tư Lệnh Vùng II Duyên Hải với Bộ Tư Lệnh đóng tại Cam Ranh.

Vào những ngày đen tối của đất nước, ông lần lượt được chỉ định làm Tư Lệnh Tiền phương Quân Đoàn II. Tư Lệnh Mặt Trận Phú Yê Bình Định, Tư Lệnh Mặt Trận Phan Rang Phan Thiết.

Những ngày sau cùng của tháng 4 năm 1975, trước thực trạng đất nước, ông cố gắng vận động những Dân Biểu và Thượng Nghị Sĩ thân hữu trong mục đích bỏ phiếu trao trách nhiệm điều động đất nước cho Quân Lực VNCH thay vì Dương Văn Minh, vì theo ông chỉ có Quân Lực VNCH là niềm tin chót để cứu vãn tình hình đất nước và cương quyết chống cộng.

Trên trại Barigaa của đảo Guam có một khu nhà nhỏ được dùng làm nơi tạm trú của các Tướng Tá QLVNCH . Hai mươi sáu sĩ quan cấp Tướng đủ Hải, Lục, Không Quân và 7 sĩ quan cấp Đại Tá. Cũng tại Barigaa, tôi gặp lại Tướng Hoàng Cơ Minh. Mọi người đều buồn bã và rất xuống tinh thần. Ông Trưởng ngồi một góc riêng hút thuốc lá liền tay. Tướng Khuyên nằm quay mặt vào tường. Duy có tướng Hoàng Cơ Minh vẫn còn vẻ năng động và đứng ngồi không yên.

Suốt một tháng dài nằm chờ đợi ở Guam, sau cùng mới có máy bay vào Cali và mỗi người đi một phương trời xây dựng lại cuộc sống mới.

Và trong cái hoàn cảnh làm lại cuộc đời năm 1975 đó, dù sống ở trên đất tiền, đất bạc, những người một thời làm tư lệnh đầu sóng ngọn gió, vẫn cảm nhận sự cay đắng của cái cảnh nước mất nhà tan. Đó là hoàn cảnh anh thợ sơn Hoàng Cơ Minh của Virginia ở miền Đông Hoa Kỳ. (Giao Chỉ- Vũ Văn Lộc).

Trong những ngày đầu tỵ nạn trên đất Mỹ, ông được dành cho một số quyền lợi viết Quân Sử hay đi thuyết trình, nhưng ông đã từ chối để làm nghề thợ sơn tầm thường để lấy thời giờ đi từ Tây sang Đông, từ Bắc xuống Nam, từ Hoa kỳ sang Nhật Bản để liên lạc móc nối những người có tâm huyết mang quyết tâm Giải Phóng Tổ Quốc.

Ông đã Thành lập Lực Lượng Quân Nhân Việt Nam Hải Ngoại, sau đổi thành Lực Lượng Quân Dân Việt Nam Hải Ngoại. Sau giải thể để hình thành Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất Giải Phóng Việt Nam. Ông cũng là chủ tịch sáng lập Việt Nam Canh Tân Cách Mạng Đảng.

Ông đã từng nói:

"Miệng nói làm Cách Mạng thì chân phải bước đi làm Cách Mạng "

Ngày 21/11/1981, Phó Đề Đốc Hoàng Cơ Minh cùng 14 chiến hữu của ông đã lên đường đến biên giới Thái - Lào thiết lập chiến khu đầu tiên của Mặt Trận.

“Đường chúng ta đi chỉ có hai cái đích. Cả hai cái đích đều vô cùng vinh quang và ý nghĩa. Một là giải phóng Tổ Quốc Việt Nam. Hai là được anh dũng hy sinh cho đại cuộc giải phóng Việt Nam”.

Và ông cùng các anh hùng Đông Tiến đã hy sinh tại Nam Lào khi chỉ còn cách quê mẹ Việt Nam 20 cây số đường chim bay, ngày 28 tháng 8 năm 1987 trên đường trở về mưu cầu giải phóng quê hương.

Tháng Tám và những người yêu nước

Hành Tư

Lời giới thiệu: Sau ngày 30 tháng 4/75, giữa lúc mọi người còn đang ngơ ngác, giận dữ, thống trách đau khổ, thì có một số người trẻ tuổi tại Đông Kinh đã đủ bình tĩnh mở cuộc họp báo để minh xác với thế giới cuộc chiến đấu cho tự do của dân tộc Việt Nam vẫn tiếp tục vì “chúng tôi còn hiện diện để tiếp nối những bước đi lịch sử của cha ông”.

Ngay khi mọi người chưa hết bàng hoàng sau cơn hồng thủy và còn đang ngơ ngác vì cuộc sống xa lạ, đầy trắc trở của một xã hội hoàn toàn khác biệt về phong tục, ngôn ngữ, sinh hoạt thì có những quân nhân trẻ có già có từ cấp binh nhì tới cấp tướng lãnh, âm thầm ngồi hoạch định cho ngày trở lại Việt Nam.

Khi mà cả nước bị gông cùm đỏ trùm lên, không khí bị ô nhiễm vì hận thù, vì tù ngục cải tạo, vì những lừa bịp trắng trợn thì có những thanh niên thiếu nữ bỏ vào rừng hay ngay trong lòng địch âm thầm tổ chức thành những nhóm nhỏ chiến đấu. Rồi họ tìm đến với nhau, rồi họ liên lạc nhau, rồi họ kiểm điểm hàng ngũ, rồi họ hoạch định kế sách. Tất cả đã nối kết nhau bằng chất keo dân tộc vì lý tưởng cao cả: giải thoát dân tộc khỏi gông xiềng, đem trả lại dân tộc tự do công bằng và nếp sống an vui bình dị. Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất Giải Phóng Việt Nam đã ra đời trong bối cảnh đó vào hơn 30 năm trước. Nhưng giữa đường, lực bất tòng tâm, một số trong họ đã anh dũng hy sinh ngay trên đất mẹ, trên đường mở lối về vào tháng 8 năm 1987 tại rừng núi Nam Lào.
Vì thế cứ đến tháng 8 thì trong lòng những người đoàn viên Mặt Trận ai nấy đều mang ít nhiều nỗi buồn u uất. Xin mời quí vị theo dõi tâm tình của một trong những đoàn viên Mặt Trận năm xưa khi tháng 8 trở về.

-------------------------

Thung lũng nở đầy hoa vàng mùa Hè 1983. Anh em đón anh tại tòa soạn báo Kháng Chiến có đôi chút ngỡ ngàng. Người đứng đầu trách nhiệm tuyên vận của tổ chức lại trẻ đến như vậy. Nắng mưa khu chiến không thể làm mất làn da trắng thư sinh của anh. Lúc mới 24 tuổi, anh là sinh viên du học tại Nhật và là chủ tịch hội Người Việt Tự Do ngay sau khi cộng sản chiếm miền Nam năm 1975, đã làm đại diện Việt cộng ở Nhật thời bấy giờ mất ăn mất ngủ bởi những cuộc biểu tình rầm rộ. Lúc 30 tuổi, anh rời Nhật trở về chiến khu. Lần đó, từ chiến khu trở ra hải ngoại, một trong những công tác của anh là ổn định báo Kháng Chiến đang trong thời kỳ phôi thai. Những ngày làm việc với anh em, anh đã để lại nhiều cảm mến và tâm phục. Anh cẩn thận xem mỗi bản tin, từng bài vở. Anh ngồi chung với anh em dán từng địa chỉ độc giả, gói từng thùng báo gửi đi xa. Một chuyện không thể quên được là sau một buổi họp mới biết anh đã lên cơn sốt rét mà vẫn ngồi họp cùng với anh em cho đến cuối giờ. Mới biết nghị lực của anh lớn chừng nào. Anh, từ những biến cố tháng 7 năm 1987, từng giữ trách nhiệm cao nhất tại chiến khu. Từ năm 1990, chính quyền Thái có những thỏa thuận hòa bình với Cộng sản Việt Nam. Khu chiến Việt Nam gặp nhiều trở lực. Ngày 15 tháng Giêng năm 1991, một viên chức Thái đưa anh đến vùng biên giới và anh mất tích từ đó. Tên anh là Ngô Chí Dũng.

*

Anh gò lưng trên bàn lay-out trong một ngày tất bật của tòa soạn báo Kháng Chiến. Dáng anh tận tụy, thêm hai gọng kính cận dầy cộm làm anh già hơn tuổi. Anh em luôn thấy dáng tận tụy của anh trong khi làm việc, dù việc lớn hay nhỏ. Vậy mà năm rời chiến khu trở về Hoa Kỳ công tác, anh mới 35 tuổi. Dù thời gian anh công tác ở hải ngoại không lâu, anh không để phí thời gian, dù là có thể dành một chút thì giờ với vợ con. Biết báo Kháng Chiến sắp đến ngày in, anh đến thăm và "xin" giúp việc lay-out. Mục lịch sử nói về anh hùng dân tộc Hoàng Hoa Thám và cần một hình chân dung. "Chuyện dễ ợt!", anh cười nói với anh em và dùng ngay mực bút của tòa soạn thoáng vài nét là có hình vẽ chân dung Đề Thám thật linh động. Mới thấy tài hoa của anh. Anh em lại "tham" hơn anh nghĩ. Thế là anh đã ngồi dùng bút mực vẽ thêm hơn mười chân dung anh hùng dân tộc khác để anh em sử dụng trong những số báo sau. Vậy đó! Với anh, chuyện nào cũng "dễ ợt". Vì thế, với anh, chuyện đi đấu tranh "dễ ợt" vậy mà không chịu làm, mới lạ! Anh, từng là nhà văn ở hải ngoại với nhiều chuyện ngắn nổi tiếng. Anh, tác giả bài hát "Thế Kỷ Này Thế Kỷ Chúng ta" từng vang lên trong rừng núi chiến khu. Anh, từng giữ trọng trách Tổng thư ký Hội Văn Nghệ Sĩ Kháng Chiến, đã để lại vợ con ở hải ngoại để trở về khu chiến. Trong một chuyến xâm nhập vào đất mẹ Việt Nam, đoàn quân của anh đã giao tranh đẫm máu với lực lượng đông đảo của Cộng quân. Một trái pháo của giặc đã phủ chụp bên anh. Anh hy sinh ngày 28 tháng 8 năm 1987.
Anh tên là Võ Hoàng.

*

Đó là một buổi sáng rất sớm tại tòa soạn báo Kháng Chiến. Anh ngồi trên bàn đọc một tập thơ do Đông Tiến xuất bản. Mới 5 giờ sáng. Trong chuyến công tác ở hải ngoại, anh ghé thăm anh em và ở lại đêm chuyện trò. Tòa soạn im lặng khi anh em phụ trách còn đang ngủ say. Tập thơ Bắc Phong làm anh say mê đọc từng trang một. "Đi, hành trang có niềm tin. Quyển thơ Nguyễn Trãi và hình vợ con". Một câu thơ làm mắt anh cay cay. Ngày anh rời hải ngoại về chiến khu đấu tranh chỉ mang theo hình đàn con nhỏ. Một anh em dậy sớm nhất đã giật mình khi thấy anh ngồi lặng lẽ dưới ánh đèn bàn được vặn nhỏ. Anh cười và còn nói vui là đã không dám di chuyển mạnh sợ đánh thức anh em. Anh nói đã quen giờ thức dậy ở chiến khu nên ra ngoài này cũng khó ngủ thêm được. Anh, từ một nhà giáo trở thành một sĩ quan can trường của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Tháng 3, 1975, anh bị Việt cộng bắt nhưng trốn thoát trở về nhà cùng gia đình vượt thoát sang Mỹ. Anh, cùng với những người có lòng gây dựng nên cộng đồng người Việt tại tiểu bang Hawaii. Và muốn đi đến tận cùng của cuộc đấu tranh giải phóng đất nước, anh đã trở về chiến khu và trong những ngày tháng bi hùng của tổ chức, anh đã đảm nhiệm trách vụ hàng đầu của Lực lượng võ trang kháng chiến. Ngày 28 tháng 8 năm 1987, khi bị giặc cộng vây ở Nam Lào. Bị thương và không muốn sa vào tay giặc, anh tuẫn tiết ở rừng Nam Lào.

Tên anh là Nguyễn Trọng Hùng.

*

Mùa Hè năm 1984, tòa soạn báo Kháng Chiến đón một khách quý. Ông từ chiến khu trở ra hải ngoại công tác. Dáng người ông nhỏ nhắn nhưng vẻ mặt cứng rắn, quả quyết của một quân nhân từng vào sinh ra tử với sư đoàn nhảy dù Việt Nam Cộng Hòa. Ngày ông đến thăm, đặc biệt để gặp anh em phụ trách cơ quan ngôn luận của tổ chức và cũng để gặp một phụ nữ cũng rất đặc biệt, đó là nhà văn Trùng Dương. Ông đề nghị mọi người ngồi dưới sàn để chuyện trò thoải mái hơn. Ông sống bình dị vô cùng. Ông từng giữ chức vụ Trung tá Lữ Đoàn Phó Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù. Theo lời kể của Bác sĩ Trần Đức Tường, trong cuộc hành quân Lam Sơn 719 tại Hạ Lào, khi căn cứ bị cộng quân tràn ngập, ông đã yêu cầu pháo binh bắn trên đầu mình. Một vị bác sĩ phải kéo người lính truyền tin chạy xuống đồi làm đứt dây ống nói, ông mới chịu rời vị trí. Ông "là con người như vậy, dũng cảm, gan dạ, sống chết với đơn vị, thà chết vinh hơn sống nhục". Sau khi cùng gia đình vượt thoát sang Hoa Kỳ năm 1975, ông tiếp tục tìm người đồng tâm đấu tranh chống Cộng sản Việt Nam. Sau đó, ông đã cùng nhiều người yêu nước trở về chiến khu. Nói về "chiến khu", ông chia xẻ với nhà văn Trùng Dương: "chiến khu là nơi xảy ra những công tác tuyên vận, móc nối, hay những nơi huấn luyện, có thể là một bờ kinh, một góc vườn, một con đò giữa sông, ở dưới một tán bần hay cạnh một gốc dừa… Có thể nói không ngoa rằng chiến khu ở trong lòng mọi người dân. Còn nếu quan niệm rằng chiến khu là một doanh trại, có nhà cửa khang trang, với đây là chỗ ngủ, kia là phòng ăn, sân tập họp, bãi bắn… thì chúng ta không có chiến khu". Đó là một trong những quan niệm mới của đấu tranh giải phóng. Ông, từ một sĩ quan Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa trở thành Tư lệnh Lực Lượng Võ Trang Kháng Chiến. Đau đớn thay, ông đã nằm xuống trong rừng núi chiến khu vì cơn sốt rét ác tính, vào ngày 1 tháng 5 năm 1985.

Ông tên là Lê Hồng.

*

Năm 1985, ông rời chiến khu trở lại Hoa Kỳ để ổn định công việc điều hành tại hải ngoại. Trong một phiên họp bất thường, ban chấp hành hải ngoại đã quyết định họp tại tòa soạn báo Kháng Chiến. Vì số người đông so với phương tiện của tòa soạn, đêm về, ông đã ngủ dưới sàn nhà cùng với tất cả ban chấp hành. Mà nhớ đến nhân cách làm tướng của tác giả "Hịch Tướng Sĩ" Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn. Chủ-tướng như ruột thịt, như anh em. Một thời là tướng hải quân Việt Nam Cộng Hòa cũng vậy, người "Anh Hai Thủy Bộ" này đã từng đích thân vào chốn hiểm nguy để giải cứu đồng đội. Ông thương lính của ông như ruột thịt. Nhân cách ông không hề thay đổi. Đó cũng là lý do tại sao nhiều người đã luôn theo ông vào chốn khốn khó, hiểm nguy nơi khu chiến và không muốn ở hải ngoại công tác dù có cơ hội. Tháng 6, 1987, ông rời hải ngoại trở về chiến khu với một kế hoạch xâm nhập quốc nội. Ông đến tòa soạn báo Kháng Chiến thăm các chiến hữu của mình. Dù nét mặt ông luôn anh nhiên, bình thản trước mọi thử thách nhưng anh em biết chuyến đi của ông lần này sẽ gặp nhiều gian nguy. Ông biết điều đó. Ông nói chuyến đi lần này sẽ lâu và ngày gặp lại có lẽ sẽ khá lâu. Ông nói đến chữ "Tâm" và chữ "Tin". Luôn vững tâm và tin tưởng mãnh liệt vào một ngày mai tươi sáng của dân tộc. Ông bắt tay từng người, rất chặt. Tháng 7 năm 1987, ông quyết định dẫn một đoàn kháng chiến quân băng qua lãnh thổ Lào để trở về quốc nội. Trong thời gian đầu của chuyến đi, đoàn quân đã không gặp nhiều khó khăn, mặc dù có những trận đụng độ với bộ đội Lào cộng và bộ đội Việt cộng đóng trên xứ Vạn Tượng nhưng không đáng kể. Tuần lễ đầu tháng 8/1987, khi đoàn quân gần đến biên giới Lào Việt nằm về hướng Đông tỉnh Attopư thì bắt đầu đụng độ khá nặng với lực lượng biên thùy của Việt cộng. Trong trận đụng độ này, một số kháng chiến quân đã bị bắt. Do sự khai báo của một vài kháng chiến quân, lãnh đạo Việt cộng biết được sự hiện diện của ông trong đoàn quân, nên đã huy động bộ đội lên đến cấp Trung đoàn bủa vây và dùng cả trực thăng để quan sát, dùng pháo binh để truy kích với mục tiêu là bắt sống ông. Sau hơn hai tuần lễ cầm cự và giao tranh dữ dội, nhiều kháng chiến quân đã hy sinh, và ông cũng đã bị thương. Đến ngày 27/8/1987, đoàn quân kháng chiến bị vây trên một ngọn đồi. Lãnh đạo Việt cộng xua quân tấn công nhiều đợt lên đồi để cố bắt sống ông. Mặc dù các kháng chiến quân chiến đấu rất anh dũng, nhưng quân ít, đạn thiếu, không sao thoát khỏi vòng vây của kẻ thù. Trong hoàn cảnh đó, đêm ngày 27/8 rạng sáng ngày 28/8, ông đã tập trung anh em lại dặn dò lần cuối. Ra lệnh cho những ai còn khỏe thì cố gắng tìm đường thoát khỏi vòng vây, ai không đi được thì ở lại tử thủ. Những người còn khỏe không ai chịu rời bỏ người chủ tướng, không ai muốn rời bỏ anh em. Trong cái không khí bi hùng u uất đó, pháo đạn như đã xiết lại gần hơn, vậy mà những người nghĩa dũng vẫn vây chung quanh người chủ tướng. Mọi người đều khóc. Dù bị thương, ông vẫn nói đến tiền đồ dân tộc, đến đại cuộc giải phóng đất nước. Khó mà tưởng tượng ông nhắc đến hoàn cảnh bi tráng mà người anh hùng dân tộc Lương Ngọc Quyến đã trải qua trong cuộc khởi nghĩa ở Thái Nguyên năm 1917. Ông Lương Ngọc Quyến đã tự sát để các nghĩa quân không vướng bận khi phải tháo lui. Chính vì hiểu điều này, các kháng chiến quân còn khỏe mạnh đã rời khỏi ngọn đồi. Ông đã ra lệnh cho các kháng chiến quân mở đường ra khỏi vòng vây, trong khi ông và một số chiến hữu bị thương ở lại bắn để chặn đường. Lúc đó, cộng quân tấn công dữ dội. Vì không muốn sa vào tay giặc, ông đã rút khẩu súng phòng thân ra khỏi vỏ. Không biết ông đã nghĩ gì trong khoảnh khắc bi hùng ngắn ngủi đó. Tiếng súng nổ đã vang lên trong núi rừng Nam Lào trước sự chứng kiến uy nghiêm của những chiến hữu còn lại. Mọi người đã qùy xuống lạy vị chủ tướng đáng kính, và rồi sau đó nhiều tiếng súng ngắn tiếp tục vang lên như xé trời tang.

