Lãnh đạo Việt Nam đang theo đạo gì?

03 Tháng Ba 201511:15 CH(Xem: 24056)
"NHẬT BÁO VĂN HÓA - CALIFORNIA" THỨ TƯ 04 MAR 2015
Lãnh đạo Việt Nam đang theo đạo gì?

Nguyễn Anh Tuấn Bài cho trang Forum của BBC Tiếng Việt  blank
Ngày 28/10 năm 2014, trong chuyến công du Ấn Độ, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã viếng thăm Bồ Đề Đạo Tràng. Hình ảnh người đứng đầu Chính phủ ngồi xếp bằng, tay đeo tràng hạt, cung kính chắp tay lạy Phật như một Phật tử thuần thành xuất hiện khắp trên các tờ báo lớn của Việt Nam.

Tuy nhiên, chưa thấy ai đặt vấn đề liệu hành vi trên của ông có mâu thuẫn với việc ông phủ nhận có theo bất kỳ tôn giáo nào trong các bản khai lý lịch của mình.

Cũng vậy, công luận Việt Nam lúc ấy cũng vắng bóng những cuộc tranh cãi về tính hợp lý của những hành vi tôn giáo nơi công cộng của các lãnh đạo quốc gia, điều đôi khi sẽ bị coi là thất sách về chính trị (politically incorrect) ở những nước coi trọng tính thế tục.

Trong một diễn biến khác, ngày 9/11 năm 2014, Ủy ban An toàn Giao thông Quốc gia, một cơ quan trực thuộc Chính phủ, phối hợp với Giáo hội Phật giáo Việt Nam tổ chức đại lễ cầu siêu cho tất cả nạn nhân tai nạn giao thông trong cả nước. Tham dự đại lễ này với tư cách Phó Chủ tịch Ủy ban ATGT QG, Bộ trưởng Đinh La Thăng phát biểu:

“Với sự gia hộ của mười phương chư Phật, cùng công đức trì niệm của hàng trăm tăng ni, tín đồ Phật tử và gia đình thân quyến tại trai đàn cầu siêu sẽ giúp cho hương linh những người không may bị tử nạn do tai nạn giao thông siêu đăng Phật quốc. Cũng nhờ đạo hạnh của chư Phật, chư tăng ni gia trì cho gia đình các nạn nhân đủ niềm tin, nghị lực nén những đau thương mất mát, sớm vượt qua những khó khăn trước mắt để tiếp tục xây dựng cuộc sống và xã hội ngày thêm an lành, tốt đẹp”. [2]

Thật khó để phân biệt giữa phát biểu của một viên chức chính phủ với một chức sắc tôn giáo trong trường hợp này.

Tuy vậy, cũng như trường hợp Thủ tướng, thời điểm đó công luận Việt Nam không xuất hiện một cuộc tranh luận đáng kể nào về giới hạn can dự của cơ quan hành chính vào các sinh hoạt tôn giáo cũng như vấn đề tính chất trung lập về tôn giáo trong các phát ngôn của viên chức đại diện chính phủ.

Dường như, tính thế tục trong phát ngôn và hành động của chính khách vẫn chưa hoặc không phải là một chủ đề được quan tâm trong dư luận Việt Nam, mặc dù, ở cấp độ hành chính, đã có quy định cấm thờ cúng và thực hành nghi lễ tôn giáo trong cơ quan nhà nước; và, ở cấp độ tư tưởng, nhà nước Việt Nam đã nhiều lần khẳng định trong Hiến pháp rằng họ chọn chủ nghĩa Marx-Lenin, một học thuyết duy vật, làm nền tảng tư tưởng cho mọi hoạt động của nhà nước và xã hội.

Ngược dòng lịch sử

“Đại Sán, tu sĩ Phật giáo người Trung Hoa được nói đến ở các chương trước, vào năm 1695, đã quan sát thấy cung điện của Nguyễn Phúc Chu được trang hoàng với cờ Phật giáo, trướng, cá gỗ và những quả chuông lộn ngược, giống như một ngôi chùa Phật giáo vậy”

Li Tana trong tác phẩm Xứ Đàng Trong đã trích thuật những mô tả của nhà sư Đại Sán để cho thấy trong quá trình lập quốc ở Đàng Trong, các chúa Nguyễn đã chọn Phật giáo Đại thừa làm tôn giáo nhà nước (state religion) để khẳng định và củng cố tính chính danh thế quyền của họ bằng một kiểu cách mà O.W. Wolters chỉ ra, ở Đông Nam Á, “địa vị vua có tính cách duy nhất chỉ bởi vì đó là một địa vị có tính cách tôn giáo”.

Đây là một hiện tượng thú vị, song các chúa Nguyễn ở Đàng Trong không phải là thế lực chính trị đầu tiên hoặc duy nhất trong lịch sử Việt Nam xác lập Phật giáo làm tôn giáo nhà nước nhằm củng cố tính chính danh vương quyền.

