Ts Phạm Cao Dương; Gs Nguyễn Ngọc Bích; Bs Đào Như

02 Tháng Chín 20152:25 SA(Xem: 16044)

"BÁO VĂN HÓA - CALIFORNIA" THỨ TƯ 02 SEP 2015

Bảy mươi năm nhìn lại

 

Từ Bảo Đại đến Hồ Chí Minh:

HAI BẢN TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP

 

image024

Phạm Cao Dương

Trong lich sử tranh đấu giành độc lập của dân tộc Việt Nam trong thế kỷ hai mươi, hai lần nước ta đã được các nhà cầm quyền đương thời chính thức tuyên bố độc lập.  Lần thứ nhất vào ngày 11 tháng 3 năm 1945 bởi Hoàng Đế Bảo Đại và lần thứ hai vào ngày 2 tháng 9 năm 1945 bởi Chủ tịch Chính Phủ Lâm Thời Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa Hồ Chí Minh. 

Hai lần cả thảy, nhưng đa số người Việt chỉ biết hay chỉ được học có một lần.  Họ chỉ biết hay chỉ được học bản tuyên ngôn của Hồ Chí Minh ngày 2 tháng 9 mà không biết hay không được học bản tuyên ngôn của Bảo Đại ngày 11 tháng 3. 

Lịch sử do đó chỉ được biết có một nửa thay vì toàn vẹn.  Bài này nhằm bổ khuyết cho tình trạng thiếu sót đó, đồng thời phân tích nội dung và ý nghĩa của từng bản.

TUYÊN NGÔN CỦA HOÀNG ĐẾ BẢO ĐẠI

Hoàn cảnh được công bố

 Bản tuyên ngôn độc Lập của Hoàng Đế Bảo Đại được công bố ngày 11 tháng 3 năm 1945, hai ngày sau khi Nhật đảo chính Pháp ở Đông Dương và sau một thời gian dài hơn bốn năm, từ tháng 9 năm 1940, sau khi quân Nhật vào phần đất này của Đông Nam Á, gần năm tháng trước khi Nhật Bản đầu hàng và Thế Chiến Thứ Hai kết thúc.  Trong thời gian này Việt Nam bị sống dưới sự cai trị của cả người Pháp, từ sau khi Hòa Ước 1884 được ký kết, lẫn người Nhật, từ ngày 22 tháng 9 năm 1940, với một hậu quả khủng khiếp là Trận Đói Tháng Ba Năm Ất Dậu. 

 

Hoàn cảnh này đã làm cho không chỉ riêng những người Cộng Sản, vốn chủ trương đánh đổ chế độ quân chủ để cướp chính quyền (chữ của chính người Cộng Sản) để từ đó thực thi cách mạng xã hội chủa nghĩa vô sản mà luôn cả những người không những không có cảm tình với chế độ quân chủ đương thời mà còn chủ trương lật đổ chế độ này để thay thế bằng một chế độ dân chủ, không nhìn nhận giá trị đích thực của của bản tuyên ngôn này.  Lý do là vì Bảo Đại luôn luôn bị coi như một ông vua bù nhìn, trước kia trong tay người Pháp và lúc đó trong tay người Nhật. 

Theo họ trước kia người Pháp bảo sao, ông làm vậy và sau đảo chính 9 tháng 3 năm 1945, người Nhật bảo ông tuyên bố độc lập thì ông tuyên bố độc lập, thế thôi.   Người ta hiểu hay được học đơn giản như vậy.  Nền độc lập mà Bảo Đại tuyên bố theo họ chỉ là do người Nhật ban cho và bản tuyên ngôn của ông chẳng có một giá trị gì trong lịch sử đấu tranh giành độc lập của người Việt.  Thực chất của nó chỉ là “sự tuyên bố công khai việc thay thầy đổi chủ của triều đình Bảo Đại”[i] không hơn không kém.  Sự thực không đơn giản như vậy.  Người Nhật có lý do làm đảo chính lật đổ người Pháp và Bảo Đại có lý do phải chấp nhận yêu cầu của người Nhật tuyên bố Việt Nam độc lập.  Lý do của Bảo Đại đã được ông giải thích khi tiếp kiến Trần Trọng Kim và cố gắng thuyết phục ông này chấp nhận làm thủ tướng đầu tiên của chính phủ Nam Triều độc lập. Nguyên văn câu nói được Trần Trọng Kim kể lại như sau:

- "Trước kia nước Pháp giữ quyền bảo hộ nước ta, nay đã không giữ được nước cho ta, để quân Nhật đánh đổ, vậy những điều trong hiệp ước năm 1884 không có hiệu quả nữa, nên Bộ thượng thư đã tuyên hủy hiệp ước ấy. Trẫm phải dứng vai chủ trương việc nước và lập chính phủ để đối phó mọi việc.” [ii]

 

Người ta cần phải nhớ là hơn mười năm trước đó, sau khi du học từ Pháp về tới Huế được hai ngày, ngày tháng 10 tháng 9 năm 1932, Bảo Đại đã ra Dụ số 1 tuyên bố chấp chính và khẳng định chế độ quân chủ của Nam Triều hủy bỏ Quy Ước 6 tháng 11 năm 1925 do Hội Đồng Phụ Chính, đứng đầu là Tôn Thất Hân, ký với Toàn Quyền Đông Dương thời nà vua còn nhỏ tuổi và đang du học bên Pháp, tước bỏ hầu hết các quyền hành còn lại của nhà ông trừ các quyền có tính cách nghi lễ, ân xá, sắc phong, tế lễ...kèm theo nhiều dụ khác nhằm thực hiện những cải cách qui mô trong nền hành chánh của chính phủ Nam Triều, nhưng đã bị người Pháp ngăn cản và bị thất bại.  

Đảo chính 9 tháng 3 năm 1945 và lời yêu cầu tuyên bố độc lập của người Nhật dù gì đi chăng nữa cũng là điều vị hoàng đế còn trẻ tuổi từ lâu mong đợi.   Ngoài ra theo nhận định và giải thích nhằm thúc đẩy Trần Trọng Kim “chịu khó” lập chính phủ mới.  Ông nói :

 - “Trước kia người mình chưa độc lập.  Nay có cơ hội, tuy chưa phải độc lập hẳn, nhưng mình cũng phải tỏ ra có đủ tư cách để độc lập. Nếu không có chính phủ thì người Nhật bảo mình bất lực, tất họ lập cách cai trị theo thể lệ nhà binh rất hại cho nước ta. Vậy ông nên vì nghĩa vụ cố lập thành một chính phủ để lo việc nước.”[iii]

 

Hai tiếng “cơ hội” Bảo Đại dùng ở đây cho ta thấy ông từ lâu mong có dịp này. Đồng thời ông cũng hiểu rằng nền độc lập mà ông tuyên cáo chưa phải độc lập hẳn. Chưa hết, tuyên bố rồi ông còn có nhu cầu phải tỏ ra có đủ tư cách để độc lập và nhất là để tránh không cho người Nhật “lập cách cai trị theo thể lệ nhà binh rất hại cho nước ta.”  Một sự e ngại chỉ có những người có kiến thức về lịch sử và chính trị học mói biết được. 

Ngoài ra những tiếng “rất có hại cho nước ta” cũng cho người ta thấy đối tương của hành động tuyên cáo độc lập của ông không phải là ngôi vua mà là đất nước Việt Nam và dân tộc Việt Nam, đất nước của ông và thần dân của ông.   Cái nhìn và quan điểm này cũng như sự hiểu biết của ông về tình hình thế giới và thế tất bại của người Nhật về sau đã được ông nói rõ trong hồi ký của ông. 

Riêng đối với người Nhật, ông đã không tin tưởng ở họ cũng như chiêu bài Đại Đông Á của họ.  Nói cách khác Bảo Đại ở vị thế phải chấp nhận nhập cuộc dù ông hiểu rõ sự phức tạp của vấn đề.  Phần khác, như ông cũng nói tới trong hồi ký của ông:  Độc lập là ước mơ của tất cả mọi người Việt Nam thời đó.