Ông tên là Hoàng Cơ Minh.
*

Họ là những kháng chiến quân của Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất Giải Phóng Việt Nam. Họ cũng là những đảng viên cốt lõi của Việt Nam Canh Tân Cách Mạng Đảng - Đảng Việt Tân. Những người đã từ bỏ sự nghiệp, rời xa mái ấm gia đình, quên đi hạnh phúc cá nhân để trở về khu chiến Dựng Cờ Chính Nghĩa. Họ đã chứng minh sự tiếp nối truyền thống hào hùng yêu nước và cứu nước của Tổ Tiên Việt Nam.

*

Bài viết này được ghi lại từ kỷ niệm của một đoàn viên từng có cơ hội công tác với báo Kháng Chiến và có duyên may mắn được gặp năm kháng chiến quân kể trên. Người viết xin được ghi lại như một nén hương lòng tưởng kính đến tất cả những người Việt Nam đã quên thân mình và hy sinh trên con đường mang lại Tự Do và Dân Chủ cho Việt Nam.

Hành Tư

-----------

Phó Đề Đốc Hoàng Cơ Minh

Phan Lạc Tiếp

Sau này, khi đã ra trường, công tác và trách nhiệm đòi hỏi, đa số anh em cùng khoá chúng tôi là những ngươi đi tàu tốt. Nhiều người đã là Hạm Trưởng những chiến hạm lớn nhất của Hải Quân: khu trục hạm, tuần dương hạm. Trong trận hải chiến lịch sử chống quân Trung Cộng tại Hoàng Sa, ngày 19 tháng 1 năm 1974, hai trong bốn vị Hạm Trưởng tham dự trận đánh là Sĩ Quan khoá 11. Tôi cũng từng là Hạm Trưởng, chỉ huy một con tàu nhỏ, nhưng hình ảnh Hạm Trưởng Hoàng cơ Minh, vẫn là một mẫu mực đẹp đẽ trong ký ức của tôi.

ông Minh là một tên tuổi gắn liền với những chiến công ở các vùng lửa đạn.

Trong những cuộc hành quân sôi động, với một trực thăng biệt phái, ông Minh hầu như hiện diện khắp nơi thuộc Vùng 4 Chiến Thuật. Những "đứa con" của ông, hễ có đụng là đã thấy tiếng ông trên máy. Và khi khẩn cấp, ngặt nghèo, không gọi, đã thấy ông bay trên đầu theo dõi, chỉ thị, hỗ trợ và tiếp cứu.

Hãy theo dõi một đoạn bút ký của anh Nguyễn Đình Sài, cựu sĩ quan trong Lực Lượng Thuỷ Bộ, diễn tả lại một trong những cảnh bi hùng từng xẩy ra trên bao nhiêu khúc sông oan nghiệt trong cuộc chiến ở đồng bằng sông Cửu Long: "...Tôi đang chỉ thị cho hai chiếc Alpha đến kéo chiếc Monitor bị đạn ra thì bỗng thảm hoạ sẩy ra trước mắt. Thuỷ thủ LVN trên chiếc Tango Bạch Hổ vừa trong ụ súng khẩu đại liên 20mm bước ra ngoài, có lẽ không khí trong thành sắt quá hầm. Một tiếng "phụt" vang lên, thây anh ngã vật xuống sàn, cái đầu văng đâu mất tiêu. Trái B41 không biết từ đâu bay tới hớt gọn cái đầu của anh, rồi lướt qua sàn platform, nổ tung giữa sông... Tôi dùng máy báo cáo với "Thẩm Quyền" đang bay trực thăng ở hướng tây, miệt Kiên Hưng. Qua tiếng nói, tôi nhận ra giọng nói của "Thẩm Quyền", chính là Đại Tá Hoàng cơ Minh... Ông bảo đợi đó, đã có tiếp vận và tải thương đang trên đường đến. Thế là ông bay đi... Khoảng hơn giờ sau thì có tiếng máy tàu vọng đến từ hạ giòng. Một đoàn giang đỉnh 5 chiếc gồm 3 Alpha và 2 Monitor im lặng vô tuyến chạy vào, đến gần mới sang tần số hành quân để liên lạc. Qua ánh đèn pin chiếu xuống sàn tàu hắt lên, tôi giật mình kinh ngạc, nhận ra người đầu tiên nhảy sang tàu tôi chính là Đại Tá Hoàng cơ Minh, Tư Lệnh Lực Lượng Thuỷ Bộ. Ông Minh bước đến xác thuỷ thủ N., lật tấm mền ra, cố ôm cái xác cụt đầu lên, cằm ông bạnh ra như muốn kìm chế nỗi thương tâm người thuộc cấp và lòng oán hận kẻ thù. Mọi người lặng đi trong nỗi xúc động tột cùng. Suốt cả đời tôi không bao giờ quên cảnh tượng bi hùng trong giờ phút ấy..."

Đọc đoạn búy ký này tôi rùng mình kinh sợ, hai tay nổi gai. Nhưng trong Hải Quân, ai đã dấn thân vào những "vùng tử địa" như U Minh Thượng, U Minh Hạ dưới quyền chỉ huy của tướng Minh, đều có những kỷ niệm lạnh mình lo sợ, lẫn sững sờ mừng vui khi thấy vị Tư Lệnh của mình bất ngờ xuất hiện như thế. Những cảnh huống ấy mỗi lúc mỗi nhiều, chồng lớp và biến thể, thêm bớt thành những huyền thoại bao phủ hình ảnh của niên trưởng Hoàng cơ Minh.

Khi làm Tư Lệnh Lực Lượng Thuỷ Bộ, ông Minh đã có mặt trên những khúc thuỷ trình sắt máu này, như những người lính tiền phong tiến vào vùng lửa đạn. Theo lời kể của anh Lý anh Kiệt, Tham Mưu Phó Hành Quân, kiêm Trưởng Phòng 3 của Lực Lượng này trong các năm 1973-75, như sau: "Dọc theo kinh Phụng Hiệp, từ Cần Thơ đi Sóc Trăng dài hun hút, năm 1974, gần 50 đồn bót bị Cộng Quân san bằng. Tư Lệnh Quân Đoàn 4 ra lệnh: bằng mọi giá phải xây dựng lại. Trong cuộc hành quân này vai trò của Hải Quân rất là nặng nề: Dùng đường thuỷ mở lại đầu cầu. Chở Bộ Binh tái chiếm. Yểm trợ Bộ Binh xây dựng lại đồn bót. Đặc biệt chú trọng đến công tác Tâm Lý Chiến, Dân Sự Vụ, giúp dân xây dựng lại cửa nhà. Như thế trong vùng "xôi đậu" này, dưới nước thuỷ lôi nhiều như dừa khô; Trên bờ địch lẩn trong dân như trấu. Vậy mà trên chiếc xe Jeep chạy dọc theo bờ kinh dài hun hút, tướng Minh vẫn ra lệnh cắm hiệu kỳ 1 sao phấp phới. Khi di chuyển dưới nước, khai diễn cuộc hành quân, ông ngồi trên mui chiếc Fom, đi đầu đoàn chiến đỉnh, ngôi sao bạc vẫn lấp lánh trên vai áo. Mình đi theo ông, thấy ông như thế, chẳng lẽ ngồi trong lòng tàu, đành cũng phải đứng quanh quẩn sau ông. Một tràng đại liên, một quả B40 phụt ra là tất cả Bộ Tham Mưu Lực Lượng bay hết. Không giải thích được. Có lẽ ông Minh tin mạnh mẽ vào cung mệnh của mình trong lá số tử vi. Và có lẽ địch cũng không thể ngờ trên một chiến đỉnh nhỏ bé ấy lại có một ông tướng ngồi trên mui tàu, dẫn đầu cuộc hành quân."

Nói về ăn uống, có nhiều người vẫn cho rằng Hải Quân sang trọng, ăn uống kiểu cách, thừa mứa. Điều ấy có lẽ khá đúng trong thời gian đầu dưới quy chế của Hải Quân Pháp mà thôi. Sau này, nhất là trong giai đoạn cam go của cuộc chiến, mọi quân nhân, bất cứ cấp bậc, và quân binh chủng nào, cuộc sống đều rất kiệm ước, khó khăn. Phó Đề Đốc Đặng cao Thăng, xuất thân từ trường sĩ quan danh tiếng của Pháp, trường Brest, cho hay: "Lương lậu chúng tôi chỉ đủ ăn. Hàng ngày chúng tôi dùng cơm trong Câu Lạc Bộ, kể cả tướng Nguyễn khoa Nam, Tư Lệnh Quân Đoàn. Tôi đôi khi ăn cơm gánh (tà lọt) mua về từ chợ Cần Thơ."

Tướng Hoàng cơ Minh chẳng những không ra ngoài thông lệ ấy, mà ông còn giản dị hơn nhiều. Anh Lý anh Kiệt cho hay: "Hàng ngày ông Minh ăn trong Câu Lạc Bộ như những sĩ quan khác. Nếu bất ngờ có khách, ông sai mổ ngay một con heo... (hộp). Thuốc thì như lính, rặt Bastos xanh, khét lẹt. Khi bay thị sát chiến trường hay thăm viếng các đơn vị trực thuộc, ông và đoàn tuỳ tùng, mỗi người đem theo một ổ bánh mì dài, hay mấy bị cơm sấy và một bi-đông nước. "Tránh làm phiền những đơn vị", ông luôn nhắc nhở các sĩ quan như thế. Lúc rảnh rỗi ông nghiền ngẫm bộ Tam Quốc Chí. Trong khi tụi tao thì nghiện Cô Gái Đồ Long. Ông bảo: Nhà binh phải thuộc Tam Quốc Chí. Hay lắm, áp dụng vào thực tế vẫn hữu ích vô cùng..."

Nhân câu chuyện này cũng khiến tôi nhớ đến bữa tiệc được tổ chức tại Bộ Tư Lệnh Thủy Bộ vào năm 1973, khoản đãi Tư Lệnh Hải Quân và phái đoàn thanh tra.

Bữa tiệc diễn ra đúng nghi lễ. Các sĩ quan chủ cũng như khách mặc tiểu lễ trắng, lon vàng mới óng ánh, giây biểu chương và huy chương cuống rực rỡ. 6 người một bàn. Các bàn kê sát nhau thành một hàng dài, trải khăn bàn trắng tinh. Tư Lệnh Hải Quân ngồi ở đầu bàn, chỗ ngồi danh dự nhất. Đối diện với Tư Lệnh, cuối dãy bàn là vị trí của vị sĩ quan ít thâm niên nhất, và đương nhiên là Sĩ Quan Ẩm Thực. Trước khi vào tiệc, Sĩ Quan Ẩm Thực đứng lên, trịnh trọng đọc thực đơn, đúng theo truyền thống Hải Quân trong những bữa tiệc quan trọng. Nhưng thực đơn hôm ấy chỉ là mấy món ăn đơn giản như một bữa cơm thường trong Câu Lạc Bộ gồm thịt kho, dưa giá. Món canh là một con vịt hầm rất kỹ trong một nồi lớn, đầy nước đang xôi, bốc khói nghi ngút. Bên cạnh đó là một đĩa rau sống khổng lồ, để nhúng vào nồi nước hầm vịt. Vị Sĩ Quan Ẩm Thực hình như đã được học tập, chỉ thị chu đáo, nên đã trình bày khá tỷ mỉ và duyên dáng về món ăn "quan trọng" này. Đó cũng là món chính, món cuối cùng. Vì sau món đó là đồ tráng miệng bằng chuối. (Có nghĩa là bữa ăn chỉ có thế thôi, không còn gì thêm nữa đâu).

Tôi có tham dự bữa ăn này, vì lúc ấy tôi là Trưởng Phòng Tâm Lý Chiến, Bộ Tư Lệnh Hải Quân, tháp tùng Đô Đốc Tư Lệnh trong phái đoàn thanh tra. Nghe đọc thực đơn chúng tôi không dám cười. Mọi người không ai dám cười, vì bữa ăn này còn là một nghi lễ, được đánh giá, cho điểm như một sinh hoạt của đơn vị. Sau tôi có hỏi một sĩ quan: Sao lại đơn sơ quá vậy? Vị sĩ quan này cho biết: "Tư Lệnh chúng tôi không đồng ý để các sĩ quan phải đóng nhiều tiền đãi khách. Thủy Bộ hành quân liên miên, không có một ngân quỹ nào để khoản đãi phái đoàn."

Việc này, mới đây (tháng 12, 2002), tôi có nhắc lại với anh Lý anh Kiệt. Anh Kiệt nói: "Ông Minh lúc đầu còn chỉ thị tụi tao sẽ thu tiền ăn các người tham dự, trừ Đô Đốc Tư Lệnh Hải Quân mà thôi. Thấy kỳ quá, chính tụi tao bỏ tiền ra đãi khách, ông Minh không biết. Không ai dám cho ông biết sự thật đó cả. Cũng vì thế bữa tiệc cũng không dám bày vẽ gì thêm".

Từ những can trường, dũng mãnh và hành xử đặc biệt ấy, ông Minh đã thăng hoa, đeo sao ở Lực Lượng Thuỷ Bộ, qua mặt rất đông những vị đàn anh. Từ đó lớp hào quang và huyền thoại quanh ông hầu như mỗi lúc mỗi thêm dày đặc. Có những phỏng đoán, đồn đại: ông Minh sẽ nắm chức vụ này, chức nọ nay mai.

Sau đó là lúc đất nước đến hồi nghiêng ngửa, vào tháng 3 năm 1975, tướng Minh được chỉ định ra Miền Trung làm Tư Lệnh Vùng 2 Duyên Hải. Một vùng duyên hải dài nhất trong 5 vùng, chạy dài từ Quy Nhơn đến Phan Thiết, gồm những duyên đoàn 21 đóng tại Tam Quan, Hải Đội 2 Duyên Phòng đóng tại Quy Nhơn (căn cứ cũ của Duyên Đoàn 22 đã giải tán), Duyên Đoàn 23 tại Sông Cầu, duyên đoàn 25 tại Hòn Khói, duyên đoàn 26 tại Bình Ba, duyên đoàn 27 tại Ninh Chữ và duyên đoàn 28 tại Phan Thiết. Bộ Tư Lệnh Vùng 2 Duyên Hải đóng tại Cam Ranh, chỉ huy tất cả 6 duyên đoàn, và mấy chục Duyên Tốc Đỉnh của Hải Đội Duyên Phòng, những cơ sở tiếp vận sửa chữa, các đài kiểm báo trong vùng và những chiến hạm của Hạm Đội biệt phái.

Ngày 31 tháng 3, Quy Nhơn địa đầu cực Bắc của vùng 2 Duyên Hải ở trong tình trạng nguy ngập. Ngoài những đơn vị cơ hữu trực thuộc, trên mặt biển ngoài khơi Quy Nhơn có những chiến hạm sau đây từ Sài Gòn biệt phái hiện diện, đặt dưới quyền điều động của tướng Hoàng cơ Minh: HQ 2, HQ 3. HQ 7, HQ 400, HQ 403, HQ 406, HQ 505 và một số những chiến hạm nhỏ. Tướng Minh hiện diện trên Tuần Dương Hạm Trần nhật Duật, HQ 3, do HQ Trung Tá Nguyễn kim Triệu làm Hạm Trưởng, tướng kỳ 1 sao trắng trên nền xanh, phấp phới trên kỳ đài.

Sáng ngày 31 tháng 3, lệnh từ Sài Gòn, chỉ thị cho Hải Quân vào bãi biển Quy Nhơn bốc Sư Đoàn 22 Bộ Binh. Hai hải vận hạm HQ 403 và HQ 400, dưới sự đôn đốc của HQ Trung Tá Lê thuần Phong, Chỉ Huy Trưởng Hải Đội Chuyển Vận, ủi bãi Quy Nhơn, trước trường Sư Phạm để đón quân của Sư Đoàn 22 đang có mặt trên bãi. Nhưng tàu vừa hướng mũi vào bãi ủi, bị hoả lực của địch bắn ra quá mạnh. B40 nổ tung phía trước. Chiến hạm phải lùi ra, trong nhiệm sở tác chiến, đồng thời thả thang giây và lưới hai bên hông chiến hạm để anh em Bộ Binh leo lên tàu. Do đó quân từ trên bờ của Sư Đoàn 22 Bộ Binh phải liều chết bơi ra tàu. Cuộc vớt người diễn ra trên vùng biển Quy Nhơn suốt ngày đêm rất khó nhọc, bi thương, nhưng không đến nỗi ngập máu như ở Đà Nẵng. Biển êm. Tàu chỉ lùi ra ở độ xa vừa phải, ngoài tầm đạn địch, dùng hoả lực cơ hữu của chiến hạm phản pháo và bắn cản địch đang tiến tới ở trên bờ, phía sau anh em Sư Đoàn 22 Bộ Binh. Trong số những quân nhân bơi ra biển và được chiến hạm Hải Quân vớt, có cả Thiếu Tướng Phan đình Niệm, Tư Lệnh Sư Đoàn 22 Bộ Binh. Lên được chiến hạm HQ 400, tướng Niệm ở trong tình trạng suy nhược nặng nề cả thể chất lẫn tinh thần. Ông được săn sóc đặc biệt, vì HQ 400 vốn là một bệnh viện hạm. Tất nhiên mọi quân nhân của của Sư Đoàn này lên được chiến hạm, ai cũng sũng nước, đói khát nằm lăn ra sàn tàu, không còn hàng ngũ gì nữa. Thiếu Tướng Phạm văn Phú, Tư Lệnh Quân Đoàn 2, chỉ định Tướng Minh thay thế tướng Niệm, kiêm nhiệm Tư Lệnh Sư Đoàn 22 Bộ Binh và Tư Lệnh chiến trường Bình Định.