Các triều đại Lý – Trần cũng thể hiện xu hướng này đậm nét, với đặc trưng là sự phổ biến của hiện tượng các nhà sư tham chính, nắm giữ các vị trí cao cấp trong triều đình (chẳng hạn, các Quốc sư cho vua Lý đa phần là các bậc tăng sư), cũng như hiện tượng xuất gia của các vị vua khi đang ở đỉnh cao quyền lực, đặc biệt có những vị như Phật Hoàng Trần Nhân Tông còn là tổ của một tông phái thiền.

Tuy vậy, lịch sử Việt Nam cũng ghi nhận những trào lưu phê phán mô hình nhà nước Phật giáo, đặc biệt là trong các giai đoạn thắng thế của Nho gia khi nó được các lực lượng nắm quyền lựa chọn làm hệ tư tưởng thống nhất của quốc gia.

Lê Thánh Tông (1442-1497) trong một bài văn sách thi Đình đã đưa ra nhận định không mấy tốt đẹp về các tôn giáo thịnh hành bấy giờ – một biểu hiện cho thấy sức ảnh hưởng của Phật giáo như là một quốc giáo khuynh loát đời sống chính trị quốc gia đã không còn nữa dưới thời Hậu Lê:

“Giáo lý của đạo Phật, đạo Lão hết thẩy đều mê đời, lừa dân, che lấp nhân nghĩa, cái hại của nó không thể kể hết, mà lòng người lại rất tin, mê”.

Từ những nhận định đó, Lê Thánh Tông đã lệnh cho các phủ, lộ không xây thêm chùa, quán mới. Bên cạnh đó, thời Hồng Đức cũng chứng kiến sự biến mất của giới tăng quan, mà thay vào đó khoa cử đóng vai trò chủ chốt trong việc tuyển lựa người tài ra làm quan.

Có quan điểm cho rằng những biểu hiện này phản ánh quá trình thế tục hóa ở chỗ các tôn giáo đã mất hoặc giảm dần thẩm quyền của nó (thông qua giáo hội và chức sắc) đối với hoạt động quản trị quốc gia, và phần nào đó, đối với xã hội.

Lịch sử Việt Nam từng có lúc 'phế Phật lập Nho'

Tuy vậy, một số khác lại cho rằng hiện tượng “phế Phật, lập Nho” của triều Hậu Lê, hoặc sau này là triều Minh Mạng, chưa thể được coi là biểu hiện của quá trình thế tục hóa, mà đơn thuần chỉ là việc thay đổi tôn giáo được chọn làm quốc giáo. Sự khác biệt quan điểm này liên đới trực tiếp với những tranh luận rằng Nho giáo có nên được coi là một tôn giáo hay đơn thuần chỉ là một hệ thống triết lý và đạo đức về đối nhân xử thế và trị nước.

Thế tục hóa là hiện đại hóa

Giữa thế kỷ 19, trong khi ở Việt Nam, Minh Mạng và sau đó là Thiệu Trị đang mải mê thi hành những chính sách hà khắc về tôn giáo như cấm đạo, sát đạo để bảo vệ giềng mối Nho gia thì ở nước Anh, nhà văn George Jacob Holyoake (1846) đã lần đầu tiên sử dụng thuật ngữ chủ nghĩa thế tục (secularism) như “là một kiểu quan điểm chỉ quan tâm tới những vấn đề có thể được kiểm tra bằng kinh nghiệm trong cuộc đời này”.

Có nguồn gốc từ sự nổi lên của Cách mạng Khoa học và Kỷ nguyên Khai minh và đi liền là sự suy thoái về tầm ảnh hưởng của tôn giáo nói chung và Giáo hội La Mã nói riêng ở châu Âu, tiến trình thế tục hóa (secularization) đã diễn ra sâu rộng trên khắp các mặt của đời sống chính trị xã hội và trở thành một biểu hiện đặc sắc của tiến trình lý tính hóa (rationalization) và hiện đại hóa (modernization), làm thay đổi bộ mặt Tây phương thời bấy giờ.

Hai nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa thế tục là phân tách nhà nước khỏi các tổ chức tôn giáo; và tất cả người dân với bất kể tôn giáo nào (kể cả không tôn giáo) đều bình đẳng trước pháp luật. Đây cũng chính là những đặc điểm của văn hóa chính trị hiện đại ở các nước Tây phương mà dựa trên đó, tự do tôn giáo, tinh thần đa nguyên và khoan dung được bắt rễ.

Không chỉ ở cấp độ văn hóa chính trị, tính thế tục còn được khẳng định ở trong các văn bản pháp lý ở các nền dân chủ. Nếu như Tu chính án thứ Nhất là lời tuyên xưng cho tính chất thế tục của Hiến pháp Hoa Kỳ (và được củng cố qua nhiều án lệ trong đó Tối cao Pháp viện viện dẫn Tu chính án này) thì ở Pháp, tính chất này được ghi nhận trong một loạt các văn kiện quan trọng từ Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền, Luật 1905 về Phân chia Giáo hội và Nhà nước, rồi sau đó là Hiến pháp 1958.