Nội dung bản Tuyên ngôn

Đây là một bản văn tương đối ngắn so với những bản văn cùng loại, nhằm ba mục tiêu chính yếu là hủy bỏ hòa ước Triều Đình Huế đã ký với nước Pháp, tuyên bố Việt Nam độc lập, đứng vào khối Đại Đông Á trong chương trình phát triển chung, đồng thời bày tỏ sự tin tưởng vào lòng  thành của nước Nhật với nguyên văn như sau:

"Cứ tình hình chung trong thiên hạ, tình thế riêng cõi  Đông Á, chính phủ Việt Nam tuyên bố từ ngày này điều ước bảo hộ với nước Pháp bãi bỏ và nước Nam khôi phục quyền độc lập.

 

Nước Việt Nam sẽ gắng sức tự tiến triển cho xứng đáng một quốc gia độc lập và theo như lời tuyên ngôn chung của Đại Đông Á, đem tài lực giúp cho cuộc thịnh vương chung.

 

Vậy Chính Phủ Việt Nam một lòng tin cậy lòng thành ở Nhật Bản đế quốc, quyết chí hợp tác với nước Nhật, đem hết tài sản trong nước để cho đạt được mục đích như trên." [iv]

 

Bản Tuyên Bố được đề ngày 11 tháng Ba năm 1945 tức ngày 27 tháng Giêng năm Bảo Đại thứ 20 được Bảo Đại ký tên với sáu thượng thư phó thự.  Sáu vị thượng thư gồm có: Phạm Quỳnh, bộ Lại, Hồ Đắc Khải, bộ Hộ, Ưng Úy, bộ Lễ, Bùi Bằng Đoàn, bộ Hình, Trần Thanh Đạt, bộ Học, và Trương Như Định, bộ Công.  Theo Bảo Đại đây là lần đầu tiên trong lịch sử một văn kiện được ký bởi nhà vua và tất cả các nhân vật quan trọng nhất trong triều đình.

Đọc bản Tuyên Ngôn Độc Lập này của Bảo Đại, người ta cần chú ý tới những chi tiết sau đây:

Thứ nhất: Gọi là tuyên ngôn nhưng thực sự đây chỉ là một văn kiện hủy bỏ một điều ước đã được ký kết trước đó vì do tình hình biến chuyển một trong hai phía đã không tôn trọng những gì mình đã ký kết hay không thực thi được những gì mình đã ký kết trong một sinh hoạt quốc tế.  Điều ước bị hủy bỏ ở đây là Hòa Ước Giáp Thân được ký kết giữa Triều Đình Huế và người Pháp ngày 6 tháng 6 năm 1884, đặc biệt hai điều khoản của hòa ước này là điều khoản thứ nhất, theo đó Việt Nam công nhận và chấp nhận Quyền Bảo Hộ của nước Pháp và điều khoản thứ mười lăm, theo đó nước Pháp cam kết bảo đảm sự toàn vẹn  lãnh thổ của các xứ do vua Việt Nam cai trị và bảo vệ nhà vua chống lại những sự xâm nhập từ bên ngoài  và những cuộc  nổi loạn từ bên trong..[v] 

 

 Sự hủy bỏ này phải được hiểu là do người Pháp bất lực không bảo vệ được Việt Nam trước sự bành trướng của quân đội Nhật và cuối cùng là chính người Pháp đã bị người Nhật lật đổ trong cuộc Đảo Chính ngày 9 tháng 3 năm 1945.  Sự hủy bỏ này cũng có tính cách đơn phương từ phía Hoàng Đế Bảo Đại với tư cách là người kế vị chính thống của Triều Đình Nhà Nguyễn hay trực tiếp hơn từ Vua Tự Đức, căn cứ vào những gì đã xảy ra vào thời điểm này. 

Điểm  cần được lưu ý ở đây là từ ngữ hòa ước trong văn kiện này được dùng theo số ít, trong tiếng Việt, không có chữ “các” hay “những” đi kèm và trong tiếng Pháp không có chữ “s” theo sau.   Điều này có nghĩa là bản tuyên cáo chỉ hủy bỏ hòa ước bảo hộ tức Hòa Ước Giáp Thân 1884 mà thôi thay vì hủy bỏ tất cả các hòa ước đã được ký kết trước đó.  Đó là các Hòa Ước Nhâm Tuất 1862 và Hòa Ước Giáp Tuất 1874 liên hệ tới xứ Nam Kỳ theo đó xứ này đã bị nhường dứt cho người Pháp là và trở thành thuộc địa của họ, không còn thuộc quyền cai trị của Vua và Triều Đình Huế nữa. 

Vấn đề thâu hồi xứ Nam Kỳ do đó chưa được giải quyết ngay nhưng đã trở thành mối bận tâm và một phần hành quan trọng của chính Hoàng Đế Bảo Đại ngay từ buổi nhà vua tiếp kiến Đại Sứ nhật Yokoyama và của Chính Phủ Trần Trọng Kim trong gần suốt thời gian chính phủ này tồn tại.  Xứ Nam Kỳ chỉ được người Nhật trao trả trong những ngày cuối của chính phủ này và chỉ chính thức trở về với lãnh thổ quốc gia Việt Nam ngót năm năm sau, vào giữa tháng 6 năm 1949, và do Bảo Đại với tư cách Quốc Trưởng tiếp nhận chứ không phải là do công lao của Chủ Tịch Hồ Chí Minh và Chính Phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà.  

Đây cũng là một sự kiện ít người biết đến hay chỉ biết một cách lơ mơ.   Một chi tiết khác cũng cần phải được chú ý ở đây là hai chữ “độc lập” đã được sử dụng tới hai lần:  “nước Nam khôi phục quyền độc lập” và “Nước Việt Nam sẽ gắng sức tự tiến triển cho xứng đáng một quốc gia độc lập”, trong một bản văn ngắn.   Sau này chính Bảo Đại đã dùng danh từ “tuyên ngôn độc lập – proclamation d’indépendance”  khi nói tới văn kiện này trong hồi ký của ông

Thứ hai: ”Nước Việt Nam sẽ gắng sức tự tiến triển cho xứng đáng một quốc gia độc lập....giúp cho cuộc thịnh vượng chung.” Câu này xác định phương thức hoạt động nhằm thực hiện tư cách độc lập (tự phát triển như một quốc gia độc lập không phụ thuộc vào nước ngoài cho xứng đáng một quốc gia độc lập) và thế đứng của Việt Nam trên trường quốc tế (tự coi mình là một phần tử Đại Đông Á, đem tài lực giúp cho cuộc thịnh vượng chung). 

Ta cũng nên để ý tới khẩu hiệu Châu Á của Người Á do người Nhật đưa ra trong thời gian này, một khẩu hiệu hàm chứa sự độc lập của các nước Á Châu lúc đó còn là thuộc địa của các đế quốc Âu Châu.  Đây cũng là một cách nói khéo léo nhằm ngăn chặn trước sự can thiệp vào nội tình Việt Nam của người Nhật, một điều cả nhà vua và Chính Phủ Trần Trọng Kim luôn luôn quan tâm phòng ngừa.

Thứ ba: “Chính phủ Việt Nam một lòng tin cậy lòng thành ở Nhật Bản đế quốc...”.”Câu này nhằm buộc chặt lời hứa của người Nhật bằng cách nhấn mạnh vào sự trung thành của người Nhật với những gì họ đã nói, với quan niệm trung thành như một truyền thống chung của các dân tộc Á Đông.

Thứ tư: “”quyết chí hợp tác với nước Nhật đem hết tài sản trong nước để cho đạt được mục đích như trên.””Mục đích như trên là mục đích gì?  Phải hiểu mục đích này bao gồm hai phần là “tự tiến triển cho xứng đáng một quốc gia độc lập”“giúp cho cuộc thịnh vương chung” như là một phần tử của khối Đại Đông Á.”