2 giờ sáng ngày 2 tháng 4, Tướng Minh nhận được lệnh từ Sài Gòn qua Bộ Tư Lệnh Hải Quân và trên Đài Quân Đội thông báo: Tổng Thống Thiệu bổ nhiệm tướng Minh làm Tổng Trấn Quy Nhơn. Tướng Minh có toàn quyền điều động tất cả lực lượng tại địa phương để tái chiếm Quy Nhơn, gồm Sư Đoàn 22 BB, Biệt Động Quân, Địa Phương Quân, Hải Quân. Trung Tá Nguyễn kim Triệu, Hạm Trưởng HQ 3, nhớ lại, cho biết: "Để thi hành lệnh này, sáng sớm ngày 2 tháng 4, ông Minh chỉ thị các chiến hạm hiện diện, túc trực ở sát bờ biển Quy Nhơn, sẵn sàng nhận lệnh cuả ông từ trong bờ. Đích thân tướng Minh và Bộ Tham Mưu nhẹ, rời HQ 3, xuống chiến đỉnh nhỏ vào Bộ Chỉ Huy Hải Đội 2 Duyên Phòng, để trực tiếp nắm vững tình hình trên bộ. Từ đây những liên lạc hàng dọc, cũng như hàng ngang với các đơn vị bạn đã vắng ngắt. Nhất là trên các tần số liên lạc với Sư Đoàn 22 Bộ Binh, không còn ai nghe nữa. Riêng về Tướng Phan đình Niệm, Tư Lệnh Sư Đoàn 22 BB, vì sức khoẻ suy kiệt, được điều trị trên Bệnh Viện Hạm HQ 400, đang ở ngoài khơi Vũng Tàu, trên đường về Sài Gòn. Trước hoàn cảnh này, tướng Minh trở lại HQ 3, tường trình về Sài Gòn. Tất cả các chiến hạm biệt phái cho Vùng 2 Duyên Hải và các chiến đỉnh trực thuộc, theo lệnh tướng Minh, xuôi Nam."

Trên đường xuôi Nam, các chiến hạm nối đuôi nhau, uy nghiêm, thứ tự như diễn hành thao dượt. Vẫn lá cờ xanh, một ngôi sao trắng trên cánh phải của cột cờ, phấp phới tung bay. Biển êm như mặt kính, chưa bao giờ lại êm như thế. Các chiến thuyền của các Duyên Đoàn, nhất là các Duyên Tốc Đỉnh của Hải Đội Duyên Phòng chở theo đầy người, quân nhân và gia đình, chạy dọc theo hai bên đoàn tàu. Những ghe dân túa ra như lá tre. Tướng Minh ra lệnh cho các chiến đỉnh, chiến thuyền của đơn vị thận trọng để tránh địch và những phần tử vô kỷ luật gây xáo trộn; và tuỳ khả năng, các chiến đỉnh cố gắng cứu vớt hoặc trợ giúp mọi người. Nếu vớt được quá đông người thì ghé vào các chiến hạm lớn, san người lên đó. Bất cứ quân nhân nào bước lên chiến hạm, chiến đỉnh, nếu có khí giới, đều phải giao nộp, cất vào kho.

Trở lại Bộ Tư Lệnh Vùng 2 Duyên Hải tại Cam Ranh, ông Minh dùng trực thăng thị sát mặt trận, theo dõi tình hình trong vùng trách nhiệm, và ra lệnh cho các chiến hạm tận dụng hải pháo bắn ngăn chặn bước tiến của Bắc quân, phá sập những cây cầu quan trọng. Cam Ranh xáo trộn. Ông trở lại HQ 3, tiếp tục xuôi Nam. Ông ra lệnh phá huỷ Trung Tâm Phát Tuyến trên đảo Cam Ranh. Chiều ngày 3 tháng 4, hải đoàn đi ngang Duyên Đoàn 27 ở Ninh Chữ, tướng Minh rời HQ 3, sang Tuần dương Hạm HQ 2, do HQ Trung Tá Đinh mạnh Hùng, khoá 11 (trùng tên với Phó Đề Đốc Đinh mạnh Hùng), làm Hạm Trưởng. Hạm Trưởng Hùng và toán dàn chào đón đợi ở hạm kiều và hướng dẫn Tướng Minh lên Trung Tâm Chiến Báo (CIC) của chiến hạm. Tại đây Tướng Minh lại tiếp tục theo dõi trận liệt và chỉ huy mặt trận tại địa phương.

Ngày 15 tháng 4, Tướng Minh đáp trực thăng vào phi trường Phan Rang, quê hương của Tổng Thống Nguyễn văn Thiệu, họp cùng Trung Tướng Nguyễn vĩnh Nghi, Tư Lệnh Mặt Trận Phan Rang; Chuẩn Tướng Nguyễn văn Nhựt (Sư Đoàn 2 Bộ Binh); Chuẩn Tướng Phạm ngọc Sang, Tư Lệnh SĐ 6 KQ và một số sĩ quan khác, để cùng phối hợp hoạt động tại mặt trận này.

Trung Tá Đinh mạnh Hùng cho hay: "Mới xong phần giới thiệu thành phần tham dự, thì có tin phi trường đã bị địch bao vây, buổi họp giải tán ngay. Tướng Minh cấp tốc được trực thăng bốc ra Soái Hạm HQ 3".

Tối 16 tháng 4, tình hình Phan Rang trở nên sôi động. Tăng T54 của địch nằm ngay bãi biển Phan Rang, chĩa súng ra khơi. Dương vận Hạm HQ 503 do HQ Trung Tá Nguyễn văn Lộc, khoá 11, vào gần bờ phản pháo. Khi HQ 503 quay ngang để tận dụng hết khả năng hoả lực bắn vào bờ, Việt Cộng dùng đại bác 105 ly lấy được của mình bắn trực xạ ra chiến hạm. Một trái đại bác trúng đài chỉ huy, nổ tung, Hạm Trưởng Lộc bị thương vào đầu, máu ra sối xả, nhưng ông vẫn bình tĩnh ra lệnh cho tàu rút ra khơi. (Cho đến nay, gần 30 năm, mảnh đạn vẫn trong đầu của Hạm Trưởng Lộc, vì không thể giải phẫu, lấy mảnh đạn ra. Giải phẫu là chết. Ông hiện ở trong tình trạng khi đau, khi tỉnh). HQ 3, HQ 505 và HQ 406 cũng đổi vị thế, lùi ra ngoài tầm bắn của địch.

Ngày 17 tháng 4, HQ 406 chở Cảnh Sát Dã Chiến, dự trù đổ bộ tăng cường cho Phan Rang, không thành, được lệnh về Cát Lở. HQ 505 nằm ngoài khơi vịnh Phan Rang chờ lệnh. HQ 3 được lệnh đưa phó Đề Đốc Hoàng cơ Minh trở lại Sài Gòn. HQ 3 đặt dưới quyền điều động của Phó Đề Đốc Nguyễn hữu Chí, Phụ Tá Hành Quân Biển. Trong khi đó, Trung Tướng Nguyễn vĩnh Nghi, Tư Lệnh mặt trận Phan Rang và Chuẩn Tướng Phạm ngọc Sang, Tư Lệnh SĐ6KQ bị địch bắt. Tin này được loan báo trên đài phát thanh Sài Gòn. Đài phát thanh Hà Nội cũng loan tin này với những lời phát biểu ngắn của chính Trung Tướng Nguyễn vĩnh Nghi. Mặt trận Phan Rang vỡ. Cứ điểm chống cự sống chết của Sài Gòn bây giờ là Xuân Lộc.

***

Từ mặt trận Vùng 2 Duyên Hải trở về, đóng tại Cát Lái, Phó Đề Đốc Hoàng cơ Minh làm việc với Phó Đề Đốc Đinh mạnh Hùng, Phụ Tá Tư Lệnh Hải Quân, đặc trách Hành Quân Sông. Trong hàng tướng lãnh Hải Quân, dưới Phó Đô Đốc Chung tấn Cang, 3 sao, Tư Lệnh Hải Quân, Phó Đề Đốc Đinh mạnh Hùng, 1 sao, là người thâm niên nhất. (Hai vị tướng 2 sao khác là Đề Đốc Trần văn Chơn, cựu Tư Lệnh Hải Quân, thì đã về hưu; Đề Đốc Lâm ngươn Tánh, cựu Tư Lệnh Hải Quân thì được biệt phái sang Phủ Quốc Vụ Khanh, lo cho người tỵ nạn). Tướng Hùng xuất thân khoá 2 Sĩ Quan Hải Quân Nha Trang, từng lần lượt đảm nhiệm nhiều chức vụ quan trọng. Ông cũng được tiếng là một vị sĩ quan cẩn trọng, lịch duyệt, kín đáo, được thượng cấp tin cẩn và thuộc cấp kính trọng. Trong cuộc nói chuyện với Đô Đốc Chung tấn Cang, chúng tôi có hỏi rằng: "Ai là người có công nhất trong việc đem đoàn tàu ra khơi?" Đô Đốc Cang cho biết: "Hải Quân, như một chiếc tàu, không ai làm việc được một mình. Mọi thành công lớn, nhỏ, đều là công sức của tập thể, của nhiều người. Nhưng riêng trong việc đem đoàn tàu ra khơi, người có công nhất, ngày đêm lo cho đoàn tàu, là ông Hùng. Phó Đề Đốc Đinh mạnh Hùng..." Trong khi đó, là một sĩ quan Hải Quân di tản trên con tàu Thị Nại, HQ 502, một con tàu hỏng máy, chở theo trên 5000 người lênh đênh, khốn khổ lết ra được ngoài khơi Côn Sơn, khi kêu cứu, liên lạc, chúng tôi chỉ thấy tiếng nói của tướng Hoàng cơ Minh trên máy. Do đó chúng tôi có nêu thắc mắc này với Tướng Đinh mạnh Hùng. Tướng Hùng trả lời đại ý: "Ở trên HQ 3, Soái Hạm, trên hết là Đô Đốc Chung tấn Cang, còn có Phó Đề Đốc Diệp quang Thủy, rồi sau đó còn có Phó Đề Đốc Nghiêm văn Phú và một số Đại Tá. Trước khi đoàn tàu lên đường, chúng tôi có mời những vị tướng lãnh, các vị sĩ quan cao cấp ở những tàu khác sang họp. Sau, ai về tàu nấy với gia đình. Còn lại trên tàu, tôi thỉnh ý, nhận lệnh từ Đô Đốc Cang, rồi cùng bàn bạc mà thi hành. Đúng, các anh chỉ nghe thấy tiếng ông Minh trên máy. Vì trong chuyến hải hành đặc biệt này, để tránh ngộ nhận và rối loạn tần số, ông Minh được Đô Đốc Cang chỉ định trách nhiệm về liên lạc chỉ huy từ Soái Hạm, một tiếng nói chính thức và duy nhất. Ông Minh làm việc rất chuyên cần, 24/24, hầu như không biết mệt. Tiếng ông Minh rõ ràng, có hùng lực, được anh em Hải Quân biết tới nhiều và kính trọng."

Chúng tôi cũng đem ý kiến này hỏi Trung Tá Nguyễn kim Triệu, Hạm Trưởng HQ 3, ông Triệu cho hay: "Trong phòng Chiến Báo (CIC), chỉ có ông Hùng và ông Minh luôn túc trực, theo dõi mọi diễn tiến của Hạm Đội, nhận lệnh từ Đô Đốc Cang mà thi hành. Cả hai ông ấy đều làm việc rất nhiều, mỗi người mỗi việc, rất là nghiêm túc. Ông Hùng thì trông nom tổng quát. Ông Minh trực tiếp điều động. Tôi (Hạm Trưởng HQ 3), nhận lệnh từ 2 vị này, lo cho con tàu của mình mà thôi."

***

Bây giờ gần 30 năm giã từ quân ngũ. Tùy khả năng và hoàn cảnh, mỗi người phải bắt đầu làm lại cuộc sống từ con số không. Chẳng còn ai to, ai nhỏ nữa. Những tình cảm, kính trọng đối với nhau, tất nhiên không phải là những cấp bậc cao thấp khi xưa, mà là tư cách của mỗi cá nhân còn đọng lại trong trí nhớ của nhau. Tập thể nào cũng có những kẻ bất xứng, lợi dụng đục nước thả câu. Nhưng trong gia đình Hải Quân không thiếu những người đầy tư cách, trong đó có niên trưởng Hoàng cơ Minh. Trong những kỷ niệm đáng nhớ với tướng Minh, tôi đặc biệt nhớ hai sự việc này:

Thứ nhất, khi Hạm Đội Việt Nam Cộng Hoà tới bờ biển Phi Luật Tân, chính tiếng ông Minh trên máy, chuyển công điện cuối cùng của Hải Quân, như sau:

Nhóm ngày giờ:071010H/05/75.

From: của HQ 3.

To: Tất cả các chiến hạm.

Để chuyển giao các chiến hạm cho Hải Quân Hoa Kỳ/ Yêu cầu các nơi nhận chuẩn bị thi hành khi có chỉ thị / Các chiến hạm tự tổ chức làm lễ hạ quốc kỳ Việt Nam và trương quốc kỳ Hoa Kỳ / Tiểu đỉnh của Hoa Kỳ sẽ sơn và xoá tên chiến hạm Việt Nam ở sau lại / Giờ giấc thi hành sẽ thông báo sau / Hết.

Từ công điện này, vào hồi 12 giờ ngày 7 tháng 5 năm 1975, trên Biển Đông, các chiến hạm của VNCH đã cùng nhau làm lễ chào cờ lần cuối và hạ quốc kỳ VNCH xuống. Những xúc động khôn cùng đã lưu lại trong bao nhiêu trái tim đau khổ. Phút chốc cả đoàn tàu dũng mãnh, nghiêm túc, đủ loại của Hải Quân Việt Nam, giờ đã phấp phới quốc kỳ Mỹ, lần lượt cập cầu căn cứ Subic của Mỹ ở Phi luật Tân.

Đoàn người từ các chiến hạm lũ lượt mang hành lý sang con tàu buôn Green Forrest. Một con tàu chở hàng khổng lồ. Những khoang trống, sâu hun hút rộng thênh, bây giờ được bắc tạm những cầu thang gỗ để lên xuống. Đoàn người như một thứ hàng hoá không còn giá trị, xô bồ, đầy bất trắc, xúc động, rất dễ bùng lên thành những xáo trộn khó lường, khó xử, như mới chỉ vài tuần trước đây đã từng xẩy ra trên chính con tàu này khi di chuyển người từ Đà Nẵng vào Phú Quốc. Theo sự cho biết của Phó Đề Đốc Đặng cao Thăng thì: "Các vị Tư Lệnh, phần lớn là cấp tướng, được Mỹ chở thẳng vào Guam bằng máy bay. Riêng ông Minh, ông tình nguyện đi tàu biển cùng với anh em thủy thủ đoàn và dân chúng. Cuộc đi khá dài, cực khổ, tế nhị. Sự hiện diện của ông Minh, theo tôi, đã giữ tinh thần cho anh em rất nhiều."

Kỷ niệm đáng nhớ thứ hai, vào trung tuần tháng 5 năm 1975, trong khu lều vải Orote Point, Guam, với tư cách cá nhân, tướng Minh đã tìm đến đây để sinh hoạt với anh em Hải Quân. Trong bơ vơ và tràn đầy xúc động, nhiều anh em đã ngẹn ngào nêu những thắc mắc, phẫn nộ liên hệ đến một vài tin đồn, những hành động bất xứng của người này, người khác. Ông Minh, rất bình tĩnh giải đáp và khuyên can. Đặc biệt, để kết luận, ông đã nói: "Việc anh nêu lên là thượng cấp không ai có ý kiến gì hướng dẫn anh em. Điều này quả thực tôi cũng có nghĩ đến, nên hôm nay mới tìm đến đây với anh em. Song đó chỉ là ý kiến cá nhân tôi, còn các vị khác, theo như tôi biết, tất cả còn rất bàng hoàng. Mọi việc đã xẩy ra ngoài dự trù của chúng ta. Dù ai có ý kiến gì lúc này chắc cũng không thể nào thi hành được. Một ván cờ đã xoá. Mọi việc đã xong. Điều mà chúng ta phải làm là, ngoài việc định cư trên đất mới, chúng ta phải sáng suốt tìm hiểu mọi diễn tiến của thời cuộc, và đặc biệt giữ lấy mối căm thù mất nước ngày hôm nay. Từ đó chúng ta sẽ đoàn kết lại mưu cầu một vận hội mới sau này."

***

Để có một cái nhìn cụ thể, một nhận định đã trực tiếp ảnh hưởng đến binh nghiệp của ông Minh, bài viết này đã được gửi lên vị cựu Tư Lệnh Hải Quân, người đã phê điểm và đề nghị ông Minh lên tướng, Đề Đốc Trần văn Chơn đã đọc rất kỹ và ghi chú: "Anh viết đúng lắm. Ông Minh là một người tài giỏi. Khi làm Tham Mưu Phó Chiến Tranh Chính Trị tại Bộ Tư Lệnh Hải Quân, ông Minh đã chứng tỏ được lòng hăng say, nhiều sáng kiến trong lãnh vực tham mưu. Khi được giao trách vụ Tư Lệnh Lực Lượng Thuỷ Bộ, hơn ai hết, ông Minh đã tỏ ra can trường và rất là tháo vát. Lực Lượng của ông không chỉ đã góp công trong việc khai thông kinh Phụng Hiệp, giữ huyết mạch kinh tế giữa Sài Gòn và vùng châu thổ Cửu Long giang, mà Lực Lượng Thuỷ Bộ dưới quyền chỉ huy trực tiếp của ông Minh đã quần nát vùng U Minh Thượng, U Minh Hạ, mật khu an toàn và hậu cần căn bản của địch, gây cho chúng nhiều thiệt hại về nhiều mặt, ảnh hưởng rất lâu dài. Ông Minh khoá 5, khi lên tướng mới 38 tuổi, trẻ nhất trong hàng tướng lãnh Hải Quân, vượt qua nhiều vị đàn anh, chính vì ông Minh đã có đủ Tài, Đức và lòng Dũng Cảm. Trong danh sách, tôi đề nghị ông Minh cùng một vài vị Đại Tá khác thâm niên hơn ông Minh. Tôi nghĩ rằng Tổng Thống Thiệu đã chọn ông Minh chính nhờ lòng dũng cảm hơn người của ông Minh. Nếu vận hội bình thường, Miền Nam còn, tương lai của ông Minh, tôi nghĩ, sẽ vô cùng sáng lạn. Sau này khi ông Minh lãnh đạo Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất Giải Phóng Việt Nam, thì tôi còn ở tù. Việt Cộng tỏ ra rất căm tức và có hỏi tôi rất nhiều về ông Minh. Tôi đã hết lời ca ngợi và nói rằng ông Minh là một vị tướng tài của Hải Quân Miền Nam".

Từ 1975 về sau, trong một vận hội mới, Phó Đề Đốc Hoàng cơ Minh là một khuôn mặt xuất hiện trước ánh sáng của thời cuộc, với bao nhiêu vinh quang và hệ luỵ vui buồn. Ông sinh ngày 20 tháng 6 năm 1935, đã hy sinh dũng liệt cùng những chiến hữu tại Nam Lào ngày 28 tháng 8 năm 1987, trên đường trở về mưu cầu giải phóng quê hương. Người viết không phải là thành viên của tổ chức này, không nắm vững vấn đề, nên không dám đề cập, nhận định về những hoạt động sau này của ông. Là một quân nhân cấp nhỏ, có một thời mặc cùng mầu áo với ông, được tin ông nằm xuống, tôi rất bàng hoàng, xúc động và hết lòng kính ngưỡng. Tôi thu góp một số dữ kiện liên hệ trong thời quân ngũ của ông, ghi lại thành bài viết này, thay cho một nén hương tưởng niệm, nghiêng mình kính cẩn trước anh linh của một vị chỉ huy mẫu mực, một vị tướng can trường, một tấm gương thanh liêm và trong sáng của Hải Quân Việt Nam Cộng Hoà. Hy vọng bài viết này thay cho lời phân ưu muộn màng gửi tới đại gia đình Hoàng Cơ và phu nhân Phó Đề Đốc Hoàng cơ Minh.

Chúng tôi cũng xin chân thành đa tạ quý vị Đô Đốc, quý niên trưởng và các chiến hữu Hải Quân đã tận tình hỗ trợ, cung cấp những dữ kiện liên hệ, cũng như chỉ cho những sai sót để bài viết này được hoàn tất.

Phan Lạc Tiếp
18 tháng 6 năm 2003

Phó Đề Đốc HOÀNG CƠ MINH
(Nhân Ngày Giỗ Thứ 14 Phó Đề Đốc Hoàng Cơ Minh)

image038 

"Đường chúng ta đi chỉ có hai cái đích. Cả hai cái đích đều vô cùng vinh quang và ý nghĩa. Một là  giải phóng Tổ Quốc Việt Nam. Hai là được anh dũng hy sinh cho  đại cuộc giải phóng Tổ Quốc Việt Nam"

Ước Mơ Lấp Đá Vá Trời

Hành Tư

    Tháng Tám, mười lăm năm trước, rừng trời tam biên như trở màu tang. Trong những giây phút cuối cùng của một ngày bi hùng  tiếp sau cả tháng trời tiếng súng đạn nổ tung rừng núi Nam  Lào, lịch sử đấu tranh của dân tộc Việt đã vang lên những  tiếng đạn ngắn ngủi bi hùng của những người lãnh đạo đoàn  quân kháng chiến. Phó Đề đốc Hoàng Cơ Minh đã tự sát.

    Nhiều người khác tuẫn tiết theo ông. Không thể hàng giặc.  Họ là những kháng chiến quân Việt Nam. Ngày 16 tháng 4 năm 1983. Bốn năm trước đó. Giám đốc phi trường Los Angeles gọi là ngày "kẹt xe" chưa từng  có. Gần như không còn chỗ nào để đậu xe trong bãi; kể cả ngoài lề đường. Hàng ngàn người Việt đổ về đó, đứng  nghẹt từ cổng đón người lan ra tận ngoài lối vào từ ngoài  đường.     Đoàn người cầm cờ, biểu ngữ đã lẫn vào rừng  người dày đặc. Người ngoại quốc lao xao kinh ngạc, và hiểu dần những chữ tiếng Anh trên một số biểu ngữ. Người  Việt không có nhân quyền. Không có dân chủ. Không có tự dọ  Và người Việt hôm nay muốn Dựng Cờ Chính Nghĩa. Hàng ngàn trái tim như ngừng đập khi ban tổ chức tiếp đón  loan báo phi cơ của Western Airline đã đáp xuống phi đao. Khách  ngoại quốc trên chuyến bay được người sĩ quan cảnh sát  đến tận nơi loan báo có bốn "nhân vật quan trọng" và vì lý  do an ninh, khách ngồi chờ cho đến khi bốn người Việt vận  quần áo bà ba đen rời khỏi máy baỵ Nhưng họ vẫn là những  người khách ngoại quốc may mắn được nhìn thấy những  người lãnh đạo Kháng Chiến Việt Nam trước nhất. Bộ quần áo đen di động đến đâu thì rừng người chuyển  theo đến đó. Những người cận vệ to lớn chỉ đủ sức  chận để đám đông không xô ngã Phó đề đốc Hoàng Cơ Minh,  Chủ tịch Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất Giải Phóng Việt Nam.

    Những tiếng hô làm vang động cả phi trường. Người ta xô  nhau, chụp hình, người ta cố bắt tay. Nhiều người dù cố  bậm môi mà tiếng khóc cứ vuột trào ra.ï Ai cũng muốn được nói một điều gì đó với Kháng Chiến Việt Nam. "Giải  Phóng!". "Việt Nam!". Cả ngàn tiếng đáp lại một ước mơ  chung.

Việc nhân nghĩa vốn ở yên dân
Quân điếu phạt chỉ vì khử bạo (*)

    Đó là chuyến ra hải ngoại lần đầu tiên sau nhiều năm  Tướng Hoàng Cơ Minh cùng với nhiều chiến hữu của ông trở  về Đông Dương mở đường Đông Tiến, tạo dựng lực  lượng, kết hợp sức mạnh trong ngoài. 

Ai có qua truông qua núi
Mới thấy đường Đông Tiến gian nan (**)

    Với những gian nan muốn lấp đá vá trời, chỉ có những đại  hùng tâm mới vượt đến đích tận cùng để dựng cờ chính  nghĩa. Ra hải ngoại, Phó đề đốc Hoàng Cơ Minh tiếp tục đi  vận động những người đồng tâm. Nhiều quan niệm mới về  cuộc đấu tranh giải phóng đã lan từ chiến khu ra đến hải  ngoạị "Đấu tranh vận dụng". "Đấu tranh giải phóng". "Chiến khu ở lòng người, nơi những người miệng nói đấu tranh, chân đi làm cách mạng". Và "hãy cùng nhau tự thành lập đội  ngũ kháng chiến, tự thành lập các ổ kháng chiến. Mỗi khu phố, mỗi góc làng, mỗi căn nhà đều có trhể là một khu chiến", như ông đã kêu gọi đồng bào trong ngày Mặt Trận công bố Cương Lĩnh Chính Trị tại chiến khu, ngày 8/3/1982.

    Người tha thiết không ít, điều cần là nối được cái tâm  chung.  Ông Hoàng Cơ Minh từng là một vị tướng Hải Quân Việt Nam  Cộng hòa trước năm 1975, và ông cũng từng hàng nghề thợ  sơn, lau cửa kiếng, cắt cỏ... trong những ngày tháng đầu  tiên tỵ nạn trên đất khách. Một cánh sao trên áo trận. Một  nét sơn đổ mồ hôi trên cánh cửa. Đối với ông, Tổ Quốc  mới là mối quan tâm sinh tử duy nhất. Thời gian đó có ai còn  nghĩ đến ngày lấy lại quê hương?!

Thế mà trông người, người càng vắng ngắt
Vẫn mịt mờ như kẻ vọng dương (*)

    Bởi vậy, tháng 7 năm 1982, tuần san Shukan Bunsun tại Nhật hỏi:  "Chúng tôi được biết nhiều người hiện đang sống tại Hoa  kỳ nguyên trước kia là những viên chức cao cấp trong chính  quyền (VNCH), hay các tướng lãnh sĩ quan quân đội, ai cũng bảo  sẽ về nước chiến đấu; nhưng đã bảy năm trời qua nhiều  người chờ đợi, mà bây giờ chỉ có một mình Tướng Quân  trở về?". Và người lãnh đạo Kháng Chiến Việt Nam đã trả  lời: "Có rất nhiều người nghĩ và mong muốn trở về nước  chiến đấu. Việc trở về hay không trở về chiến đấu,  chúng tôi không quan niệm đó là vấn đề trọng yếu, mà chúng  tôi cho rằng có chịu chiến đấu hay không mà thôi. Vì thực  ra, có rất nhiều phương thức để chiến đấu". Và ông nhấn  mạnh: "Tôi không phải là một anh hùng. Chính những người đã  và đang chiến đấu từ hơn 7 năm qua tại quốc nội một cách  cô độc mới là những người anh hùng phải được ngưỡng  mộ".

    Chính vì thế, nhiệm vụ của Tướng Hoàng Cơ Minh và tổ chức  của ông chỉ muốn nối những tấm lòng chung, vì "đây không  phải là cuộc đấu tranh của một người làm, đây là không  phải là cuộc đấu tranh của Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất  Giải Phóng Việt Nam, đây là cuộc đấu tranh của nhân dân  Việt Nam để giải phóng Tổ Quốc Việt Nam", như ông chia xẻ  với đồng bào ở miền Nam California, ngày 17/4/1983. Hay những  người cùng chí hướng với ông chỉ mong muốn "tiến hành một  cuộc đấu tranh có chính nghĩa, lấy chính nghĩa để huy động  toàn dân, lấy chính nghĩa để tranh thủ thế giới, và lấy  chính nghĩa để khuất phục kẻ thù", như ông đã nói chuyện  với đồng bào trong ngày Đại Hội Chính Nghĩa, 30/4/1983, tại  thủ đô Hoa Thịnh Đốn.

 Dẫu cường nhược có lúc khác nhau,
 Song hào kiệt thời nào cũng có (*)

    Trong những ngày tháng công tác tại hải ngoại, Phó đề đốc  Hoàng Cơ Minh miệt mài đi gặp gỡ  đồng bào. Ông bảo ngày nay  người đồng tâm gặp nhau dễ dàng như vậy, không hiểu ngày  xưa cụ Sào Nam Phan Bội Châu di chuyển bằng gì để gặp  người yêu nước. Chỉ với cái chân-tâm mới có thể đi  biền biệt như vậy! Tại Nam California, Hoa Thịnh Đốn, San Jose,  Houston..., ông đã gặp đồng bào, cái vị lãnh đạo tôn giáo,  trí thức, văn nghệ sĩ, sinh viên học sinh.... Bất cứ ở nơi  nào, ông cũng nói đến "dân tộc ta có một sức sống vô cùng  mạnh mẽ, một tinh thần phấn đấu vô cùng mãnh liệt. Sức  sống và tinh thần phấn đấu này đã giúp quê hương và dân  tộc ta trường tồn".

    Ông đã đi nhiều để gặp gỡ đồng bào và dĩ nhiên, ông  cũng tha thiết gặp các chiến hữu trong tổ chức. Họ mong gặp  ông không phải để bắt được tay một "thần tượng", mà  để trao cho ông lời tâm huyết sắt son của ho.. Trong đời chỉ sợ bất hạnh không có đến một tấm gương soi. Vậy mà họ - những đoàn viên của Mặt Trận -  đã may mắn có nhiều tấm  gương Việt Nam tuyệt vời để soi, để noi theo. Trong đó có ông, Phó đề đốc Hoàng Cơ Minh. Họ vẫn nhớ lời ông nói:  "Chúng ta hãnh diện là người Việt Nam kiêu hùng, bất khuất.  Chúng ta sẽ chứng tỏ sự kiêu hùng và bất khuất đó trong  cuộc đấu tranh lịch sử này của dân tộc".

    Lịch sử đấu tranh hào hùng của dân tộc. Như nhà văn kháng  chiến quân Võ Hoàng đã nói: "Sử Việt. Chúng ta chỉ còn duy  nhất tấm gương này mà thôi". Gặp các chiến hữu của mình,  Phó đề đốc Hoàng Cơ Minh cũng thường hay nói đến sử nước nhà với những tấm gương vì Tổ Quốc, vì Dân  Tộc. Ông thường nhấn mạnh đến hai chữ "quên mình". Tưởng  dễ mà khó lắm. Quyền uy thượng đẳng như vậy mà Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn không trả thù riêng mà chỉ lo việc an  nguy của xã tắc. Ông còn nói quan niệm của ông về "lãnh  đạo", đã giúp cho các chiến hữu của ông ngày càng gắn bó  với sự hy sinh. Những người lãnh đạo tốt biết chuẩn bị thế hệ tương lai tiếp nối mình. Nhìn vào một tổ chức,  trong tám đến mười năm, mà chỉ thấy hầu hết những khuôn  mặt lãnh đạo cũ, thì tổ chức đó chắc chắn sẽ có vấn  đề. Ông còn nhấn mạnh đến một điểm tinh hoa: dù có  được cầm quyền hay không, tổ chức luôn luôn huấn luyện  và đào tạo những cán bộ quốc gia ưu tú cho đất nước.

    Ông còn nói đến một quan niệm khó mà quên. Sử Việt tôn  vinh một Anh Hùng Dân Tộc áo vải Lam Sơn Lê Lợi, gian khổ  cùng nghĩa quân 10 năm kháng chiến, nhưng sử nước nhà không  hề nói đến Lê Thái Tổ là một minh quân. Ông đã kể lại  một giai đoạn lịch sử cần nhớ: Lúc Bình Định Vương Lê  Lợi khởi binh, vì muốn có chính nghĩa, ngài đã tôn một  người con cháu vua Trần là Trần Cảo lên làm vua.ï Tiếc thay,  lúc thành đại nghiệp thì ngài đem giết chết. Sau đó, Lê  Lợi sai giết tất cả những công thần, nguyên là con cháu nhà  Trần, và còn ra lệnh truy sát giòng dõi nhà Trần. Sử còn ghi,  Lê Lợi còn giết Tả tướng quốc Trần Nguyên Hãn, người có  uy tín tột bậc, chỉ vì ngài là cháu Trần Nguyên Đán.
    Với quan điểm trong sáng hiếm có như vậy, là người lãnh  đạo một tổ chức, Tướng Hoàng Cơ Minh đã nhìn thấy sự  quan trọng của công tác huấn luyện đào tạo. Sóng sau phải hùng  mạnh hơn sóng trước. Với ông, bất cứ ai cũng có thể thay thế được.

    Những người đi theo Tướng Hoàng Cơ Minh đấu tranh đến cùng  vì nhìn thấy nơi ông có nhiều đức tính lãnh đạo hiếm có.  Người ta dễ dàng tìm thấy phong thái của ông lúc họp, lúc  tâm tình, lúc giải lao, lúc hút với các chiến hữu của mình  một điếu thuốc lá... Ông chỉ là một người. Ông không có  khả năng làm dáng lãnh đạo. Sự bình dị, chân tình và gẫn  gũi với mọi người không làm cho người ta "lờn" ông, mà chỉ  càng tăng thêm lòng kính trọng.

    Ở chiến khu, cũng như hải ngoại, Tướng Minh cũng chưa có thói  quen có người... xách cặp cho ông. Ở chiến khu, trên đường  di chuyển, ông cũng còng lưng vác quân trang của mình giữa núi  rừng hiểm trở. "Anh em đều có gánh nặng, sao lại để anh em  gánh thêm gánh nặng của mình?". Ở hải ngoại, nhiều đoàn viên  cũng muốn chia xẻ gánh nặng, ông chỉ nhẹ nhàng nói: "Chiến  hữu xin cho tôi cơ hội không làm anh em nặng nhọc thêm".  Tuấn kiệt như sao buổi sớm. Nhân tài như lá mùa thu(*)

    Ở chiến khu, ông thường ra những tuyến đầu thăm các kháng  chiến quân có nhiệm vụ canh gác. Khi có lời khuyên can vì sự  an toàn, ông nói một kháng chiến quân là vốn qúy của đất  nước, sinh mạnh anh em cũng quan trọng như sinh mạng của cá nhân  ông. Khi nghe tin có tổ chức kháng cự vượt rừng núi tìm  Mặt Trận, ông đã bất chấp hiểm nguy cùng đoàn bảo vệ đi  đón người người đồng tâm.

    Người trong tổ chức gọi ông là "Thầy" cũng vì thế. Tinh  thần yêu nước và sự hy sinh trọn vẹn của ông với công cuộc  đấu tranh đã là chỗ dựa tinh thần của các kháng chiến quân  và đoàn viên Mặt Trận.

    Nói đến hai chữ hy sinh, không thể không nói đến gia đình  của những người muốn lấp biển vá trời. Ngày còn là "Anh  Hai thủy bộ", bà Hoàng Cơ Minh chắc không thiếu nỗi lo sinh  tử. Khi Tướng Minh rời hải ngoại về chiến khu tìm người  nghĩa dũng phất cờ khởi nghĩa, một chuyến đi nguy hiểm  thập phần, bà Hoàng Cơ Minh đã phải sống ra sao với những  cơn ác mộng ấy? Chắc cũng phải nói đến người con trai cả  của Tướng Hoàng Cơ Minh. Khi trở ra hải ngoại công tác lần  đầu, ông đã thuyết phục con mình bỏ ngành học y khoa để  chọn một nghề khác, tốt nghiệp nhanh hơn để còn lo cho mẹ  và các em, về vật chất lẫn tinh thần. Người con trưởng  hiếu hạnh đã nghe lời bố, cho đến hôm naỵ

    Sự hy sinh cho Tổ Quốc khó mà cân đo là thế. Thực hành  điều đã nói thật khó lắm ru! Xưa, nếu Ức Trai Nguyễn Trãi  viết: "Song hào kiệt thời nào cũng có"; thì ngược lại: "Bọn  gian tà thời nào cũng có". Thường, kẻ to mồm hay... lạnh  cẳng. Gặp chuyện đòi hy sinh thường thoái thác chuồn êm.  Thường, kẻ hay lên gân chửi bới, nhục mạ, bôi bẩn người  đi đấu tranh - hay đem việc lem nhem tài chánh ra làm phương  tiện - lại là những kẻ keo kiệt, ít đóng góp tài chánh  nhất. Có năng ném bùn vào nhà người khác mới có thể tự  xoa dịu mặc cảm thấp hèn của mình. Đốn mạt hơn, có kẻ lại  thích đi ngang về tắt để giành danh lợi trong đấu tranh; kể  cả lợi dụng những người đã khuất để kiếm chác lợi danh.  Việc cúi đầu khoanh tay làm tay sai cho giặc chắc cũng chỉ  cách... gang tay!