Nói cách khác, đây là một bản văn tuy ngắn ngủi, cô đọng nhưng rất quan trọng vì nó vừa mang tính cách pháp lý, có liên hệ tới nhiều văn kiện ngoại giao khác đã được  hình thành trước đó, vừa biểu lộ chủ trương của một quốc gia được trao trả độc lập trong một hoàn cảnh không nhận không được, vô cùng tế nhị và phức tạp vào lúc  tình hình thế giới biến chuyển quá nhanh và hoàn toàn bất lợi cho quân đội và quốc gia đảm nhận sự trao trả nền độc lập này.  Mỗi điều nói ra, mỗi chữ được viết đều đòi hỏi người soạn thảo phải vô cùng thận trong và ước tính kỹ càng.

Ai là tác giả của bản tuyên ngôn này?

Người được nói đến nhiều nhất là Phạm Quỳnh, lúc đó đang giữ chức thượng thư bộ lại. Điều này có nhiều phần đúng nếu người ta để ý tới khả năng nghị luận và viết văn, viết báo kèm theo sự hiểu biết và kinh nghiệm của một học giả, một người làm báo, và sau đó là một ngự tiền văn phòng tổng lý của nhà vua cũng như  thượng thư bộ lại trong nhiều năm trước đó. Nó cũng được Phạm Khắc Hòe, đương thời là ngự tiền văn phòng tổng lý của Bảo Đại, trong hồi ký của ông này xác nhận[vi]

BẢN TUYÊN NGÔN CỦA CHỦ TỊCH CHÍNH PHỦ LÂM THỜI VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA HỒ CHÍ MINH

Hoàn cảnh được công bố

Bản tuyên ngôn này đã được Hồ Chí Minh một mình soạn thảo, một mình đứng tên và đọc tại Quảng Trường Ba Đình ở Hà Nội vào buổi chiều ngày 2 tháng Chín năm 1945, ngót năm tháng sau bản tuyên ngôn của Bảo Đại, hơn hai tuần lễ sau khi Nhật Bản đầu hàng, mười ba ngày sau khi Việt Minh cướp được chính quyền ở Hà Nội và hai ngày sau khi Bảo Đại chính thức thoái vị.

Vì được công bố sau bản tuyên ngôn của Bảo Đại, sau khi người Nhật đã đầu hàng cũng như chế độ bảo hộ của người Pháp đã bị người Nhật lật đổ trước đó, bản tuyên ngôn này đã bị nhiều người cho là thừa, không cần thiết, chưa kể tới sự kiện là chính phủ mới do Hồ Chí Minh thành lập là kế vị chính phủ Nam Triều do Hoàng Đế Bảo Đại thoái vị nhường cho dựa theo chiếu thoái vị của Bảo Đại và đã được Hồ Chí Minh và chính phủ mới của ông chấp nhận.  

Chính Phủ Lâm Thời của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa trong những điều kiện này đương nhiên kế tục những gì Hoàng Đế Bảo Đại và Chính Phủ Trần Trọng Kim đã làm trước đó, trong đó có Bản Tuyên Ngôn Độc Lập ngày 11 tháng 3 năm 1945.  Lập luận như vậy là hoàn toàn hợp lý đứng trên phương diện công pháp quốc tế.  Một lập luận đơn giản và hoàn toàn dễ hiểu. 

Câu hỏi được đặt ra là Hồ Chí Minh, và những cộng sự viên của ông, khi đưa ra bản tuyên ngôn của mình có biết là trước đó Bảo Đại đã làm công việc này rồi hay không?  và biết như vậy tại sao ông lại còn làm lại việc đó một lần nữa? 

Cho câu hỏi thứ nhất, câu trả lời là chắc chắn có; Hồ Chí Minh chắn phải biết là Bảo Đại trước đó đã tuyên cáo hủy bỏ hòa ước bảo hộ 1884 rồi.  Nhưng ông vẫn làm lại công việc này vì ông có nhu cầu phải làm.  Những nhu cầu đó là những nhu cầu gì? 

Thứ nhất là vì từ lâu  toàn dân ai nấy đếu khao khát được thấy nước nhà độc lập, đúng như Bảo Đại đã viết trong hồi ký của ông, độc lập là ước mơ của mọi người dân Việt[vii], cũng như nó được phản ảnh ở khắp nước ngay trước và sau ngày 2 tháng 9 năm 1945.  Nói tới độc lập vào lúc đó là gõ đúng tần số của bất cứ một người dân Việt Nam nào từ đó đem lại công lao và thanh thế cho người chính thức công bố ra điều đó. 

Thứ hai là cho tới ngày 2 tháng 9 năm 1945, cái tên Hồ Chí Minh hoàn toàn xa lạ ở trong nước cũng như ở ngoài nước. Võ Nguyên Giáp, một trong những cộng sự viên thân cận nhất của Hồ Chí Minh trong thời gian này, đã viết trong hồi ký của ông này rằng: “Ba tiếng HỒ CHÍ MINH không bao lâu đã vang đi khắp thế giới với những truyền thuyết mà người ta thường dành cho các bậc vĩ nhân.  Nhưng vào ngày hôm ấy, cái tên mới của Bác vẫn còn mới lạ với nhiều đồng bào. Số người biết Bác chính là đồng chí Nguyễn Ái Quốc khi đó không nhiều.” [viii] 

Ngay vua Bảo Đại ngày 23 tháng 8 năm 1945, khi nhận được điện tín của của các ông Nguyễn Xiển, Nguyên Văn Huyên, Ngụy Như Kon-Tum và Hồ Hữu Tường nhân danh Ủy Ban Nhân Dân Cách mạng, yêu cầu nhà vua thoái vị nhường quyền lãnh đạo quốc gia cho Chính Phủ Nhân Dân Cách mạng với chủ tịch là “Cụ Hồ Chí Minh” đã không biết Hồ Chí Minh là ai. 

Còn Phạm Khắc Hòe, người ở bên cạnh nhà vua và được Việt Minh móc nối cũng không biết nốt, phải chạy đi hỏi Tôn Quang Phiệt, một đảng viên Cộng Sản, rồi Đào Duy Anh nhưng Tôn Quang Phiệt đi vắng và Đào Duy Anh lục  lọi, truy tìm các tài liệu, sách vở ông có nhưng cũng không ra tên này.  Cuối cùng Vũ Văn Hiền, ở Bắc về mới xác nhận Hồ Chí Minh là Nguyễn Ái Quốc.[ix]  

Tuyên bố Việt Nam độc lập đối với Hồ Chi Minh vào thời điểm này do đó là cách tự giới thiệu mình tốt nhất và hữu hiệu nhất vói toàn thể đồng bào và để được nhìn và được chấp nhận như là lãnh tụ đầu tiên đã mang lại được độc lập cho tổ quốc và cho toàn dân Việt Nam, một nhu cầu tối cần thiết, dầu rằng nền độc lập này hoàn toàn không phải do ông hay do Mặt Trận Việt Minh tạo ra mà là do những biến cố khác của lịch sử trước đó, trong đó quan trọng nhất là Đảo Chính 9 tháng Ba năm 1945, trong đó người Nhật đã loại bỏ người Pháp, kèm theo là bản Tuyên Ngôn Độc Lập của Hoàng Đế Bảo Đại nói trên, và cuối cùng là sự bại trận sau này của người Nhật. 

Chúng ta cũng cần để ý là đối với đa số người Việt Nam thời đó, ngày 2 tháng 9 là Ngày Độc Lập, đúng như Nguyễn Hữu Đang, người được Hồ Chí Minh chỉ định tổ chức ngày này,  gọi, qua các văn thư chính thức ông đã gửi cho các cơ quan liên hệ, trong đó có thư gửi cho Thị Trưởng Hà Nội[x]   và theo bìa in bản tuyên ngôn của bản đầu tiên  năm 1945, do Chủ Tịch Chính Phủ Lâm Thời Việt Nam Hồ Chí Minh đọc trong Ngày Độc Lập”.[xi]  

Nhưng đối với Hồ Chí Minh ngày 2 tháng 9 còn có một ý nghĩa quan trọng hơn nữa.  Đó là “ngày khép lại cuộc Cách mạng tháng Tám, và khai sinh nước Việt Nam Dân Chủ Cộng hòa”, theo lời ông nói với Nguyễn Hữu Đang, “Chú phải nhớ...[xii]  Tại sao vậy? 