Rủi sa tay giặc sẵn sàng hy sinh (***) 

    Có thể nói, từ năm 1985, ban lãnh đạo Mặt Trận đã tiến  hành một kế hoạch nhằm mở rộng các an toàn khu tại Việt  Nam, nỗ lực phát riển hệ thống Uỷ Ban Kháng Quản và tìm  cách lần lượt đưa các vị lãnh đạo và sâu trong nội địa  Việt Nam. Nhiều chuyến đưa các vị lãnh đạo xâm nhập Việt  Nam đã thực hiện từ năm 1983 đến năm 1987. Năm 1985, đã có  dự trù đưa vị chủ tịch Mặt Trận xâm nhập nội địa, vì  đây là thời gian thuận lợi và an toàn nhất, nhưng tiếc thay,  ông phải trở ra hải ngoại để chấn chỉnh nhân sự bị rối  loạn ở cấp cao nhất. Chính vì thế, cho đến tháng 7 năm 1987,  Tướng Hoàng Cơ Minh mới quyết định dẫn một đoàn kháng  chiến quân băng qua lãnh tổ Lào để trở về quốc nội.
    Trong thời gian đầu của chuyến đi, đoàn quân đã không gặp  khó nhiều khó khăn, mặc dù có những trận đụng độ với  bộ đội Lào cộng và bộ đội Việt cộng đóng trên xứ Vạn  Tượng nhưng không đáng kể. Tuần lễ đầu tháng 8/1987, khi  đoàn quân gần đến biên giới Lào Việt nằm về hướng  Đông tỉnh Attopu thì bắt đầu đụng độ khá nặng với lực  lượng biên thùy của Việt cộng. Trong trận đụng độ này,  một số kháng chiến quân đã bị bắt. Do sự khai báo của một  vài kháng chiến quân, lãnh đạo Việt cộng biết được sự  hiện diện của Tướng Hoàng Cơ Minh trong đoàn quân, nên Việt  cộng đã huy động bộ đội lên đến cấp Trung đoàn để  bủa vây và dùng cả trực thăng để quan sát, dùng pháo binh  để truy kích với mục tiêu là bắt sống Tướng Hoàng Cơ Minh.  Sau hơn hai tuần lễ cầm cự và giao tranh dữ dội, nhiều kháng chiến quân đã hy sinh, và Tướng Hoàng Cơ Minh cũng đã bị  thương.

    Đến ngày 27/8/1987, đoàn quân kháng chiến bị vây trên một  ngọn đồi. Lãnh đạo Việt cộng xua quân tấn công nhiều đợt  lên đồi để cố bắt sống Tướng Hoàng Cơ Minh. Mặc dù các  kháng chiến quân chiến đấu rất anh dũng, nhưng quân ít, đạn  thiếu, không sao thoát khỏi vòng vây của kẻ thù. Trong hoàn cảnh  đó, đêm ngày 27/8 rạng sáng ngày 28/8, Tướng Hoàng Cơ Minh đã  tập trung anh em lại dặn dò lần cuối. Ra lệnh cho những ai còn khoẻ thì cố gắng tìm đường thoát khỏi vòng vây, ai không đi được thì ở lại tử thủ. Những người còn khỏe không ai chịu rời bỏ người chủ tướng, không ai muốn rời bỏ anh em.  "Như Thầy đã nói, trong cuộc đấu tranh này: tình trạng bỏ  nhau mà chạy sẽ không bao giờ xảy ra nữa". Trong cái không khí  bi hùng u uất đó, pháo đạn như đã xiết lại gần hơn, vậy  mà những người nghĩa dũng vẫn vây chung quanh người chủ  tướng. Mọi người đều khóc. Dù bị thương, ông vẫn nói  đến tiền đồ dân tộc, đến đại cuộc giải phóng đất  nước. Khó mà tưởng tượng ông nhắc đến hoàn cảnh bi tráng  mà người anh hùng dân tộc Lương Ngọc Quyến đã trải qua trong  cuộc khởi nghĩa ở Thái Nguyên năm 1917. Ông Lương Ngọc Quyến  đã tự sát để các nghĩa quân không vướng bận khi phải tháo lui. Chính vì hiểu điều này, các kháng chiến quân của Tướng  Hoàng Cơ Minh còn khỏe mạnh đã rời khỏi ngọn đồi. "Đường chúng ta đi chỉ có hai cái đích. Cả hai cái đích đều vô cùng vinh quang và ý nghĩa. Một là  giải phóng Tổ Quốc Việt Nam. Hai là được anh dũng hy sinh cho  đại cuộc giải phóng Tổ Quốc Việt Nam". Tướng Hoàng Cơ Minh đã đạt được hai cái đích đó. Nhiều kháng chiến quân đã  chọn con đường anh dũng đó.

    Tướng Hoàng Cơ Minh đã ra lệnh cho các kháng chiến quân mở  đường ra khỏi vòng vây, trong khi ông và một số chiến hữu  bị thương ở lại bắn để chặn đường. Lúc đó, cộng quân  tấn công dữ dội. Vì không muốn sa vào tay giặc, Tướng  Hoàng Cơ Minh đã rút khẩu súng phòng thân ra khỏi vỏ. Không  biết ông đã nghĩ gì trong khoảnh khắc bi hùng ngắn ngủi đó.  Tiếng súng nổ đã vang lên trong núi rừng Nam Lào trước sự  chứng kiến uy nghiêm của những chiến hữu còn lại. Mọi  người đã qùy xuống lạy vị chủ tướng đáng kính, và rồi  sau đó nhiều tiếng súng ngắn tiếp tục vang lên như xé trời  tang.

    Phó đề đốc Hoàng Cơ Minh và các chiến hữu của ông đã  chọn một cách sống và hy sinh trọn vẹn, đầy tự trọng đó.  Nói một cách công bằng, ông là vị tướng Quân lực Việt Nam  Cộng Hòa cao cấp nhất - và duy nhất sau năm 1975 - đã trở  về chiến đấu trực tiếp chống quân thù. Thay vì cứ nằng  nặc hỏi rằng tại sao ông đã mất 12 năm mà tổ chức của ông  mới công bố, có lẽ chúng ta ngồi lại với nhau để chia xẻ  con đường Đông Tiến "quyết thề một lòng chiến đấu cho  một ngày mai", đầy khó khăn gian khổ, mà Phó đề đốc Hoàng  Cơ Minh khai mở đã để lại cho chúng ta những gì? Có phải  chăng đó là ý chí đấu tranh bất khuất - lấy sức mạnh dân  tộc làm căn bản, lấy đại đoàn kết toàn dân làm vũ khí -  để giải phóng tổ quốc. Có phải chăng đó là niềm tin vô  bờ bến về một ngaỳ mai tươi sáng của dân tộc, dù những  bước chân kháng chiến từ thuở ban đầu gian khổ biết  chừng nào. Ông đã truyền được cái Đại Hùng Tâm đến các  chiến hữu và đồng bào của ông: ngọn cờ chính nghĩa luôn  luôn phất cao trong tâm người Việt Nam.

    Đời người, có lẽ nỗi bất hạnh lớn nhất là không có nổi  một người tri kỷ, tri tâm. Nhưng Phó đề đốc Hoàng Cơ Minh  có lẽ là một người may mắn tột cùng. Ông có rất nhiều kẻ  tri tâm, những người có lòng, có khả năng, có trí tuệ, luôn  sẵn sàng hy sinh vì nước. Làm sao ông cô đơn cho được với  những kháng chiến quân Lê Hồng, Dương Văn Tư, Nguyễn Trọng  Hùng, Võ Hoàng, Trần Thiện Khải, Phùng Tấn Hiệp, Trương Ngọc  Ny, Lê Văn Long, Trần Hướng Việt, Huỳnh Văn Tiến, Lưu Minh...,  những kháng chiến quân đã quên mình vì đất nước; và  những người chiến hữu tiếp tục đấu tranh cho đến ngày  hôm naỵ

    Gọi ông là Phó đề đốc vì Hải quân là nơi ông phục vụ  đất nước như một người lính, một "Anh Hai Thuỷ Bộ" uy  dũng được đồng đội kính mến. Gọi ông là Tướng quân vì  ông đã ứng xử cả đời như một người đã sống và chết  với tất cả trách nhiệm của mình với đồng đội, với
    Chiến hữu. Và cuối cùng, thay vì gọi ông là một vị Anh Hùng  Dân Tộc - thì có lẽ chúng ta cũng nên vì ước muốn của ông  mà chỉ gọi ông là một Người Việt Nam. Một Người Việt Nam  yêu nước chân truyền.

    Nhân ngày giỗ Tướng Hoàng Cơ Minh, người viết chỉ xin gom  góp lại những tâm tình qua những quen biết may mắn và tài  liệu trên báo chí,... như một nén hương lòng tưởng kính  đến ông và đồng đội của ông.

    Nhà văn kháng chiến quân Võ Hoàng đã từng viết nhạc: "Cách  mạng, đường dài, người đi như con nước miệt mài...". Tinh  thần yêu nước của ông và đồng đội vẫn đi cùng với cơn  sóng đấu tranh cho một Việt Nam dân chủ, tự do, phú  cường....

Hành Tư

__________________________________________________________________

___________________________________

Vài Lời Phát Biểu của Sĩ quan Hải Quân Phan Lạc Tiếp


            Nhân Ngày Tưởng Niệm Cố Đề Đốc Hoàng Cơ Minh.
                          Và Các Chiến Sĩ Đông Tiến 27 tháng 8 năm 2006.
           

Kính thưa đại diện các đoàn thể,
Kính thưa quý vị bằng hữu trong giới thuyền thông,
Kính thưa quý vị trưởng thượng và toàn thể các bạn.
          
Thưa quý vị,
           Cách đây hai năm, ngày 4 tháng 7 năm 2004, trong dịp ra mắt cuốn Hải Quân Tuyển Tập, cũng tại nơi này, đại gia đình Hải Quân Việt Nam Cộng Hoà, đã mời gia đình cố Đề Đốc Hoàng cơ Minh tới đây để được chính thức và long trọng trao tặng cuốn sách, trong đó có một chương nói về Cố Đề Đốc Hoàng cơ Minh.

           Bởi trong sinh thời Đề Đốc Hoàng cơ Minh đã nhiệt tình yêu nước, đã hy sinh dũng liệt, xứng đáng được vinh danh, được hậu thế biết đến.

           Cũng trong tinh thần ấy, hôm nay, cũng tại nơi này, những người thân trong gia đình cố Đề Đốc Hoàng cơ Minh và Hội Ái Hữu Hải Quân Cửu Long tại địa phương đã phối hợp làm lễ tưởng niệm người anh hùng ấy, cùng những dũng sĩ đã vì đại nghĩa quên mình. Có lẽ vì chúng tôi là người có cơ duyên thực hiện chương sách viết về tướng Minh, nên gia đình đã yêu cầu chúng tôi có mặt ở đây, hôm nay để vắn tắt trình bày đôi điều về người anh hùng quả cảm đó cùng những chiến sĩ Đông Tiến. Tất nhiên chúng tôi làm việc này hoàn toàn với tư cách cá nhân, mà không dám đại diện cho bất cứ ai.
                                                     oOo
            Cố Đề Đốc Hoàng cơ Minh sinh năm 1935 tại Hà Nội, trong một danh gia vọng tộc lâu năm ở Bắc Hà cũng như khi di cư vào Nam. Nhưng khi đến tuổi trưởng thành Ông không theo con đường cử nghiệp như các vị cha, anh mà Ông chọn con đường võ nghiệp.

           Ông học khoá 5 SQHQ Nha Trang ra trường năm 1955. Suốt thời gian quân ngũ, ông nổi tiếng là một sĩ quan xuất sắc và rất can trường, giữ nhiều chức vụ quan trọng, lập được nhiều chiến công hiển hách. Khi là Tư Lệnh Lưc Lượng Thuỷ Bộ, một mũi nhọn sắc bén của HQ VN, năm 1971-74, Ông là người đã có công phá nát mật khu U Minh Thượng, U Minh Hạ của địch và khai thông kinh Phụng Hiệp, dài 140 cây số nối liền 3 tỉnh An Xuyên, Ba Xuyên và Cần Thơ, giũ an tòan mạch sống kinh tế này của Miền châu thổ Cửu Long. Do đó ông được vinh thăng Phó Đề Đốc khi mới 38 tuổi, một vị tướng trẻ nhất của HQ, cũng như của QLVNCH.

            Sau đó, năm 1975, với chức vụ Tư Lệnh Vùng 2 Duyện Hải, kiêm nhiệm Tư Lệnh Chiến Trường Quy Nhơn, trong giờ phút nghiêng ngửa của đất nước, ông đã hoàn tất khéo léo việc đón nhận và di chuyển các lực lượng Quân Dân từ Vùng 2 về Miền Nam, trong đó có Sư Đoàn 22 Bộ Binh.

            Và trong  ngày tàn của cuộc chiến, đoàn tàu rời nước ra đi, một cuộc lui binh tuyệt hảo của HQVNCH, do công lao của biết bao người, Ông đã được Đô Đốc Chung tấn Cang, Tư Lệnh Hải Quân, uỷ thác là phát ngôn viện duy nhất và chính thức từ Soái Hạm để điều động tất cả những chiến thuyền thoát ra từ đất liền đang hiện diện trên Biển Đông.

            Rồi trong giờ phút hỗn mang ở trại tỵ nạn ở Guam, Đề Đốc Minh là vi tướng duy nhất trong 10 vị tướng HQ di tản, đã đến trại tỵ nạn để sinh hoạt với anh em HQ, giải đáp những thắc mắc của thời cuộc. Đặc biệt Ông đã khuyên can những anh em đang uất ức trước một vài phần tử có những hành động bất xứng trong gia đình HQ chúng ta, tránh được những điều đáng tiếc có thể xẩy ra.

            Sau biến cố 1975, định cư tại Hoa Kỳ, khởi đi từ một tấm lòng ngùn ngụt lửa đấu tranh và tràn đầy yêu nước, Đề Đốc Hoàng cơ Minh đã tạo nên một niềm tin sắt đá cho một khối người, lập nên một tổ chức, một Mặt Trận, quyết tâm tìm đường về khôi phục quê hương. Từ đó trong cộng đồng chúng ta, đã có những rừng người rộn rã tụ về, tay trong tay để cùng nhỏ lệ mừng vui, để đón chào, để “uống” những lời thề sắt son từ người thủ lãnh. Bằng cái vốn liếng vừa cụ thể, vừa linh thiêng đó, những Nghĩa Dũng của thời đại mới đã hăm hở lên đường. Họ đã nuốt lệ, bỏ lại gia đình, xoá bỏ tương lai, cùng Ông dựa lưng vào niềm tin và nỗi chết mà đi, với niềm hy vọng như Cao Tần đã viết :
                            Sẽ có lúc rừng thiêng bừng chuyển động
                            Những hùm thiêng cựa móng thét rung trời
                            Và đất nước sẽ sẽ vươn mình trỗi dậy
                            Và cờ bay trên đất nước xinh tươi
                                                  oOo
           Nhưng mưu sự tại nhân, thành sự tại Thiên, những gian khó mỗi lùc mỗi nhiều đến từ mọi phía.  Là rừng già đặc nghịt những chông gai, là kẻ thù quỷ quyệt, đông đảo và tàn bạo trước mặt. Là những xáo trộn, đổ vỡ, phân hoá ở hậu phương là nơi hải ngoại này, mỗi lúc mỗi thêm cay đắng.
           Nhưng những đoạn đường Đông Tiến thì chỉ có đi chứ chẳng thể lùi.
           Trong chiến dịch Đông Tiến II, kỳ 2, dưới quyền điều động của chính tướng Hoàng cơ Minh, với quân số 120 người, khởi hành vào trung tuần tháng 7 năm 1987, vượt sông Mekông, xâm nhập vào đất Lào, nhằm hướng Đông mà đi. Đoàn quân Đông Tiến này đã phải liên tục đối đầu với với một trung đoàn Việt Cộng được trang bị hiện đại và quân số đông gấp 10 lần hơn đoàn quân kháng chiến. Sau 40 ngày quần thảo, mãnh hổ nan địch quàn hồ, với nhiều thương vong và cùng kiệt tiếp vận, tướng Minh và đa số những dũng sĩ trong doàn đã cùng nhau tự sát. Đó là ngày 28 tháng 8 năm 1987, trong rừng già Hạ Lào cách đây đã 19 năm.
           Sự hy sinh bi hùng và chất ngất hào khí đó, không biết vì lý do gì đã bị giữ kín trên 15 năm. Đó là một câu hỏi lớn vẫn chưa được làm sáng tỏ.
           Với tôi, dù thế nào, tướng Minh và những dũng sĩ Đông Tiến đó đã có một hành động chất ngất hào hùng và cũng vô cùng sòng phẳng.
           Không thành công, những dũng sĩ Đông Tiến đã lấy cái chết để bày tỏ lòng trung tín với Tổ Quốc, với chính mình cũng như với tất cả những ai tin tưởng vào vị thủ lãnh, vào Mặt Trận.
           Tên tuổi họ, không ai có thể quên được; những hy sinh dũng liệt của họ không ai có thể phủ nhận được, mà sự hiện diện trân trọng của quý vị tại đây, hôm nay là một bằng chứng cụ thể.

                                                 oOo

          Bởi một thời họ đã là những ngọn đuốc bừng sáng niềm tin của cộng đồng người Việt khắp năm châu và cả ở nơi quốc nội.

          Dư luận thế giới nhắc đến những biến cố này cũng phải nể vì.

          Họ đã làm cho Cộng Sản Việt Nam trong nhiều năm dài phải ngày đêm run sợ.

          Nay dù có tô điểm thêm những mỹ từ nào nữa, tưởng cũng không mảy may tương xứng với những đoạn đường gian khổ, những cái chết phi thường của họ mà vì yêu dân, yêu nước, họ đã mang tấm thân của mình ra gánh chịu..

          Gần hai thập niên trôi qua đã đủ dài, để những dữ kiện của lịch sử trả sự thật về cho lịch sử. Và những đám mây mờ vì hiểu lầm, vì đố kỵ  tất nhiên cũng phải tan theo.

          Họ quả là những dũng sĩ ngoại hạng của dân tộc chúng ta ở cuối thế kỷ thứ 20.

          Chính những hy sinh dũng liệt của họ đã xây đắp thêm niềm tự hào cho Chính Nghĩa Quốc Gia, làm sáng tỏ thêm cho cuộc chiến đấu vì Tư Do, vì Dân Chủ của Quân Dân Miền Nam trước đó. Chúng ta tạm thua trong giai đoạn, nhưng trong giòng sinh mệnh dài lâu của dân tộc, của lẽ phải, chúng ta chưa bao giờ  chịu khuất phục. Người này ngã xuống sẽ có những người khác lần lượt đứng lên.