Tại vì Hồ Chí Minh phải làm chuyện này trước khi quân Đồng Minh kéo vô Việt Nam, đặc biệt là thủ đô Hà Nội, nhằm đặt họ trước một sự đã rồi, không thể đảo ngược đươc.  Sự kiện vua Bảo Đại thoái vị được nhắc tới và câu “Toàn dân Việt Nam, trên dưới một lòng, kiên quyết chống lại âm mưu của bọn thực dân Pháp” là nhằm vào mục tiêu này.

Nội dung bản Tuyên Ngôn

Bản Tuyên Ngôn Độc lập của Hồ Chí Minh, vì được phổ biến rộng rãi và hầu như được coi là bàn tuyên ngôn duy nhất gắn liền với ngày 2 tháng 9, ngày Quốc Khánh của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa rồi Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, nên đã được nhiều người đọc, phân tích và tìm hiểu.  Trong phần này người viết chỉ nêu lên những gì ít được mọi người nhắc hay để ý đến.

Trong khi Tuyên Cáo của Bảo Đại đơn giản chỉ là một bản văn thuần túy pháp lý nhằm hủy bỏ hòa ước bảo hộ mà triều đình Huế đã ký trước đó, căn cứ vào sự bất lực của người Pháp không giữ được cam kết đã được ghi trong điều khoản thứ nhất và điều khoản thứ mười lăm của hòa ước này mà không nhằm vào một đối tượng  quần chúng hay quốc tế, thì bản Tuyên Ngôn của Hồ Chí Minh nhằm vào toàn thể người Việt qua lời mở đầu  “Hỡi đồng bào cả nước…”.

Tuy nhiên ở những đoạn cuối tác giả lại nhắm vào các nước  Đồng Minh.  Điều này phải tinh ý người ta mới nhận ra được.  Về tư cách, Bảo Đại  nhân danh Hoàng Đế Việt Nam, người đứng đầu của một quốc gia độc lập đã tồn tại từ trước khi người Pháp xâm lăng và là người kế thừa chính thống của các vua Nhà Nguyễn, thì Hồ Chí Minh đã nhân danh “Lâm Thời Chính Phủ của nước Việt Nam mới.”” Mới là vì đến ngày đó chính phủ này mới chính thức được ra mắt trước quốc dân.  Lời văn do đó phản ảnh hai tư cách của hai bản chất con người khác nhau.  Một người là hoàng đế kế thừa chính thống của một triều đại đã trị vì một quốc gia từ hơn một trăm năm trước dù cho là chỉ còn hư vị;  người kia là lãnh tụ của một phong trào cách mạng vừa chủ trương chống Pháp, vừa chủ trương chống Nhật  và lật đổ chế độ quân chủ để giành chính quyền.  Văn phong trong bản tuyên ngôn của Bảo Đại là văn phong bình thường của người cầm quyền; còn văn phong của Hồ Chí Minh mang tính cách kêu gọi và ở một mức độ nào đó có tính cách bình dân, kể lể dài dòng kể công và nhất là xách động.

Mở đầu cho bản tuyên ngôn, Hồ Chí Minh đã trích dẫn  một số câu trong phần đầu của Bản Tuyên Ngôn Độc Lập của người Mỹ và một câu trong Bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền và Dân Quyền của Cách Mạng Pháp.  Sự trích dẫn này, vào lúc mà sự hiểu biết của quần chúng Việt Nam còn thấp kém, đặc biệt là về lịch sử Hoa Kỳ và thế giới chắc chắn không nhằm vào quần chúng người Việt mà nhằm vào người Mỹ và người Pháp. 

 

Lý do là Hồ Chí Minh như là một đảng viên Cộng Sản Quốc Tế chắc chắn đă hiểu hơn ai hết là người Mỹ vào thời điểm này đã đóng một vai trò vô cùng quan trọng trong chính tình ở Á Châu, trong đó có Việt Nam. Được nguời Mỹ công nhận là coi như làm chủ được chính quyền. 

Hiểu được như vậy, ngay từ khi còn ở chiến khu Hồ Chí Minh khi tiếp xúc với người Mỹ đã yêu cầu họ cung cấp cho ông một bản Tuyên Ngôn Độc Lập của họ, đồng thời khi tiếp xúc với họ, Hồ Chí Minh cũng nhận thấy rằng nói về lịch sử nước Mỹ với họ là một cách để chinh phục cảm tình của họ. 

Cũng vậy, với những gì chứa đựng trong bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền và Dân Quyền của người Pháp.  Có điều sự trích dẫn nàychỉ nhằm mục tiêu lôi cuốn sự chú ý và cảm tình của người Mỹ mà thôi.  Hồ Chí Minh không cần đi xa hơn nữa và rất có thể ông cũng không hiểu rõ hơn hay cố tình không hiểu sự khác biệt trong quá trình giành độc lập của mười ba thuộc địa của người Mỹ vào cuối thế kỷ XVIII và của nước Việt Nam thời ông.  Vì vậy ông đã áp dụng quan điểm của người Mỹ về quyền bình đẳng, quyền được sống tự do và mưu cầu hạnh phúc của mọi - người - như-là-những-cá-nhân  vào trường hợp Việt Nam như một - quốc - gia đòi quyền độc lập một cách gượng ép hay ít ra là suy luận theo quan điểm chủ quan của mình với dụng ý riêng của mình.  Cũng vậy với những gì ông trích dẫn từ bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền và Dân Quyền của Cách Mạng Pháp.

 Phần kế tiếp, Hồ Chí Minh lên án người Pháp và người Nhật, đồng thời ông kể công cho Việt Minh: “Trước ngày mồng 9 tháng 3, đã bao lần Việt minh đã kêu gọi người Pháp liên minh để chống Nhật...”, sau đó “đã  giúp cho nhiều người Pháp chạy qua biên thùy, lại cứu nhiều người Pháp ra khỏi nhà  giam Nhật và  bảo vệ  tính mạng và  tài sản cho họ” và kết luận rằng “Sự thật là dân ta đã lấy lại nước Việt-nam từ tay Nhật, chứ không phải từ tay Pháp”.  

Điều, như người viết đã nói ở trên, là không đúng sự thật. Sự thật là Chính Phủ Bảo Đại - Trần Trọng Kim đã lấy lại được  toàn thể nước Việt Nam từ trước khi người Nhật đầu hàng kể cả lấy lại xứ Nam Kỳ và Việt Minh đã cướp chính quyền từ trong tay của chính phủ Bảo Đại -Trần Trọng Kim trong những ngày 17 và 19 tháng 8 năm 1945 sau đó.   

Lý do là vì Việt Minh “đã có đường riêng của họ rồi”, nói theo Phan Anh, Bộ Trưởng Thanh Niên trong Chính Phủ Trần Trọng Kim và sau này là Bộ Trưởng Bộ Quốc Phòng trong Chính Phủ Liên Hiệp của Hồ Chí Minh.  Trong những đoạn này Hồ Chí Minh đã dùng các từ ngữ ta hay “dân ta” hay “đất nước ta”, nhưng mục đích không nhằm vào người Việt Nam mà vào người Pháp.

Phần cuối cùng của bản văn, từ “Bởi thế cho nên...” cho đến hết, lời văn cho người ta thấy Hồ Chí Minh không hướng về người Việt mà về cả thế giới. Trong phần này ông xưng là “chúng tôi, Lâm thời Chính phủ, đại biểu cho toàn dân Việt -nam “ để tuyên bố thoát ly hẳn quan hệ với Pháp, kêu gọi các nước Đồng Minh công nhận quyền độc lập của dân Việt-nam...  Phần này Hồ Chí Minh thay vì quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc của mọi - người - như - những - cá - nhân do Tạo Hóa ban cho, những quyền phải hiểu là tự nhiên ai như là một  lá nhân đều  có, đã nói về quyền hưởng tự do và độc lập của - cả - nước - Việt - Nam.  