        Cũng chính những nghĩa cử đội đá vá trời của họ, một lần nữa làm cho cuộc bỏ nước ra đi của hàng triệu người Việt chúng ta thêm ý nghĩa.

        Chúng ta ra đi vì Tự Do chứ không vì cơm áo.
        Chúng ta ra đi để mưu cầu cho một cuộc trở về.
        Và có cuộc trở về nào quyết liệt và bi tráng như cuộc trở về của tướng Hoàng cơ  Minh và những dũng si Đông Tiến ?
        Chỉ với ý nghĩa này, những hy sinh của họ tưởng đã đủ cho chúng ta ngưỡng mộ, biết ơn.

                                                     oOo

          Là một người có một thời từng mặc cùng màu áo với con người gan dạ ấy, Đề Đốc Hoàng cơ Minh, nhưng cá nhân chúng tôi, chúng tôi không có đủ hoàn cảnh và gan mật để đi cùng Ông trên những đoạn đường cam go, nghiệt ngã này. Chúng tôi không phải là thành viên của tổ chức này. Nhưng chúng tôi vẫn hằng liên tục theo dõi những bước Ông đi.

         Khi sống, Ông tung hoành hùng tráng trên biển rộng sông dài, cũng như giữa rừng già gai góc. Phút cùng quẫn, Ông thản nhiên tự tìm đến cái chết như một chuyện đương nhiên, công bằng như những dũng sĩ quanh Ông.

         Ông quả là một con người trung tín và  ngất trời nghĩa khí.

         Thân Ông, Ông đã không tiếc, gia đình Ông, Ông cũng coi nhẹ, vậy những danh, những lợi của cuộc đời, những khen chê vội vã nhất thời, theo tôi, hẳn chỉ như một làn gió thoảng.

          Là một  cựu quân nhân, một người cầm bút được vinh dự ghi lại cuộc đời Ông trong cuốn Hải Quân Tuyển Tập, nhân buổi tưởng niệm này, trước bàn thờ Ông và những chiến hữu của Ông, tự đáy lòng xúc động, chúng tôi kính cẩn đọc những lời này như một nén hương thơm gửi tới anh linh những Dũng Sĩ., những Kinh  Kha kiệt hiệt của thời đại chúng ta, như thi sĩ Vũ hoàng Chương đã viết :

                           Một lưỡi gươm đưa ngàn thuở đẹp
                           Dù sai hay trúng cũng là dư.
          
          Xin đa tạ quý vị đã lắng nghe.

Phan lạc Tiếp


(Nhân ngày giỗ thứ 21 và thứ 16)

Kể từ xương đá trổ hoa (*)

Hành Tư

Có lẽ đến cuối đời, khó mà trả Tưởng Năng Tiến hai món nợ.

Một buổi chiều tháng Năm 1982, Tưởng Năng Tiến về nhà với nét mặt vui - hiếm có: "Hôm nay, tao gặp một ông bác sĩ bảnh-choẹ". Hỏi: "Ai vậy?". Tiến nói: "Bác sĩ Hoàng Cơ Trường".

Nỗi vui mừng không đơn giản sau hơn 10 năm biền biệt vắng tin anh Hoàng Cơ Trường, mà còn mang nhiều kỷ niệm xúc động khác. Nói đến anh, bạn bè, chiến hữu của anh đã nói khá nhiều trên những bài viết. Với quan niệm "sống" phải làm những điều có ích lợi cho người, cho xã hội, cho quê hương đất nước, anh đã được nhiều bạn bè biết đến qua các sinh hoạt từ mái trường Y Khoa Sài Gòn. Từ môi trường sinh hoạt đặc biệt của đoàn Nguồn Sống trước năm 1975, như hầu hết các Trưởng đoàn khác, bác sĩ Hoàng Cơ Trường đã mang tâm huyết phụng sự xã hội đến thế hệ thanh niên cùng thời. Với tấm lòng nhân hậu và tận tụy ấy, bác sĩ Hoàng Cơ Trường là một trong vài người trẻ có khả năng được đề cử trách vụ Thứ trưởng Thanh Niên, nhưng anh đã chọn con đường phụ vụ khác. Sau đó, Thuỷ Quân Lục Chiến, một binh chủng nổi tiếng của quân đội Việt Nam Cộng Hòa, đã có thêm một vị bác sĩ quân y nổi tiếng gan dạ, tận tụy, thương anh em binh sĩ và rất nghệ sĩ tính.

Bác sĩ Phạm Anh Dũng kể về Y Sĩ Trưởng Hoàng Cơ Trường của Tiểu Đoàn 8 Thuỷ Quân Lục Chiến Ó Biển "đã chiến đấu khắp bốn vùng chiến thuật...; trải qua nhiều trận đánh dữ dội như cuộc hành quân Lam Sơn ở Hạ lào, Mùa Hè Đỏ Lửa ở Quảng Trị...; nổi tiếng là một bác sĩ quân y can đảm ở ngoài mặt trận. Anh lúc nào cũng sẵn sàng lên tuyến đầu để săn sóc thương binh". Bác sĩ Thuỷ Quân Lục Chiến Đỗ Mỹ Ánh đã kể lại câu chuyện lý thú: ngoài mặt trận, nhiều lúc bắt được tín hiệu truyền tin của quân Việt cộng, bác sĩ Hoàng Cơ Trường đã "lớn tiếng tranh luận về chủ nghĩa Quốc Gia và Cộng sản với họ qua máy truyền tin"....

Nhìn hình anh Trường đội nón rằn vải, đeo kính đen, để râu, khi Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đến thăm đơn vị đang hành quân, người ta dễ nghĩ đến một chàng "tài tử xi-nê" hơn là một bác sĩ Thuỷ Quân Lục Chiến nổi tiếng. Với cách sống "anh em làm sao, mình vậy" như anh vẫn nói, mà nhiều lần nơi trận mạc, Tướng Hoàng Cơ Minh đã phải gọi nhắc nhở cậu em: "này ông bác sĩ, nhớ đội nón sắt đấy!".

Điều xúc động khi biết tin anh Trường ở Hoa Kỳ còn mang một ý nghĩa lớn lao khác. Tờ báo Kháng Chiến số 1, xuất bản tháng Tư năm 1982, đã làm rúng động tâm tư của đồng bào Việt Nam khắp nơi trên thế giới. Tin chính thức tường thuật ngày Công Bố Cương Lĩnh Chính Trị - 8/3/1982 - ở rừng núi chiến khu - kêu gọi người Việt trong và ngoài nước đứng lên cứu nước. Phó Đề đốc Hoàng Cơ Minh, người anh cả lãnh đạo đoàn quân Kháng Chiến của Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất Giải Phóng Việt Nam - chính thức kêu gọi đồng bào quốc nội ngừng vượt biên vượt biển, để dựng lại ngọn cờ chính nghĩa ngay trên quê hương, đánh đuổi quân ngoại xâm và chấm dứt chế độ độc tài cộng sản ở Việt Nam. "Anh kháng chiến, em xin theo". Bác sĩ Hoàng Cơ Trường, từ đó, lại đem tâm huyết trải trên con đường đấu tranh cứu nước. Là người trách nhiệm công tác kiều vận đầu tiên của tổ chức ở hải ngoại, anh Hoàng Cơ Trường đã thiết lập ngay nhiều Đoàn Văn Nghệ Kháng Chiến hùng hậu, quy tụ tập thể thanh niên đầy lòng yêu nước. Chuyện thì giờ ư? Để xem, từ việc giảm bớt thì giờ ở phòng mạc tư đến đóng cửa hẳn; rồi đến những giờ hành nghề ở nhà thương bớt dần theo những công tác mà anh, cùng với các chiến hữu của Mặt Trận, ngược xuôi trăm hướng. Phía sau của những công tác chung ấy, ít ai biết có người vợ nhỏ bé hết lòng chăm sóc hai con thơ, trọn việc nhà, để chồng lo toan việc nước. Đó là chị Hoàng Cơ Trường...

Khi nói đến "nhân vô thập toàn", đúng, anh Hoàng Cơ Trường cũng thế. Một điều duy nhất mà anh không thể vượt qua được, đó là căn bệnh ung thư thời kỳ cuối chỉ được khám phá vào đầu năm 1983. Khi nghe tin này, nhiều chiến hữu, bạn bè thân của anh đã nghĩ đến sự hiện hữu của các đấng thiêng liêng - có lẽ - là điều không có thật! Ai cũng nghĩ anh không thể "ra đi" trong lúc đất nước, tổ chức, gia đình, chiến hữu... rất thương qúy, rất cần đến anh. Chính anh, cũng không nghĩ mình có thể "ăn quỵt" anh em, như các kháng chiến quân hay nói đùa về sự "ra đi" miên viễn đó, và chính vì thế, người bác sĩ Thủy Quân Lục Chiến một thời ra vào lửa đạn đó đã đi đến tận cùng của nghị lực. Sự can trường đó, như tinh thần của một đại văn chống độc tài cộng sản ở Nga viết, anh đã

"đẩy đến tận cùng cái mà người khác chỉ dám làm có một nửa".

Anh tiếp tục đi sinh hoạt. Anh em ái ngại, khuyên can, nước mắt dàn dụa. Cơn đau lên dần, anh ở nhà, vẫn liên lạc, vẫn họp hành, vẫn cười lạc quan. Lại đau nhiều hơn, anh xin lỗi anh em lấy gối chận lưng đau, nằm mà họp. Ung thư lấn dần, anh không viết và nói được nữa, vậy mà vẫn nhờ anh em viết đôi dòng thăm hỏi, hồi âm chiến hữu, bạn bè.... Mới thấu, chỉ có tâm bồ tát, chị Hoàng Cơ Trường mới có thể chia xẻ tận cùng nỗi đau của chồng trong những ngày tháng kinh hoàng đó.

Tháng 10, mùa Thu năm 1983, anh Hoàng Cơ Trường về với hồn thiêng sông núi. Những gì tâm huyết nhất anh để lại rất đơn giản với những dòng chữ trên mộ bia nhỏ bé: "Nơi nào có bóng Quốc Kỳ, nơi đó có linh hồn tôi hiện diện để sát cánh cùng các chiến hữu trong công cuộc đấu tranh giải phóng Tổ Quốc và xây dựng quê hương"....

Cũng vào mùa Hè năm 1982, Tưởng Năng Tiến bảo: "Mày đi với tao đi thăm một người". Hỏi: "Ai vậy?". Tiến nói: "Võ Hoàng".

Trên đường đến nhà Võ Hoàng, Tiến nói: "Lâu rồi mới thấy có người viết truyện ngắn hay như vậy". Đến nhà, Võ Hoàng đón ở cửa. Thay cho câu chào hỏi đầu tiên là cái bắt tay chặt, ấm, là nụ cười rộng mở, nhân hậu của nhà văn trẻ. Nụ cười sống hết lòng với bạn. Nụ cười không bao giờ hại sau lưng bằng hữu, chiến hữu mình. Ánh mắt của anh cho cảm giác thân quen, chung thủy. Nhìn chung quanh căn phòng chung cư giản dị là một số bức tranh nhỏ, nét vẽ thoáng rộng, sau này mới biết Võ Hoàng nhiều nét tài hoa đến như vậy.

Đặc điểm đầu tiên của Võ Hoàng là... ít nói. Anh không thích tranh luận và hay nhường nhịn bạn bè. Nhưng, điều anh góp ý thường để lại cho người nghe nhiều suy nghĩ. Sinh trưởng ở đảo Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang, nơi có gương anh hùng Nguyễn Trung Trực, dáng nét của Võ Hoàng giản dị của người dân miền biển nhưng không thiếu vẻ ngang tàng. Bởi vậy, Hạ sĩ quan hải quân Võ Hoàng một thời cũng "ba gai" không kém. Và, "ảnh chẳng nói chẳng rằng, hay mình ên đi đánh đám ăn hiếp bạn mình", như chị Võ Hoàng sau này kể lại khi nói về cái tính "không thích sự áp bức" của chồng. Võ Hoàng hay đi "mình ên" đánh đám côn đồ trên đảo vì anh giỏi võ. Ít ai biết, trong căn nhà anh ở San Jose, có đêm hai thằng trộm cậy cửa vào nhà, chẳng ngờ ông nhà văn trẻ lặng lẽ xuống lầu. Sau vài giây ngắn ngủi, hai tên trộm ôm đầu chạy mất và Võ Hoàng trở về giường ngủ thản nhiên. Cả nhà cũng chẳng ai hay biết.

Khi gặp Võ Hoàng, Cơ sở Nhân Văn đã xuất bản hai tác phẩm của anh: Tuyển tập truyện ngắn "Trong Lòng Cách Mạng", và tập truyện "Góc Bể Bên Trời". Năm trước, 1982, Nhân Văn cũng đã phát hành tập truyện "Măng Đầu Mùa" của Võ Hoàng viết chung với Tưởng Năng Tiến.
Ngoài việc Tưởng Năng Tiến nói về cách viết truyện ngắn độc đáo của Võ Hoàng, người đọc sẽ tìm thấy ẩn trong những mạch chữ là tâm huyết của người muốn "chọn đường gai góc mà đi", từ những năm tháng dưới chế độ Việt cộng.

Với "Góc Bể Bên Trời", ở một đoạn đối thoại giữa hai người bạn: "Không vậy sao thằng Hà thi rớt tú tài mà học đòi viết cương lĩnh, con nhà Huê lúc nào cũng sợ ma mà soạn được lời "hiệu triệu" kêu gọi "đồng bào tiếp tay khi lực lượng kháng chiến nổi dậy làm trách nhiệm cứu nước", rồi Năm Đình nữa, ai hù sau lưng thì máu xâm nổi dậy, sùi bọt mép, giựt kinh phong, mà hiên ngang "tuôn một đống" truyền đơn trước cổng uỷ ban nhân dân xã... Người ta sống được nhờ cái hy vọng, dù nhỏ, dù mỏng manh, nhưng là cái hy vọng trong cái hết hy vọng, Trần à...".

 "Ta không vào địa ngục thì ai vào địa ngục". Hình như Kinh Phật có câu nói đầy hy sinh trách nhiệm này. Võ Hoàng đã nuôi dưỡng hoài bão đơn giản mà đầy chí cả đó bằng một quyết định sáng suốt và rốt ráo nhất: "người Việt mình giải quyết chuyện nước mình" như anh vẫn thường nói. Võ Hoàng đặc biệt rất thích hai chữ "nghĩa-dũng", mà theo anh, khi nói đến đất nước, "nghĩa" là đáp đền ơn Tổ Quốc, mà "dũng" là dám thực hiện sự đền đáp đó bằng sự hy sinh của chính mình. Chính vì vậy, điều mà ít bạn bè nào của anh biết được, Võ Hoàng đã âm thầm gia nhập Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất Giải Phóng Việt Nam từ những ngày tháng đầu tiên khi anh biết có những người nghĩa-dũng trở về nước dựng ước mơ lấp đá vá trời.

Và một điều gây sửng sốt không kém cho bạn bè của anh, mà sau này họ mới biết, là Võ Hoàng đã tình nguyện trở về nước chiếu đấu vào cuối năm 1984, một năm đầy sóng của tổ chức Mặt Trận ở hải ngoại với một cuộc chấn chỉnh sự rối loạn của một số người không giữ nổi chính tâm.

Sau lưng hài chiếc, Bước qua luân hồi (*)

Bạn văn chỉ biết tin Võ Hoàng trở về chiến khu khi đọc bài "Chúng ta mất hết chỉ còn nhau" trên báo Kháng Chiến số 30, tháng 8-84. Đây là bài viết sau cùng khi anh còn ở hải ngoại. Những lời tâm tình, suy tư, chia sẻ với bạn hữu, bạn văn, bạn cùng thế hệ về một thời đất nước nổi trôi, để mà "bạn tôi chịu khó đọc, mà thương cho người đi, cầm chắc cuộc sống rồi đây sẽ rất gian khổ".... Ít người bạn biết anh đi, nhưng chắc chắn trong căn nhà nhỏ ở San Jose, có người vợ với ba đứa con thơ, biết chuyến đị đầy hiểm nguy này, mà nước mắt chôn trong lòng dõi bước anh đi.... Với đời sống chật vật, con thiếu cha, vợ thiếu chồng..., mà thương không chỉ cho người đi mà còn cho người ở lại.

Những ngày tháng biền biệt đó, người thân quen "ngóng" trên những số báo Kháng Chiến hàng tháng. Người ta đợi những "sáng tác lạ" của Kháng chiến quân Võ Hoàng. Nhưng vẫn biệt vô âm tín. Có điều ít ai biết là khi vào chiến khu, "lúc bắt đầu đặt chân vô tới rừng rồi dọc theo con đường Đông Tiến, tôi có cái cảm tưởng là tôi đã được giải phóng", và sau đó, dĩ nhiên, Võ Hoàng viết rất nhiều, nhưng xếp lại không chuyển đi. Những cái náo nức ban đầu trên bước đường kháng chiến, Võ Hoàng nói, nếu không đi đến cái tận cùng của bốn chữ "đấu tranh giải phóng" thì cũng như "cái háo hức của một anh học những miếng võ đầu tiên. Thích múa biểu diễn hơn là đi đến cái tinh hoa của nội lực". Điều lý thú là những điều Võ Hoàng nói lại được đồng bào trong nước nghe trong cuộc phỏng vấn của Đài phát thanh Việt Nam Kháng Chiến, ngày 5/12/1984. Cuốn băng thu lại đã được Đài đặc biệt nhờ chuyển ra hải ngoại tặng chị Võ Hoàng. Buổi chị được nghe tiếng nói của chồng, nước mắt đã thay thế nỗi nhớ nhung hạnh phúc. Chị chỉ có thể nói một câu: "Xưa, ảnh không nói nhiều như vậy!".

Nhiều bạn hữu tự hỏi điều gì đã làm cho Võ Hoàng thay đổi như vậy. Anh nói chuyện đến cách "đánh" của người văn nghệ sĩ . Anh nói đến "công tâm", "đánh vào lòng người"... Nhưng có một điều chắc chắn đã làm anh vững chãi hơn trong ý niệm, tâm vô lượng, chí bền gan thép, đó là trong cảnh núi rừng trùng điệp của khu chiến, anh đã được gặp mặt một người mà kháng chiến quân gọi kính là "Thầy". Một người, theo Võ Hoàng, "được biết người nghĩa dũng, được đi theo và có thể hy sinh để bảo vệ người đó, cũng đủ mãn nguyện". Một người mà tất cả các kháng chiến quân ở trách nhiệm lãnh đạo, nếu không vì nhu cầu bắt buộc phải công tác ở hải ngoại, đều muốn phục vụ ở quốc nội, để được sống cùng ông đi trọn đường giải phóng Tổ Quốc. Người đó là Tướng Hoàng Cơ Minh.