Điều này hoàn toàn trái với tinh thần của bản Tuyên Ngôn Độc Lập của Người Mỹ và nhất là của bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền và Dân Quyền của Cách mạng Pháp mà danh xưng của nó đã nói lên một cách rõ ràng, không thể hiểu sai được vì độc lập không phải luôn luôn đồng nghĩa với tự do, dân quyền và nhân quyền. 

Không những thế, thay vì coi những quyền này là do Tạo Hóa ban cho, Hồ Chí Minh lại lý luận là vì dân tộc Việt Nam là “Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn tám mươi năm nay, một dân tộc đã gan góc đứng về phe Đồng minh chống phát-xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc ấy phải được độc lập!”.” Lý luận như vậy người ta phải hiểu, theo Hồ Chí Minh, rằng những dân tộc không gan góc chống lại những thế lực đè nén, áp bức mình và không gan góc đứng về phe Đồng Minh, chống phát-xít là không đáng được tự do, độc lập.  Cũng vậy, với các quyền độc lập, tự do và mưu cầu hạnh phúc của con người như là những cá nhân trong xã hội. 

Chính vì vậy Trần thanh Hiệp,khi được Đài Á Châu Tự Do phỏng vấn ngày 2 tháng 9 năm 2007, đã có lý khi ông gọi bản tuyên ngôn của Hồ Chí Minh này là một bản tuyên ngôn phi nhân quyền,[xiii] dù cho là nó đã được chính tác giả của nó trích dẫn và soạn thảo theo tinh thần của bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền và Dân Quyền  của Cách mạng Pháp.  Nhưng dù nói thế này hay thế khác sự kiện này đã phản ảnh chủ trương cách mạng bạo lực của những người Cộng Sản mà Hồ Chí Minh ở đây là một trường hợp điển hình.

Người ta có thể giải thích sự thiếu rõ ràng trong bản Tuyên Ngôn Độc Lập của Hồ Chí Minh kể trên là do nó đã được soạn thảo trong một thời gian quá ngắn và trong tình trạng tác giả của nó còn phải bận rộn với nhiều vấn đề cấp bách khác.   Điều này không đúng vì trước đó từ lâu, khi tiếp xúc với một sĩ quan người Mỹ, Hồ Chí Minh đã xin một bản tuyên ngôn nhân quyền của người Mỹ rồi. Nói cách khác, Hồ Chí Minh đã nghĩ tới và đã thai nghén bản tuyên ngôn của ông từ lâu chứ không phải chỉ ít ngày trước ngày 2 tháng 9 năm 1945.  Do đó những gì ông nói tới, những từ ngữ ông dùng đều được cân nhắc kỹ càng và đều có dụng ý riêng với những mục tiêu riêng mà chỉ sau này phải phân tích kỹ, đối chiếu kỹ và có thể sau này khi mọi việc liên hệ đã xảy ra rồi, người ta mới có thể hiểu được./

Phạm Cao Dương

[1] Dương Trung Quốc. Việt Nam : Những Sự Kiện Lịch Sử (1919-1945). HàNội: Nhà Xuất Bản Giáo Dục, 202.tr. 388.

[1] Lệ Thần Trần Trọng Kim. Một Cơn Gió Bụi (Kiến Văn Lục).Saigon, Nhà Xuất Bản Vĩnh Sơn, 1969. tr. 49.

[1]   - nt - , tr. 51.

[1]  Dương Trung Quốc,  Việt Nam..., tr. 388; Nguyễn Vỹ. Tuấn, Chàng Trai Nước Việt (Chứng Tích Thời Đại Từ 1900 đến 1970, Quyển II.  Saigon, ? , 1970. Fort Smith, AR tái bản ở Hoa Kỳ, ?. tr. 512.;  S.M. Bao Dai. Le Dragon d'Annam. Paris, Plon. 1990. Cameron, Allan W. Viet-Nam Crisis, A Documentary History, Volume I: 1940-1956. Ithaca, N.Y. Cornell University Press, 1971.. tr. 31-32. Hai bản tiếng Việt in trong tác phẩm của Dương Trung Quốc và tác phẩm của Nguyễn Vỹ hơi khác nhau về ngôn từ nhưng hoàn giống nhau về nội dung. David G. Marr trong Vietnam 1945, The quest for Power (Berkeley, University of California Press, 1995, tr. 71) có nói tới các bản tiéng Việt và tiếng Pháp ở văn khố Pháp và bản đăng trên tờ Dân Báo, ngày 12 tháng Ba. Vũ Ngự Chiêu cũng nói tới tờ Tin Mới, nhưng nhất thời người viết bài này chưa đến được các nơi cần đến để tìm kiếm.

[1]  Taboulet, Georges. La Geste Francaise en Indochine,Histoire par  les textes de la France en Indochine des origines à 1914,  tome II, Paris, Adrien - Maisonneuve, 1956.  tr. 809 - 812;  Phan Khoang, Việt Nam Pháp Thuộc Sử, 1884 - 1945. Saigon,, ?
,1961. Tái bản ở Hoa Kỳ. tr. 322 - 328.

[1]  Phạm Khắc Hòe, Từ Triều Đình Huế Đến Chiến Khu Việt Bắc. Huế, Thuận Hóa, 1987, tr. 16 -.

[1]  S.M.Bảo Đại, Le Dragon d'Annam, đã dẫn, tr. 103            

[1]  Võ Nguyên Giáp, “Những Năm Tháng Không Thể Nào Quên”, trong Tổng Tập Hồi Ký. Hà Nội, Nhà Xuất Bản Quân Đội Nhân Dân, 206, tr.. 255.

[1]  Phạm Khắc Hòe, Từ Triều Dình Huế..., tr. 76.

[1]  Phùng Quán, Ba Phút Sự Thật. Thành Phố Hồ Chí Minh, Nhà Xuất Bản Văn Nghệ, 2006, tr. 114 - 115.

[1]  Hồ Chí Minh, Tuyên Ngôn Độc Lập Nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Hà Nội, Nhà Xuất Bản Sự Thật, 1976, tr.13. Nguyễn Khánh Toàn và Lữ Huy Nguyên, Tổng Tập Văn Học Việt Nam, Tập 36. Hà Nội, 1980. tr. 812 - 823.

[1]  - nt-, tr. 134.

[1]  Trần Thanh Hiệp và Trương Giang,  “Một Bản Tuyên Ngôn Phi Nhân Quyền, trên Nhật Báo Người  Việt, số 7940, ngày Thứ Hai, 3 tháng 9 năm 2007.   Dương Trung Quốc. Việt Nam : Những Sự Kiện Lịch Sử (1919-1945). HàNội: Nhà Xuất Bản Giáo Dục, 202.tr. 388.Việt, số 7940, ngày Thứ Hai, 3 tháng 9 năm 2007.

 

+++++++++++++++++++++++++++++++++

NGÀY 2/9, NHÌN LẠI LỜI HỨA CỦA ÔNG HỒ

image026

Là một người sành tâm-lý, biết những điều toàn-dân khao khát sau gần một thế-kỷ thuộc ngoại-bang, ngày 2/9 cách đây 70 năm, ông Hồ Chí Minh đọc Tuyên-ngôn Độc-lập của nước Việt-nam Dân-chủ Cộng-hòa, trong đó ông khôn khéo trích dẫn những “lời bất hủ” của Tuyên-ngôn Độc-lập Mỹ năm 1776 và Tuyên-ngôn Nhân-quyền và Dân-quyền của Cách mạng Pháp năm 1791, theo đó “tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng.  Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong những quyền ấy có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc.”  Những quyền này, sau đó, được tóm gọn thành ba quan-niệm mà cho tới ngày nay vẫn còn thấy ở tiêu-đề mọi văn-kiện chính-thức của nước Cộng-hòa xã-hội-chủ-nghĩa Việt-nam.

            Song ba điều ông hứa hẹn đó, Độc Lập, Tự Do, Hạnh Phúc, nhiều người cho rằng ngày nay, 70 năm sau, vẫn còn là ước mơ.

            Hạnh phúc ư?

            Cứ hỏi hàng triệu người dân oan mất đất, mất nhà, mất cửa mà rồi chỉ được đền bù bằng giá “bèo,” đi lê la khắp nước để tìm công-lý mà đi đến đâu “cổng nhà trời” cũng đóng kín, các “đầy tớ của dân” thì điếc đặc, càng lên cao càng điếc!

            Hãy cứ hỏi các ngư-dân Việt-nam sống bằng nghề biển mà biển của ta thì “tàu lạ” đến chiếm tới 80 phần trăm, đuổi ngay ra khỏi ngư-trường truyền-thống của cha ông, không đi thì bị đâm, bị đánh, đôi khi bị bắn, bị tịch thu, thậm chí chỉ được thả về sau khi đã trả tiền chuộc!

            Hãy cứ hỏi vì đâu mà 54 đã có một triệu người dân miền Bắc bỏ nhà, bỏ cửa, bỏ ruộng vườn, mồ mả cha ông mà di cư vào Nam!

            Hãy cứ hỏi vì đâu mà sau 75, hơn hai triệu người đã bỏ nước ra đi, “cái cột đèn mà biết đi thì nó cũng ra đi,” với gần nửa triệu người chấp nhận cái chết ở biển khơi để có được một tương-lai cho con cháu họ!

            Tự do ư?

            Tự do gì mà như ông Nguyễn Quang A, mới đi ra khỏi nước tham-gia đôi ba hội-thảo, nhận lời phỏng vấn trên một số đài mà về đã bị giữ ở phi-trường 12 tiếng đồng-hồ để tra khảo về “lý-do an-ninh quốc gia”?  An-ninh quốc gia?

            Mà bảo ông có làm gì ghê gớm cho cam!  Dự hội-thảo ở Đại-học Humboldt ở Đức, ông toàn nói sự thực, những sự thực xưa như trái đất—như Cải cách ruộng đất ở miền Bắc đã không thực-sự đem lại đất cho người cày bởi chỉ sau đó ít lâu là đất đã bị hợp-tác-hóa, hay ở Việt-nam hiện nay không có công-đoàn bảo vệ người lao-động trong khi Tổng-liên-đoàn Lao-động VN thì đứng về phía người chủ.

            Sang Mỹ, ông dựa vào những kết-quả nghiên cứu của một giáo-sư ở Úc, ông Kerkvliet, để phân chia các thành-phần dân-chủ ở trong nước ra thành bốn hạng:

            Thứ nhất là những người như Tướng Trần Độ (trước khi ông mất) và anh Trần Huỳnh Duy Thức, tin tưởng rằng tiến-trình dân-chủ-hóa của VN phải do Đảng CS thực-hiện thì mới mong thành tựu.

            Thứ hai là những người như Kỹ-sư Đỗ Nam Hải hay Luật-sư Nguyễn Văn Đài, tin rằng chỉ có thay thế chế-độ thì mới có dân-chủ.

            Thứ ba là những người như Luật-sư Cù Huy Hà Vũ sẵn sàng gia nhập chế-độ để thay đổi chế-độ (ông đã có lúc tình nguyện làm Bộ-trưởng Thông tin hay ra ứng-cử vào Quốc-hội).

            Và thứ tư là những người như các anh em thuộc các tổ-chức xã-hội dân-sự ở trong nước, cứ khẳng-định quyền làm công-dân của mình, không xin phép để tồn tại.

            Đó là lập-luận của ông trong một bàn tròn về Xã-hội Dân-sự ở Washington cũng như khi vào gặp ban biên-tập của tờ Washington Post, tờ báo quan-trọng nhất ở thủ-đô Hoa-kỳ.

            Rõ ràng là những gì ông chia xẻ, hay cứ gọi là tiết-lộ đi, cũng không có gì mới lạ để có thể nói được là đụng chạm đến “an-ninh quốc gia.”  Vậy mà thứ tự do đó, theo công-an ở Nội-bài, ông cũng không được thực-thi dù đã đặt chân ra nước ngoài, những nơi mà tự do ngôn-luận được người ta thừa nhận gần như một tôn-giáo.

            Song cũng rõ ràng không kém là khi công-an giữ một người như ông ở phi-trường 12 tiếng để tra khảo là họ, tức chế-độ, đã tỏ ra rất sợ hãi những tiếng nói của sự thật!  Không thể bảo là một chế-độ như thế là một chế-độ tự tin, vững như bàn thạch được.  Chưa kể là họ đã trắng trợn vi-phạm quyền tự do đi lại của công-dân Nguyễn Quang A.  Chưa kể là họ còn dối trá khi nói là hộ-chiếu (thông-hành) của ông đã hết hạn trong khi thực ra nó còn tới 5 năm nữa mới hết hạn.

            Khi một nhà trí-thức có uy-tín quốc-tế như ông Nguyễn Quang A mà còn bị đối-xử như vậy thì thử hỏi, người dân thấp cổ bé họng thì có được những tự do nào?

            Chính vì thế mà một nhà trí-thức khác, nhà thơ Bùi Minh Quốc, đã nói là hơn bao giờ hết ta cần phải nâng dân-trí, theo như chí-sĩ Phan Chu Trinh đã chủ-trương từ ngót một thế-kỷ, để cho người dân trở nên những người công-dân văn-minh và hiện-đại, có nghĩa là họ ý-thức những quyền họ có và họ phải có can đảm và đởm lược để thực-thi những quyền đó, không khiếp sợ trước cường-quyền!

            Loại công-dân văn-minh và hiện-đại đó, nghĩa là những công-dân hết biết sợ vì hiểu rõ đâu là quyền công-dân của mình, càng ngày chúng ta thấy càng đông trong giới trẻ ở Việt-nam.  Đó là những người, nhất là phụ nữ, như Huỳnh Thục Vy, Đỗ Thị Minh Hạnh, Trịnh Kim Tiến, Phạm Thanh Nghiên, Nguyễn Phương Uyên v.v.

            Như vậy nên, dù Đảng CSVN đã không thực-hiện được bao nhiêu lời hứa của ông Hồ, chúng ta vẫn có quyền lạc-quan về tương-lai đất nước!

Tâm Việt

++++++++++++++++++++++++++++++++

VIỆT NAM MƯỜI NĂM SAU LỜI KÊU GỌI “ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC” CỦA CỐ THỦ TƯỚNG VÕ VĂN KIỆT

image028                                                 

Đào Như

Cách đây đúng 10 năm, ngày 29 tháng 8-2005, ông Võ Văn Kiệt, cố Thủ Tướng Chính Phủ Việt Nam (1991-1997) đã lên tiếng kêu gọi đoàn kết dân tộc. Theo ông đòan kết dân tộc là đoàn kết từ già đến trẻ, từ trên đến dưới, từ Bắc chí Nam, từ Quốc gia đến Cộng sản, và từ trong nước đến hải ngoại. Những lời kêu gọi của  ông có hàm ý đánh giá lại lịch sừ của một thời đại. Thời đại 30 năm sau khi thống nhất đất nước. Những lời kêu gọi của ông vào lúc ấy đều được báo chí trong nước và quốc tế đăng tải và phân tích. Phần nhiều những nhà tường thuật và phân tích đều dành cho ông chân tình và thiện cảm, ngay cả những báo chí ở trong nước như tờ Tuổi Trẻ và nhật báo Nhân Dân, mặc dầu những điều phát biểu của ông đều nhầm mục đích chống lại hàng ngũ tả khuynh trong đảng Cộng sản Việt Nam hiện tại.