Mãi đến đầu năm 1985, đồng bào hải ngoại mới được đọc chính thức những chia sẻ của Võ Hoàng trên báo Kháng Chiến. Thực ra, đây không phải là những "sáng tác lạ", mà chỉ là những suy tư đã chất chứa trong tâm huyết của Võ Hoàng từ lâu, nay mới có môi trường trải bày. Nhìn hình anh giữa núi rừng khu chiến mà biết anh như con nước trở về biển rộng. Anh được chọn làm Tổng thư ký Hội Văn Nghệ Sĩ Kháng Chiến. Một trách nhiệm đầy gian nan để vận động văn nghệ sĩ theo con đường "tải đạo" của cụ Đồ Nguyễn Đình Chiểu.

Từ bài giới thiệu "tập Chuyện Kháng Chiến" được xuất bản trong khu chiến, bạn phải đọc "Khóa học chân truyền" để hiểu tại sao nhu cầu học hỏi quan niệm cuộc "đấu tranh mới" lại cấp thiết đến như thế. Đó là những cái "mới", mà theo Võ Hoàng, thực ra đó toàn là những "điều cũ rích, mà ít ai thực hiện cho đến nơi đến chốn nên nó vẫn là "mới" tinh". Một trong những điều cứ tưởng là "mới" đó, vậy mà, Hoàng nói "phải mất bao nhiêu lâu, Thầy chia sẻ trong các khóa cán bộ quân chính về cái "đạo nước" mà người dân Việt ai cũng có thể theo, và có thể tâm niệm hàng ngày. Thầy gọi đó là Quốc-Đạo".... "Khóa học chân truyền" nói đến những "chấn động" mà Võ Hoàng chưa hề trải qua. Hoàng viết: "Hiện thời, tôi chưa thể giải thích rõ ràng về cơn chấn động tâm tư đó ra sao. Tôi mơ hồ nghĩ đến những người tu ở sách, ở kinh và bất chợt tìm được sự chứng ngộ ở ngoài kinh điển, ở ngoài sách vở, bởi những người đã "tu" ở thực tế, đã thể nhập vào thực tế mà nhìn ra đường sáng...".

Không chấn động sao được, khi nhìn thấy các kháng chiến quân "làm việc bằng mồ hôi, bằng máu và làm cả bằng mạng sống", và nhìn thấy cuộc sống thực của những người sống tinh thần Quốc-Đạo trong núi rừng chiến khu "rất thực tế và bình dị. Thực tế như cơn sốt rét bất ngờ dưới hố cá nhân của một kháng chiến quân và bình dị như ước mơ của anh, một nhúm lửa nhỏ để hâm nóng cái lạnh đang chạy tới chạy lui trong xương sống mà một vốc ký ninh cũng không làm ngừng lại được; thực tế như cái nỗi thống khổ vô cùng tận của người dân mình...".

Có lẽ chưa bao giờ người "mê" văn Võ Hoàng đọc những giòng chữ viết từ khu chiến: "Đấu tranh giải phóng không có quy ước, những điều kiện của nó luôn thay đổi, những dữ kiện của nó cần phải cập nhật hóa và những người đang theo đuổi nó cũng phải nắm vững những thay đổi đó để luôn có một cái nhìn toàn bộ...". Võ Hoàng viết: "Hơn thế nữa, nó chứa đựng một kỹ thuật gọi là kỹ thuật đấu tranh giải phóng, sử dụng toàn bằng ý thức Nhân, Nghĩa, và Sức Mạnh Dân Tộc...". Hoàng có lần kể khi còn ở hải ngoại: "thực tình, khi chiến hữu Nguyễn nói có bậc thiền sư nghe tiếng sỏi va vào thanh tre mà ngộ, thực tình lúc đó nghe mà khó cảm nhận được", và nhiều năm sau khi sống đời kháng chiến, có lẽ Võ Hoàng đã tri được cái âm thanh va vào thanh tre kỳ diệu đó, anh viết trong "Khóa học chân truyền": "Nhưng có điều tôi nói ra đây mà không sợ lầm, là khi nào các bạn tôi có dịp ngồi trước những dẫy bàn tre khập khiễng rung rinh như thế này, là khi nào các bạn tôi có dịp đặt tay lên một quyển tập giấy thô, xám mốc, kết gáy bằng chỉ đen như thế này, các bạn tôi mới có thể thấy rằng những điều kiện dư thừa đó đã không giúp ích được gì cho chính mình, đừng nói chi tới việc giúp ích được gì cho công cuộc đấu tranh thiên nạn vạn nan này. Và chính những cái điều kiện dư thừa đó, nó sẽ khiến cho những vấn đề vốn đã cũ, trở thành cũ hơn nữa".

Cái âm thanh kỳ diệu vang vọng khắp chiếu khu đó đã được Võ Hoàng trải tâm trong những bài viết: "Thư gửi người bạn văn", "Vai trò của người văn nghệ sĩ kháng chiến", "Ngày Xuân nói chuyện nữ anh hùng", "Đoạn trường anh đi qua", "Cần phải có một đường hướng sáng tác mới", "Thực hiện đường hướng sáng tác thực tế và cần thiết, "Sáng tác thực tế và cần thiết", Lần này mới là có nhau", "Văn nghệ sĩ trước bạo lực"....

Võ Hoàng đã không "viết văn", theo nghĩa thông thường, mà anh đã khắc trên đá những ước mơ của văn nghệ sĩ trước nạn nước nổi trôi: "Chúng ta đang đứng trên chiến trường, chúng ta phải chiến đấu; không có một hành động nào có thể thay thế cho hành động này hết. Công cuộc đấu tranh giải phóng Tổ Quốc đã mở ra một mặt trận đấu tranh vận dụng, mặt trận đấu tranh tư tưởng, cho anh chị em văn nghệ sĩ chúng ta trong cũng như ngoài nước có được cơ hội đóng góp. Ở mặt trận này, đường hướng sáng tác thực tế và cần thiết là một cách góp phần vào việc định đoạt thắng lợi của công cuộc đấu tranh giải phóng Tổ Quốc...".

Vậy Võ Hoàng có ước mơ của riêng mình không? Có chứ. Qua những bài viết của Võ Hoàng, từ chiến khu, anh chỉ có một ước mơ bình dị, là có cơ hội "đốt lửa giữa rừng mà bắt đấu viết" tác phẩm đầu tay: "Làm thế nào để tiêu diệt bạo quyền Việt cộng".

Đó là thời gian những sáng tác đấu tranh của Võ Hoàng vô cùng sung mãn. Thơ ư? Có chứ. Thơ của anh đầy yêu thương nhưng quyết liệt vô cùng. Nơi rừng núi chiến khu:

 "Sáng lên đồi nhìn mặt trời hồng

ngắm núi rừng

mà thẹn với núi sông

suối xa vang vọng bài đông tiến

vạt nắng vương vương

lửa rực lòng"....

 

với khí phách của người đi kháng chiến:

"vạch núi rừng

tựa cửa chống trời

lưng chừng

vách đá chơi vơi

đường về chông rũ gai dời gót chân"....

 

Ở một bài thơ khác viết trên đường công tác với thế hệ trẻ trùng trùng tiếp nối:

 "Ngủ đi em mai sáng lên đường

ta theo quân về bên kia núi

tháng năm

qua hờn căm buồn tủi

sẽ có ngày em biết yêu thương

"Bên kia là chiến trường

khắp quê hương nổi dậy

bừng con mắt cỏ cây đổi sắc

người người xuống đường giết giặc bằng tay

ào ào một cuộc đổi thay

bài ca dữ dội một ngày rền vang"....

 

Chính vì được sống trong lòng đất mẹ đấu tranh, Võ Hoàng đã:

"gặp những những con người chân thép tay gang

mắt rực lửa vùng lên làm cách mạng

hiên ngang

giữa trời..."

mà thơ đấu tranh của anh dễ dàng tuôn tràn trên những trang giấy vàng nặng tình dân tộc, trên bước "Đường kháng chiến đi qua":

"Dong ruổi bước đường

Vươn cao tay theo tầm vóc quê hương

Ngày nắng đêm sương

Cây lá theo đường cũng không biết chùn chân...

"Đường kháng chiến có người đi phía trước

Mỗi bước đi là một tương lai

Ta tuổi trẻ đường dài

Phải dài như đất nước

Đất nước hôm nay đất nước mai sau

Đường kháng chiến đi mau

Bỗng giật mình người theo nhau rầm rập

Những con người tình cờ bắt gặp

Hối hả bước đi cho kịp đấu tranh....".

Nhạc ư? Người kháng chiến quân tài hoa rất mực đó đã cho những nốt nhạc hòa nhịp đấu tranh.... Với "Lời cho quê hương", Võ Hoàng viết khúc quân hành:

"Triệu người đang mau xông lên kháng chiến

ngẩng mặt lên quyết không cam gục đầu.

Từ mọi miền vai bên vai đi mau

tay không gươm dao đập đổ cường quyền.

Mọi mọi nơi đều trở thành khu chiến.

Cờ Việt Nam cất cao bay rợp trời.

Và ngàn lời cho quê hương yêu ơi,

quê hương Việt Nam tươi mãi ngàn đời...."

 

Rồi đến "Hát vững niềm tin", Võ Hoàng cũng với đoàn quân kháng chiến:

"Bước tới những bước khí phách

ta đi ca vang bài ca đấu tranh.

Noi gương bao anh hùng ngàn xưa mãi mãi lưu danh.

Qua bao chiến công liệt oanh

xây vinh quang nước Nam hùng anh

sáng chói chiếu rọi ngàn đời..."

 

Và viết chung với kháng chiến quân Nguyễn Văn Chí, Võ Hoàng nói lên ước mơ "Quê hương ngày nổi dậy" vang rền...

"Quê hương ta hôm nay hàng vạn người đứng dậy.

Nắm chắc lấy bàn tay xông thẳng tới quân thù.

Người vượt chiến hào, Người vượt rào gai trên con đường tiến công.

Người ôm bom nổ, Người mang giáo mác, Hàng vạn hàng vạn người anh dũng xung phong.

Xung phong, xung phong, xông lên xé tan đi cờ hồng, cờ vấy máu dân lành.

Quê hương bao đời liệt oanh.

Dân ta noi gương hùng anh.

Thế lấy máu xương xây thành.

Ta đi nhanh nhanh kịp rạng đông.

Ta xông lên muôn người đợi mong.

Đạp cờ hồng giành lấy non sông..."

 

Rồi như hòa nhập liên tiếp nhiều thế hệ, Võ Hoàng khẳng định "Thế kỷ này, thế kỷ của chúng ta". Một bài hát được truyền đi khắp nơi trong các sinh hoạt của thanh niên Việt Nam ở hải ngoại:

 "Cánh mạng đường dài

người đi như con nước miệt mài

đổ mồ hôi thành giòng

loang theo bước chân vạch những con đường làm nên chiến thắng.

Ta đi, Ta đi, tay giang tay bên trời hừng say gió nắng

Bừng bừng cao ngọn lửa chói lòa

Thế kỷ này thế kỷ của chúng ta..."

 

Điều bất ngờ gây nhiều xúc động cho các chiến hữu và bạn bè của anh là vào tháng 1-86, Võ Hoàng trở ra hải ngoại công tác và xuất hiện trong Đại Hội Trưởng Cơ Sở Tổng Vụ Hải Ngoại của Mặt Trận. Trên báo Kháng Chiến sau đó, kể lại những phút tâm tình của Võ Hoàng với các chiến hữu của anh, có câu nói bình dị nhưng cần nghe:

"Ở trong chiến khu, sống cùng anh em, tôi không thấy những ray rứt trong tâm tư người kháng chiến. Tôi chỉ thấy một sự lạc quan tin tưởng. Động lực tranh đấu không phải là để giải tỏa một ẩn ức cá nhân mà chỉ vì dân tộc, vì tổ quốc....".

Rồi ngoài những công tác chính với trách nhiệm Tổng Thư Ký Hội Văn Nghệ Sĩ Kháng Chiến, Võ Hoàng đã phụ một tay với báo Kháng Chiến. Chiến hữu của anh kể về thời gian này với nhiều thán phục một nhà văn yêu nước nồng nàn và tài hoa vô cùng.

Trên trang báo, nếu cần một tấm tranh minh họa là Võ Hoàng chỉ chuyển chiếc cọ, cây bút chì lên xuống là xong một bức tranh như ý muốn. Bây giờ nhìn lại minh hoạ mà Hoàng vẽ cho bài lịch sử nói về người anh hùng đất Kiên Giang Nguyễn Trung Trực, mới thấy người kháng chiến quân đất Kiên Giang Võ Hoàng nối được chí người xưa. Cũng bây giờ, ngồi đọc tập Anh Hùng Nước Tôi của Đông Tiến xuất bản, mới thấy tấm lòng trân trọng của anh với người xưa: Võ Hoàng đã vẽ lại hầu hết chân dung các vị anh hùng anh thư nước Việt, với nét vẽ sống động thần kỳ....

Chết.

là nhảy giữa tiếng cười hư không (*)

Nạn nước ngày một đen tối hơn. Giữa năm 1987, Võ Hoàng trở về nước. Ngày cuối ở hải ngoại, anh nôn nao những ngày "theo quân về bên kia núi". Ở trong hoàn cảnh thương nhớ vợ con và trách nhiệm nặng nề hiểm nguy bên quê nhà, như Võ Hoàng và các chiến hữu của anh phải trải qua, thật mà khó tưởng tượng lại có những ý nghĩ bệnh hoạn, ngồi nhịp giò an nhàn vô sỉ lên giọng "đúng-sai", "thực-giả"!

Chiều cuối ở San Jose, thành phố ghi lại hỉnh ảnh cuối cùng của nhà văn đi kháng chiến. Với cái bắt tay ấm chặt từ biệt - mà thành vĩnh biệt đó - Võ Hoàng chỉ nhìn mà không nói. Ánh mắt nói nhiều điều. Vẫn ánh mắt cương quyết, hy sinh, đôn hậu. Ánh mắt dễ dàng tìm thấy ở các chiến hữu của anh. Hoàng về nhà chiều hôm đó, vẫn an nhiên chăm sóc vợ con. Người chồng sắp đi vào cơn gió bão, và người vợ không thể tìm biên giới của nỗi nhớ thương.

Từ năm 1985, Mặt Trận đã tiến hành một kế hoạch nhằm mở rộng các an toàn khu tại quốc nội, phát triển hệ thống Uỷ Ban Kháng Quản và tìm cách đưa một số nhân vật lãnh đạo vào sâu trong nội địa Việt Nam để chuẩn bị điều kiện đưa cuộc đấu tranh sang một giai đoạn mới.

Nhiều chuyến xâm nhập Việt Nam đã được thực hiện từ năm 1985 và đến giữa tháng 7/1987. Tướng Hoàng Cơ Minh quyết định dẫn một đoàn kháng chiến quân băng qua lãnh thổ Lào để trở về quốc nội. Trong thời gian đầu của chuyến đi, đoàn quân đã không gặp nhiều khó khăn, mặc dù có những trận đụng độ với lực lượng Lào cộng và Việt cộng đóng trên đất Lào. Tuần lễ đầu tháng 8/1987, khi đoàn quân gần đến biên giới Lào-Việt nằm về hướng Đông tỉnh Attopư thì bắt đầu đụng độ khá nặng với lực lượng biên phòng của Việt cộng. Trong trận đụng độ này, một số kháng chiến quân bị bắt. Do sự cung khai của một vài người, quân Việt cộng biết được trong đoàn quân có một người rất quan trọng:
Tướng Hoàng Cơ Minh. Quân Việt cộng khẩn cấp tăng cường viện binh lên đến cấp Trung Đoàn để bủa vây và dùng trực thăng hỗ trợ, nả pháo liên hồi để truy kích với mục tiêu bắt sống Tướng Hoàng Cơ Minh. Sau hơn hai tuần lễ cầm cự và giao tranh, nhiều kháng chiến quân đã hy sinh và Tướng Hoàng Cơ Minh cũng đã bị thương.

Đến ngày 27/8/1987, đoàn quân bị vây trên một ngọn đồi. Quân Việt cộng tấn công nhiều đợt lên đồi quyết bắt sống Tướng Hoàng Cơ Minh. Rừng núi Attopư đẫm mùi khói súng. Kháng chiến quân đánh trả quyết không hàng, nhưng quân ít, đạn dược thiếu nên không sao thoát khỏi vòng vây dầy đặc của quân thù. Mờ sáng ngày 27/8, Tướng Hoàng Cơ Minh tập trung anh em lại dặn dò lần cuối, ra lệnh những ai còn khỏe mạnh thì cố gắng thoát khỏi vòng vây, ai không đi được ở lại tử thủ. Dù máu ra nhiều nhưng Tướng Hoàng Cơ Minh vẫn điềm nhiên điều động các kháng chiến quân còn lại chiến đấu cho đến những giờ phút cuối cùng trong không gian khói lửa ngụt trời.

Tiếng súng của vị chỉ huy và nhiều tiếng súng ngắn sau đó liên tiếp vang động rừng già. Tướng Hoàng Cơ Minh và các kháng chiến quân còn lại đã tự sát quyết không rơi vào tay giặc.

 Ở phía bên kia quả núi, Võ Hoàng cùng đồng đội chống trả mãnh liệt. Không biết anh có nghe những tiếng súng bi hùng của "ông Thầy" và anh em không, chỉ thấy anh vẫn kiên gan xông về phía trước. "Thế lấy máu xương xây thành". Những lời nhạc từ trong tim đã theo anh vượt lên. Nhưng quả pháo giặc đã chụp xuống cạnh anh ngay sau đó, buổi sáng ngày 28/8/1987.

 

Đã nhiều năm trôi qua, không biết những người vợ tần tảo nuôi con như thế nào, đã phải vượt qua những nỗi đau đớn vô cùng đó ra sao, mà chỉ biết những đứa con nay đã khôn lớn, thành đạt. Tạ ơn các chị đã để lại những tấm gương sáng, rất Việt Nam.

Như đã có lần tỏ bầy, người viết chỉ có cơ duyên may mắn là được quen những con người Việt Nam rất nghĩa-dũng đó, nói theo chữ của Võ Hoàng, và được xem những tài liệu, tư liệu qúy giá có liên quan đến "những con người chân thép tay gang" của một tổ chức kháng chiến, để có thể ghi lại những giòng tâm cảm này nhân ngày giỗ nhà văn Võ Hoàng, tháng 8, và bác sĩ Hoàng Cơ Trường, tháng 10.