 

      Cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt, trong quá trình kêu gọi Đoàn kết dân tộc, ông viết: “Đại đoàn kết dân tộc, cội nguồn của sức mạnh chúng ta…Đất nước Việt Nam, giang sơn Việt Nam không phải là của riêng ai, của một giai cấp hay đảng phái nào, mà là tài sản chung của mọi người Việt Nam, của cả dân tộc Việt Nam…Tư tưởng‘thành phần chủ nghĩa’ đã dẫn tới hai kết quả: làm mất đi nhiều tài năng của một bộ phận đáng kể trong dân tộc, đồng thời đưa một cách gượng ép những nhân tố tuy có bản chất về chính trị nhưng lại không đủ chất lượng trong quản lý và xây dựng...Rất tiếc là ý thức đoàn kết dân tộc lại một lần nữa bị phần nào xao nhãng bởi bịnh chủ quan và say sưa vì chiến thắng, bởi những cái nhìn hẹp hòi, biệt phái bởi chuyện phân biệt thắng thua, bởi kỳ thị ta-ngụy…Hầu hết, sỉ quan, quân đội, viên chức trong chính quyền cũ cũng đều mong muốn được sống trong hòa bình, hòa hợp…Một đội ngũ đông đảo công thương gia và trí thức miền nam có những khả năng kinh nghiệm trên nhiều lãnh vực khác nhau, là một vốn quí, có thể dóng góp vào việc xây dựng một nước Việt nam hòa bình, giàu mạnh..Nhưng vì kinh tế khó khăn đời sống bế tắc, cộng với phương thức quản lý xã hội quá cứng nhắc và tinh trạng kỳ thị thành phần đã làm cho một số người yêu nước, muốn đóng góp cho đất nứơc cũng đành dứt áo ra đi!...Trong thế giới ngày nay nguồn lực hàng đầu là trí thức. Nói như vậy không có nghĩa là đề cao những con người trí thức cụ thể, mà nói đến một điều kiện không thề thiếu cho sư phát triển. Trong cuộc đua tranh phát triển, không thể chỉ dựa vào nhiệt tình và ý chí mà còn phải dựa vào kiến thức học vấn sự nhận thức về các qui luật của thiên nhiên và của xã hội…”

 

      Những lời kêu gọi của ông có sức mạnh khơi dậy lòng yêu nước của mọi thế hệ, của mọi tầng lớp nhân dân, Cộng sản và Quốc gia. Nhất là các thế hệ trè ở trong nước cũng như ở hải ngoại:

 - Tiến si Sử học Hãn Nguyên Nguyễn Nhã, phát biểu trên tờ báo Tuổi Trẻ ngày 30/8/05: “Đọc lại bài viết của Nguyên Thủ Tướng Võ Văn Kiệt tôi mong ước con cháu của những người Cộng sản cũng như con cháu của những người chống cộng sản mãi mãi không còn coi nhau là kẻ thù nữa. Mọi người Việt Nam có chung một kẻ thù: đó là sự nghèo nàn, lạc hậu của đất nước!”.

 - Hoài Lan, Bắc ninh, điện thư cho BBC London:“Trong thời Ông Kiệt làm Thủ Tướng, nền kinh tế chuyển đổi mạnh, từ tập trung bao cấp sang cơ chế thị trường. Nhân dân được hưởng tự do làm ăn hơn. Kinh tế vì thế được cải thiện phần nào. Ông cũng là người đẩy mạnh quan hệ đối ngoại theo hướng đa dạng hóa, đa phương hóa, làm cho Việt Nam thêm bạn bớt thù. Hiên nay trong đảng cộng sản cũng có nhiều người cùng quan điểm với ông. Tôi hy vọng ông không chỉ ‘Nói hay’ mà phải ‘Làm hay’ nữa. như ông đã từng làm khi còn đương nhiệm. Xin ông một lần nữa chiến đấu vì tương lai của dân tộc. Để một ngày nào đó khi ra nước ngoài, chúng ta có thể ngẫng cao đầu, không phải xấu hổ cuối gầm mặt xuống và nói “I come from Viet Nam”.

 - Thành Hoàn, từ Kansas City, thư diện cho BBC London: “Tư Tưởng của Ngài Cựu Thủ tường cũng chưa muộn. Vậy Ngài hãy thực hiên ngay bây giờ, làm cách mạng một lần nữa tôi tin chắc nhân dân Việt nam sẽ nhớ ơn Ngài mãi mãi”.

     Quả thật, không ai có thể nghi ngờ được cái chất trong sáng và tính tích cực của lời kêu gọi của ông. Xuyên suốt những phần lý luận của ông, ông nêu ra những lỗi lầm của chính quyền cộng sản trong việc say mê chiến thắng, kỳ thị, đấu tranh giai cấp, phân chia thắng bại, ta-ngụy, xem thường trí thức chuyên môn và kỹ thuật v.v…Thật sự ông nói thật nhiều, nhưng chung qui cái sai lầm của trong vòng 30 năm qua, ông đã rõ biết và nắm chắc nó, nhưng ông không dám gọi đích danh nó, tố cáo nó. Ông khiếp sợ nó mặc dầu nó chỉ là một cụm từ: “Chuyên Chính Vô Sản”. Vâng, Chuyên Chính Vô Sản-CCVS- đáng khiếp sợ thật!

    CCVS đã giết hại bao nhiêu triệu con người ưu tú của nhân loại. Nó là cốt tủy cột sống của chủ nghĩa Cộng sản. CCVS được đẻ ra từ họng súng, từ Đấu Tranh Giai Cấp. Staline và Mao sử dụng nó để thủ tiêu, truy diệt những ai dám chống lại đường lối lãnh đạo chuyên chính của họ. Nó đã đóng góp lớn lao trong việc xây dựng thiết lập chủ nghĩa và chính quyền cộng sản trên khắp thế giới. Và cũng chính nó cũng đã hủy diệt chế độ cộng sản. Vì thống trị đất nước bằng chuyên chính vô sản, nền kinh tế các quốc gia Xã Hội Chủ Nghĩa sa sút, và tụt hậu; kỹ thuật sản xuất nghèo nàn, trí thức bị khinh thường, phân phối lao động không hợp lý, đưa đến nghèo đói thảm hại và những tệ nạn khác của xã hội: mãi dâm, tham nhũng… Sống trong Xã hội Xã Hội Chủ Nghĩa, người dân lúc nào cũng bị vây hãm bởi bạo lực Đấu Tranh Giai Cấp, thiếu thốn mọi thứ, Tự Do, Dân Chủ bị cưỡng đoạt, một xã hội khép kín, làm cho người ta run sợ lẫn tránh. Cuối cùng, thành trì kiên cố nhất của vô sản, Mạc tư Khoa, hoàn toàn sụp đổ năm 1990.

     Đối với tổ quốc ta, CCVS đã gây ra biết bao nhiêu tội ác. Nhất là trong 40 năm trở lại đây. Sau ngày Thống Nhất Đất Nước, vì những yếu tố tả khuynh cực đoan trong tư tưởng của người Cộng sản Việt Nam trong hàng ngũ Cách mạng, khiến họ mù quáng quên đi tình nghĩa dân tộc, gây thêm hận thù, chồng chất thêm uất hận. Họ không cần tập hợp những lực lương xã hội rộng lớn khác. Họ xem thường giới trí thức. Họ đề cao giai cấp đấu tranh, thủ tiêu và giết hại những người yêu nước cả Bằc lẫn Nam, nhất là tại miền Nam. Nhà tù và trại tập trung được mọc lên khắp nơi trong nước, từ trên núi cao đến đồng bằng, từ thôn quê đến thành phố. Họ là Mao, là Stalin, là Pol Pot, xem thường và nếu cần  họ thẳng tay triêt hạ những người trí thức tiến bộ, yêu nước, không phục tùng CCVS. Người Cộng sản Việt Nam tả khuynh cực đoan đã sai lầm khi họ đặt sức mạnh của đội ngũ trí tuệ dưới sức mạnh của đội ngũ cơ bắp. Họ mù quáng, không nhận  biết, chính những tiến bộ về kỹ thuật mới thay đổi bộ mặt của xã hội chứ không phải đấu tranh giai cấp.

       

        Sự thất bại trong 40 năm qua, chủ yếu không phải chỉ nằm ở chỗ Cách mạng vấp phải những sai trái nghiệm trong trong lúc tiếp cận với nguồn năng lực kinh tế dồi giàu, với khối trí thức rộng lớn và khối chuyên gia giàu kinh nghiệm của miền Nam, mà còn một nguyên nhân khác nữa dẫn đến sự thất bại đó là sự hy sinh cuộc sống của dân  tộc cả nước, hy sinh lợi ích vật chất và tinh thần của con người, của đời sống gia đình và cá nhân, tất cả nhân danh tập thể, bất chấp lợi ích từng người. Trong khi đó nhiều vị lãnh đạo, trong hàng ngũ lãnh đạo ĐCSVN vơ vét tài sản miền Nam, tham nhũng hàng triệu triệu đô la Mỹ. Đã thế họ còn tố cáo lẫn nhau, công khai giành giật. Tất cả chỉ vì đói, nghèo nàn và lạc hậu, họ đâm ra bảo thủ, ích kỷ, phản bội lại lịch sử, bám chặc lấy Chuyên Chính Vô Sản.

       Trong thời chiến chính quyền cộng sản tại miền Bắc nắm lấy cái thắt lưng của người lính mà sống. Sang thời bình họ xoay lưng lại, phản bội lại người lính ra mặt. Điểu tận cung tàn, sau chiến tranh người lính bị ném vào bóng tối của lịch sử một cách thô bạo: chế độ nghèo nàn, sức khỏe không được châm bón, tận tình điều trị. Phần nhiều là họ bi sốt rét rừng, bị lao, bị nghiện rượu và thuốc lá và trầm cảm nặng. Không nơi nương tựa, những anh em phục viên bộ đội, ăn đường ngũ bụi, từ miền Bắc đi vào Nam, đi vào Sàigòn, xin du khách, ngoại kiều, ăn mày từng đồng, từng xu, gửi về nuôi vợ nuôi con.  Những người cựu chiến binh này suy nghĩ như thế nào, khi họ hồi tưởng lại có một thời họ đã đi “B” vì Tổ quốc, vì Thống nhất đất nước! Hôm nay họ cũng đi “B” để để thực hiện một cuôc sống của ăn mày! Một Trung tá quân đội nhân dân, sau 75, giải thể, trở thành một ‘đầu nậu’ bán số đề để kiếm sống giữa Thủ Đô Hà nội. Máu và nước mắt đã rỏ xuống đầu ngọn bút của các nhà văn nhà thơ yêu nước: Phùng Khắc Bắc với bài thơ Ngày Hòa Bình Đầu Tiên, Lê Lựu trong Thời Xa Vắng, Bảo Ninh trong Nỗi Buồn Chiến Tranh, Chu Lai trong Vòng Tròn Bội Bạc, Ăn Mày Dĩ Vãng, Hồ Tĩnh Tâm trong Ông Tám Đờn Cò,.. và các nhà văn khác nữa, khi họ miêu tả mặc cảm đớn đau của người lính, sau 75, bị Nhà Nước Chuyên Chính Vô Sản phản bội.

      Đó là chưa kể, sau 75, hàng triệu chiến sĩ của Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa và công nhân viên chức miền Nam bị tù đày, bị hành hạ và vùi dập trong các nhà tù, trong các trại học tập cải tạo.

     Khi viết tới đây, tôi nhớ Đặng Tiểu Bình, năm 1951, trên máy bay từ Trùng Khánh về Bắc kinh để nhậm chức Quân Ủy Trung Ương, trăn trở lớn nhất của họ Đặng là “90 vạn,60 triệu và 600 ngàn”. Đó là nhiệm vụ trả lại cuộc sống làm ăn lương thiện cho 90 vạn quân của Tưởng bỏ lại, 90 vạn đồng bào anh em, mới hôm qua ở hai chiến hào, hôm nay cùng chung một chiến trận cố tâm đánh thắng ‘nhất cùng nhì bạch’ Đó cũng là xây dựng lại cuộc sống cộng hòa nhân dân cho 60 triệu người.Và đó cũng là nhiệm vụ làm sao biến đổi quân chiến đấư 600 ngàn người lính thành một đội quân công tác vận động quần chúng..”(Lý Kiện/Đặng Tiểu Bình 3 Lần Vào Ra Trung Nam Hải)  Thú thật, là người Việt yêu nước không ai ưa gì họ Đặng, một tên Tàu cộng gian ác đã từng xách nhiễu và đánh phá biên giới tổ quốc ta vào tháng 2/79. Nhưng trên quan điểm nhận thức về đạo lý làm người với tình dân tộc, thì họ Đặng quả là con người mà tất cả chúng ta phải học hỏi và noi theo! Song, chúng ta thử tự hỏi: tại sao Trung quốc có được một Đặng Tiểu Bình mà Việt Nam ta lại không? Có nhiều câu hỏi chúng ta phải nói rằng chúng ta lấy làm hổ thẹn khi không tìm ra được câu trả lời hợp lý!

 

     Lúc sinh thời, khi nói về Chủ tịch Hồ Chí Minh, Tổng Thống Ngô Đình Diệm gọi là “Cụ Hồ”.

Khi Tổng Thống Ngô Đình Diệm bị sát hại trong cuộc đão chánh 1963, một nhóm phóng viên quốc tế hỏi Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Ông nghĩ gì kẻ thù của Ông đã bị giết chết ?”. Cụ Hồ trả lời: “Ông Ngô Đình Diệm là một người yêu nước. Nhưng, ông ta yêu nước theo cách của ông ta...”. Tại sao, sau 75, Cách mạng không suy nghĩ như “Cụ Hồ”, “Cụ Ngô” suy nghĩ ? Cách mạng đánh mất cơ hội. Cách mạng không theo chân lịch sử.

       Hôm nay sau 10 năm, chúng ta đọc lại bài: “ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC- CỘI NGUỒN CỦA SỨC MẠNH CHÚNG TA”, của cựu Thủ Tướng Võ văn Kiệt, chúng ta vô cùng xúc động trước những lời tự thú cao cả, can đảm, thẳng thắng và anh dũng!  Được biết cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt đã qua đời hôm 11tháng 6-2008 tại bịnh viện ở Singapore, Người đã để lại cho chúng ta một di sản rất quí báu nhắn nhủ chúng ta: Đại đoàn Kết Dân Tộc-Cội Nguồn của Sức Mạnh Của Chúng Ta…

 

       Trong hiện tại, tất cả mọi người dân Việt đều suy nghĩ về 40 nãm qua. Không ai bằng lòng với khoảng thời gian đã mất. Ai cũng hối tiếc vì thời gian quá nhanh, chúng ta chưa làm được những gì có thể gọi là những bước đột phá trong xây dựng đất nước và con người. Nhưng chúng ta cũng có rất nhiều hy vọng: tuổi trẻ hôm nay đã và đang lên đường, cùng góp sức với cha ông. Khối lượng khổng lồ trí thức trẻ trong nước và khối chuyên gia rộng lớn trên mọi ngành nghề đang sống lưu vong ở hải ngoại, đang lớn lên từng ngày, từng giờ, đang chờ đợi chánh phủ trong nước hãy biến những lời tự thú thành thực tế, có những hành động quả cảm hơn để hóa giải với những sai trái trong quá khứ, từ bỏ Chuyên Chính Vô Sản và nhìn nhận quyền tư hữu của con người. 
Hãy tạo cơ hội đồng đều cho mọi công dân của tổ quốc, trong nước hay lưu vong tại hải ngoại, để họ có thể cống hiến năng suất trí tuệ cũng như lao động để dựng xây một Việt Nam tiến bộ, văn minh, tư do, dân chủ, công bình và bác ái.

      Chúng ta muốn nói, trước thềm Đại Hội XII của ĐCSVN vào quí 1/2016, không ai có quyền chần chừ, 90 triệu đồng bào ta phải lên tiếng và hành động, trước khi 40 năm nữa sẽ qua rất nhanh!./. 

Oak Park, Illinois, USA

 25/8/2015 Đào Như