Tạ ơn Tưởng Năng Tiến, đã nối tâm duyên gặp lại anh Hoàng Cơ Trường, và được quen biết Võ Hoàng.

Lần giở lại những giòng chữ, những hình ảnh xưa cũ mà thấy - mà chắc chắn có - tâm huyết và ước mơ những con người nghĩa-dũng đã hy sinh vì nước, hoặc đang trên những bước đường tiếp nối, sẽ thành đạt một ngày không xa.

Nhìn hình bác sĩ Hoàng Cơ Trường trong chiếc áo nâu mà thấy như anh vẫn đang lừng lững sánh bước trong đoàn quân kháng chiến. Nhìn ảnh Võ Hoàng ngồi viết trong chiến khu mà tưởng đến người anh hùng áo vải Nguyễn Trung Trực ngồi bên sông nước Kiên Giang đọc sách Bình Ngô....

Hành Tư
Tháng 8/2003

(*) Kể từ xương đá trổ hoa

Sau lưng hài chiếc, Bước qua luân hồi

Sống...

là thơ mộng mà chơi

Chết...

là nhảy giữa tiếng cười hư không

(Thơ Tuệ Giải)

-------------

Nhớ Võ Hoàng

Nguyễn Xuân Nghĩa 

Đáng lẽ, văn học hải ngoại đã có một tác giả độc đáo. Đó là Võ Hoàng.

Nhưng, anh không muốn vậy. Và định mệnh lẫn sự hẩm hiu của văn học thời loạn cũng chiều lòng anh. Võ Hoàng trở thành một kháng chiến quân đã hy sinh vào một ngày tháng Tám năm 1987. Tôi viết những giòng này để nhớ tới Võ Hoàng như một nhà văn và một người anh em...


Nhà văn Võ Hoàng
image039

Tôi gặp Võ Hoàng trước khi biết đến và gia nhập Mặt trận Quốc gia Thống nhất Giải phóng Việt Nam, để rồi cùng anh tham gia tổ chức này. Gặp anh, tôi biết mù mờ rằng Võ Hoàng Oanh sinh năm 1952 tại Phú Quốc, gia nhập Hải quân và bị tù cải tạo. Mù mờ vì anh em gặp nhau lúc đó thì có bao giờ hỏi han mấy chi tiết vớ vẩn về cuộc đời? Sau này mới biết rõ hơn và quý trọng nhau hơn. Qua Lý Khánh Hồng, tôi gặp Võ Hoàng khi mình mới từ bên Pháp đến Mỹ. Lúc đó, vào mùa Thu năm 1982, cùng với Tưởng Năng Tiến, Thượng Văn, Lôi Tam và Lý Khánh Hồng, Võ Hoàng thực hiện tạp chí và cơ sở xuất bản Nhân Văn. Thời đó, trong sự đổ vỡ chung của niềm tin lẫn nỗi hoang mang trên cõi tạm dung, Nhân Văn thực sự đã có những đóng góp không nhỏ về cả mặt văn học lẫn lý luận.

Vào năm 1982, chúng tôi gặp nhau ở đó cùng một số văn hữu khác và tôi giật mình ở con người Võ Hoàng. Anh ít nói, thường có cái vẻ miễn cưỡng của người hiện diện ở một nơi không nên. Anh có cái vẻ miễn cưỡng của kẻ đã lỡ sống sót sau một thảm kịch lớn cho những người kia, những người không may đã khuất.

Nói về cái tên Oanh của anh, chúng tôi luận bàn về hai chữ chiến tranh và hòa bình. Tên anh không có cái nghĩa lãng mạn của một giống chim, mà là tiếng chuyển động ầm ầm. Của xe nhà vua như tôi nói đùa, hoặc, nói trong tiếng cười kín đáo của Võ Hoàng, tiếng chiến xa. Võ Hoàng là người kỳ tài trong số những người tôi đã được gặp. Viết ra điều mình đã nghĩ từ bao lâu nay, tôi lại thấy ngậm ngùi.

Anh viết Trong lòng cách mạng để ghi lại kỷ niệm ở quê nhà, những điều mắt thấy, tai nghe (và cả tay làm) sau ngày 30 tháng Tư 75. Anh vượt biên năm 1978 đến Úc sau khi đã lao vào hoạt động mệnh danh "Phục quốc" ở quê nhà: tù cải tạo ra, anh đi rải truyền đơn cho tới khi bị truy lùng thì phải chạy. Đọc Trong lòng cách mạng, người ta có thể lờ mờ đoán ra điều đó. Qua Góc bể bên trời, Võ Hoàng viết về chuyến vượt biên ly kỳ của mình thì ít mà về thân phận lưu đày của chúng ta thì nhiều. Đọc tác phẩm, ta càng hiểu đứa con của Phú Quốc là tay đi biển thành thạo, và càng thấy ở Võ Hoàng những dấu hiệu của một tài năng lớn, mà có lẽ anh cũng chẳng biết, hoặc bất cần. Ở anh, chỉ thấy toát ra một sự cô đơn.

Hai tập truyện Măng đầu mùa và Đất lạ viết cùng Tưởng Năng Tiến có thể phản ảnh những trăn trở đó của anh khi phải sống đời tỵ nạn. Thân ở đây mà hồn cứ như ở nơi đâu xa lắc. Gia đình anh vượt biên sau anh. Anh mừng vì đoàn tụ với gia đình nhưng vẫn bơ vơ vì chưa đoàn tụ với quê hương. Thấy gia đình tới nơi yên lành rồi thì Võ Hoàng thở ra nhẹ nhõm: đã có thể lại lao vào cuộc khác, để trở về.

Võ Hoàng có lối viết của một nhà văn miền Nam, với cái nhìn sắc bén thâm trầm của người miền Trung. Hãy đọc lại cuốn truyện dài Góc bể bên trời, hoặc truyện ngắn Khách thập phương trong tập truyện Đất lạ, cái đoạn mô tả cảnh một vị sư rót ra ba chung trà xếp thành hình chữ "phẩm" để mời khách, thì ta sẽ thấy nét tinh tế đó trong văn Võ Hoàng. Lối viết với đầy đối thoại, cứ tưởng như rời rạc, nhát gừng, mà bên trong đầy ắp những suy tư chỉ chực trào ra ngoài, những cuồng nộ không thể nguôi ngoai và sẽ bùng ra thành hành động.

Võ Hoàng thạo nghề sông nước, rất giỏi võ, khéo tay, có thể làm thợ nề thợ mộc như đã học từ bé. Anh vẽ thần sầu, làm thơ cũng hay mà viết nhạc cũng giỏi. Những anh em làm báo mà có Võ Hoàng bên cạnh là thấy nhẹ người: anh có thể cưa đẽo nhà dưới làm kệ sách rất mỹ thuật, rồi lên nhà trên giúp cho tờ báo về mọi mặt. Nơi này cần cái vignette là anh ngoáy bút ra một cái, nơi kia cần "mi" lại cho chỉnh, thời đó chúng ta chưa dùng chữ lay-out, là cũng có Võ Hoàng. Thời đó nữa, chúng ta còn phải dùng cái máy "Varytyper" nặng như cái cùm, in bài ra giấy còn phải lấy bút bỏ dấu, Võ Hoàng bỏ dấu rất gọn. Anh ít nói, bập bập điếu thuốc sau cặp kính hấp háy, nhưng khi nói là có giọng duyên dáng mà không ác, và làm gì cũng có vẻ như sợ làm phiền người khác. Võ Hoàng là người cực kỳ tài hoa mà lúc nào cũng có vẻ vụng về, nếu ta không để ý thấy đôi mắt rất sáng của anh. Anh nói ít mà hiểu nhiều bên sau cái dáng quê kệch của người mới ra tỉnh. Anh chí tình và tận tụy với trách nhiệm, bất kể lớn nhỏ. Ông Hoàng Cơ Minh sau này trông cậy rất nhiều nơi anh là cũng phải.

Chúng tôi kết bạn với nhau như vậy, cho tới ngày Võ Hoàng gia nhập Mặt Trận và thôi gọi nhau là anh em mà là "chiến hữu". Anh đã tìm được con đường muốn đi ngay từ khi bỏ nước ra đi. Đó là con đường về. Võ Hoàng trở thành "kháng chiến quân" khi đi vào chiến khu của Mặt Trận từ tháng Năm, năm 1984. Gặp lại anh sau đó, trong một vài lần hãn hữu và không khí kém vui của một sự rối loạn bên trong, tôi gặp một con người khác.

 

Bắc Phong có viết một bài thơ tặng Võ Hoàng, trong đó có câu mà chúng tôi nhớ mãi:

    Đi, hành trang có niềm tin,
    Quyển thơ Nguyễn Trãi và hình vợ con.

Sau này, rất lâu sau này, vào tháng Sáu năm 1989, khi đi tới tận cùng của chiến khu để tìm lại tông tích của anh, tôi gặp lại và đi lại con đường anh mô tả trong bài ca Thế kỷ này là thế kỷ của chúng ta mà anh sáng tác trong đó:

    Cách mạng, đường dài,
    Người đi như con nước miệt mài.
    Đổ mồ hôi thành dòng,
    Loang theo dấu chân thành những con đường làm nên kháng chiến,
    Ta đi, ta đi, ta đi...

Con đường đó vô cùng gian nan, nguy hiểm, và đòi hỏi một ý chí sắt thép, mà đổ mồ hôi thành dòng mới chỉ là một phần rất nhỏ của những gian truân. Phần còn lại, trên đoạn đường Mặt Trận gọi là "Đông tiến", mới có những đòi hỏi khắc nghiệt hơn, kể cả đổ máu. Võ Hoàng đã hy sinh như vậy, trong một cuộc quần thảo bi thảm mà hào hùng ít ai có thể mường tượng ra.

Vào chiến khu của Mặt Trận, Võ Hoàng trở thành một người cộng sự thân tín của ông Hoàng Cơ Minh. Anh thoát xác đến anh em Nhân Văn và cả tôi, những anh em chí thiết khi anh chưa gia nhập Mặt Trận, cũng không ngờ nổi. Tinh thần kỷ luật nơi đó biến anh thành con người khác, bình thản, nhẫn nhục và lầm lỳ như một mũi tên chỉ chực bắn ra phía trước. Mũi tên bay đi không nhờ lực đẩy ở đằng sau, mà vì sức hút của mục tiêu ở đàng trước, một mục tiêu mà mọi người chúng ta đều mơ ước.

Phó đề đốc Hải Quân Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa

Hoàng Cơ Minh.

Khi Võ Hoàng viết một lá thư kêu gọi các văn hữu cùng tham gia vào việc đấu tranh, rất nhiều anh em ngoài này không hiểu được tâm tư và ý chí đó của anh, nên có thể thấy ngỡ ngàng, có khi khó chịu. Anh sắt thép quá, trông chờ nhiều quá, chỉ vì đòi hỏi quá nhiều ở chính anh. Và cái đòi hỏi sau cùng, là sự hy sinh tuyệt đối nhất, anh cũng không từ nan. Nếu có đọc lại hoặc nhớ lại lời kêu gọi đó của Võ Hoàng, vào mùa Thu năm 1984, và biết rằng anh sẽ hy sinh đúng ba năm sau, chúng ta sẽ thông cảm với anh hơn, và thương tiếc nhiều hơn. Hình như tôi đang viết những dòng này để kêu gọi sự thông cảm đó.

Nếu như Võ Hoàng còn sống, và trong hoàn cảnh hiện nay của đất nước, chắc chắn anh vẫn tiếp tục đấu tranh, nhưng với những phương tiện mới trong một phương thức mới, một phương thức đòi hỏi sự sáng tạo, linh động và tính kiên nhẫn lẫn bao dung mà anh có thừa. Và văn học hải ngoại chắc chắn vẫn có Võ Hoàng.

Nếu đất nước ta thanh bình, điều chưa hề có từ bao lâu nay rồi, một con người tài hoa và lý tưởng như Võ Hoàng có lẽ đã cống hiến rất nhiều cho văn học và nghệ thuật nước nhà. Với sức làm việc kinh hồn và óc nhận xét tinh tế cùng khả năng diễn tả rất đa diện, Võ Hoàng đã có thể là một nhà văn có ảnh hưởng trong chúng ta ở nơi đây. Anh mất quá sớm, khi mới 35 tuổi, vào lúc sung sức nhất, sáng tạo nhất, để lại một sự tiếc thương khó nguôi ngoai trong bằng hữu, và một tiếng thở dài bất tận trong chúng ta, về hai chữ vận nước.

 

Chúng ta phao phí quá nhiều người tài giỏi như vậy, trong bao nhiêu năm trời, trên cả hai miền đất nước, ra tới bên ngoài này... Nghĩ vậy, làm sao mình không khỏi nghiến răng phẫn hận?

Nguyễn Xuân Nghĩa

Thông Tin Đức Quốchttp://www.ttdq.de/node/1681

 

Thăm Bạn

 

KCQ Nguyễn Đức Thắng

 

 

Nửa khuya ghé thăm anh

Gió đông về lành lạnh

Giữa bầu trời hiu quạnh

Hờ hững nước trôi quanh

 

Anh nằm bên dòng suối

Chơ vơ một góc chanh

Con chim nào đang khóc

Vì thương lá đoạn cành.

 

Kìa anh cây chanh nhỏ

Hôm dúi vội bên anh

Bây giờ chanh đã lớn

Mồ anh cỏ cũng xanh

 

Anh giờ thôi áo trận

Thay vào áo sử xanh

Tôi còn mang áo cũ

Đêm ngày vẫn đấu tranh.

 

Ghé thăm anh nửa phút

Rồi tiếp tục di hành

Gửi anh cây chanh nhỏ

Nhờ anh bón cho xanh

Mai này khi chiến thắng

Lúc đại cuộc đã thành

Có cây chanh làm dấu

Tìm cốt người hùng anh

 

Thôi chào nhau anh nhé

Chúc anh giấc mộng lành

Trời bây giờ cũng sắp

Vào Xuân rồi đấy anh.

 

Khóc Bạn

(Họa bài thơ Thăm Bạn)


Sáng nay thăm mộ anh
Trời vào Xuân lành lạnh
Sương mai vương hiu quạnh
Giọt lệ em long lanh
Róc rách ngàn tiếng suối
Tức tưởi một cành tranh
 Con chim non đang khóc
Thuơng đau lá lìa cành
Biếu anh cây chanh nhỏ
Nhớ ngày đến thăm  anh
Công anh chăm nó lớn
Cành chanh xanh kìa anh
Anh thôi mang áo trận
Nhưng đi vào sử xanh
Em vẫn theo đường cũ
Đường kim chỉ đấu tranh
Đây những lá chanh nhỏ
Suốt mùa Đông vẫn xanh
Khi đất nuớc Giải phóng
Giấc mộng chúng ta thành
Cây chanh này in dấu
Những chiến công hùng anh
Thăm anh trong phút chốc
Ngàn dặm em đăng trình
 
Nữ sĩ Nguyễn minh Liên
-----------------------------------

 

Đường Kháng Chiến Đi Qua


Võ Hoàng
1985

Lời giới thiệu về tác giả bài thơ:

KCQ Võ Hoàng tham gia MTQGTNGPVN từ những ngày đầu tiên của thập niên 1980 theo lời kêu gọi cứu nước của phó Đề Đốc Hoàng Cơ Minh. Là một nhà văn được nhiều bạn hữu thương mến, một họa sĩ truyền thần kỳ tài, một nhà thơ với những nét chấm phá tuyệt diệu với những giòng thơ thiết tha tình nước và một người khí phách, ông đã hy sinh mái ấm gia đình để gia nhập đoàn võ trang kháng chiến thuộc MTQGTNGPVN của phó Đề Đốc Hoàng Cơ Minh. Ông vào khu chiến để viết lên những trang sử oai hùng của dân tộc Việt Nam trong cuộc chiến chống cộng sản xâm lăng bạo ngược, để viết lên những câu chuyện thật về những tấm lòng trung kiên lý tưởng, về cuộc sống hào hùng của những KCQ Việt Nam quyết đem mạng sống đánh đổi lấy hạnh phúc cho quê hương dân tộc. Và bản thân ông, KCQ Võ Hoàng đã hy sinh trong trận Đông Tiến trên con đường trở về khu chiến Việt Nam vào năm 1987.

Ngày hôm nay đọc lại những vần thơ của KCQ Võ Hoàng, chúng ta không khỏi có những bồi hồi xúc động. Tình yêu nước không bao giờ chết trong lòng người Việt Nam. Máu của những anh hùng Việt Nam đã ươm mầm cho những hạt nhân cách mạng được phát triển vững mạnh trên những mãnh đất khô cằn. Những bước đi của các KCQ VN sẽ được tiếp nối bởi những thế hệ Việt Nam trên toàn thế giới. Dân tộc Việt Nam sẽ có ngày ngẩn mặt tự hào trong hạnh phúc Tự Do Dân Chủ của Quê Hương. Ki'nh mời quý độc giả cùng đọc bài thơ "Đường Kháng Chiến Đi Qua" của KCQ Võ Hoàng.
-------------

Đường kháng chiến đi qua
Bỗng lạ lùng
Thấy mình quen tất cả
Những nỗi gian lao vất vả
Từng người từng người tất tả bước mau
Và đất nước theo sau
Đậm lại từng câu từng câu lịch sử

Máu chẩy ngược theo từng giòng chữ
Máu của nhiều năm đọng ứ tim sông
(Máu của nhiều năm đọng hồng gan núi)
Hôm nay đi
Mọi người mọi tuổi
Như ngàn ngàn con suối nhập vào sông
Như ngàn ngàn con rồng tuôn ra biển
Bước chân rầm rập bưng biền
Lan ra khắp ba miền đất nước
Ngàn yêu thương trải dài từ thủa trước
Triệu bàn tay ôm đất nước đâng lên
Kìa xa xa
Tiếng hát vang rền
Người ngẩng đầu lên
Tràn theo đường kháng chiến.

Ta theo triệu người cùng tiến
Cất nỗi niềm riêng
Dong ruổi bước đường
Vươn cao tay theo tầm vóc quê hương
Ngày nắng đêm sương
Lừng lững giữa chiến trường
Cây lá theo đường cũng không biết chùn chân
Nương theo bước tiền nhân
Đem tuổi thanh xuân mài gươm cứu nước

Đường kháng chiến có người đi phía trước
Mỗi bước đi là một tương lai
Ta tuổi trẻ đường dài
Phải dài như đất nước
Đất nước hôm nay, đất nước mai sau
Đường kháng chiến đi mau
Bỗng giật mình người theo nhau rầm rập
Những con người tình cờ bắt gặp
Hối hả bước đi theo kịp đấu tranh....

1985.
KCQ Võ Hoàng

30 Tháng Năm 2016(Xem: 14038)