Tu chính án thứ Nhất, Hiến pháp Hoa Kỳ:

Hiến pháp Hoa Kỳ nhấn mạnh tính thế tục của thể chế nhà nước

Quốc hội sẽ không ban hành một đạo luật nào nhằm thiết lập tôn giáo hoặc ngăn cấm tự do tín ngưỡng, tự do ngôn luận, báo chí và quyền của dân chúng được hội họp và kiến nghị Chính phủ sửa chữa những điều gây bất bình.

Như vậy, để trở thành những nhà nước thế tục (secular state) như hiện nay các quốc gia Tây phương đã đi một chặng đường dài cả ở cấp độ lý thuyết lẫn thực hành mà kèm với nó là không ít những biến động lịch sử.

Nhưng bù lại, chủ nghĩa thế tục, một khi đã bắt rễ và cấu thành một phần của văn hóa chính trị, sẽ giúp tạo ra một khuôn khổ pháp lý và tập quán xã hội tôn trọng tự do tôn giáo, tự do biểu đạt, tinh thần đa nguyên và bình đẳng, từ đó củng cố nền móng cho các nền dân chủ tự do, nhất là trong bối cảnh đa tôn giáo, đa văn hóa như hiện nay.

Từ góc độ đó mới thấy, thiếu vắng những cuộc tranh luận về tính thế tục trong đời sống chính trị xã hội ở một nước đa tôn giáo như Việt Nam, có khi lại không phải một điều gì đáng mừng.

Bài của Nguyễn Anh Tuấn có tựa đề 'Chuỗi tràng hạt của Thủ tướng và nguyên lý nhà nước thế tục' đã đăng trên trang Luatkhoa.org. thể hiện quan điểm riêng của tác giả.

BBC 04/03/2015

XEM THÊM:

Chuỗi tràng hạt của Thủ tướng và nguyên lý nhà nước thế tục

04/02/2015 • by Nguyễn Anh Tuấn / Vấn đề Pháp lý
blank
Nguyễn Anh Tuấn – Vụ thảm sát tòa soạn báo Charlie Hebdo ở Paris, Pháp nhắc nhở cả thế giới về mối quan hệ giữa nhà nước và tôn giáo, cũng như cách thức mà một nhà nước hiện đại cần phải ứng xử trước các vấn đề tôn giáo. Chủ nghĩa thế tục là cụm từ được nhắc đến như một trong những nguyên lý cơ bản của các nhà nước hiện đại, đồng thời được dùng để lý giải cách thức mà chính phủ cũng như các cơ quan tư pháp của Pháp phản ứng trước sự kiện Charlie Hebdo.

Luật Khoa tạp chí trân trọng giới thiệu bài viết của tác giả Nguyễn Anh Tuấn về nguyên lý thế tục, trước khi bắt đầu đăng tải chuyên đề dài kỳ về vụ việc Charlie Hebdo từ ngày mai, 5/2/2014.

***

Hai nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa thế tục là phân tách nhà nước khỏi các tổ chức tôn giáo; và tất cả người dân với bất kể tôn giáo nào (kể cả không tôn giáo) đều bình đẳng trước pháp luật.

Thế tục bị lãng quên

Ngày 28 tháng 10 năm 2014, trong chuyến công du Ấn Độ, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã viếng thăm Bồ Đề Đạo Tràng [1]. Hình ảnh người đứng đầu Chính phủ ngồi xếp bằng, tay đeo tràng hạt, cung kính chắp tay lạy Phật như một Phật tử thuần thành xuất hiện khắp trên các tờ báo lớn của Việt Nam. Tuy nhiên, chưa thấy ai đặt vấn đề liệu hành vi trên của ông có mâu thuẫn với việc ông phủ nhận có theo bất kỳ tôn giáo nào trong các bản khai lý lịch của mình. Cũng vậy, công luận Việt Nam lúc ấy cũng vắng bóng những cuộc tranh cãi về tính hợp lý của những hành vi tôn giáo nơi công cộng của các lãnh đạo quốc gia, điều đôi khi sẽ bị coi là thất sách về chính trị (politically incorrect) ở những nước coi trọng tính thế tục.
blank
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tham dự nghi lễ tôn giáo tại đền Mahabodhi ở Bồ Đề Đạo Tràng của Ấn Độ ngày 27 tháng 10, năm 2014 trước khi đến New-Delhi. Ảnh: AFP/RFA

Trong một diễn biến khác, ngày 9 tháng 11 năm 2014, Ủy ban An toàn Giao thông Quốc gia, một cơ quan trực thuộc Chính phủ, phối hợp với Giáo hội Phật giáo Việt Nam tổ chức đại lễ cầu siêu cho tất cả nạn nhân tai nạn giao thông trong cả nước. Tham dự đại lễ này với tư cách Phó Chủ tịch Ủy ban ATGT QG, Bộ trưởng Đinh La Thăng phát biểu:

“Với sự gia hộ của mười phương chư Phật, cùng công đức trì niệm của hàng trăm tăng ni, tín đồ Phật tử và gia đình thân quyến tại trai đàn cầu siêu sẽ giúp cho hương linh những người không may bị tử nạn do tai nạn giao thông siêu đăng Phật quốc. Cũng nhờ đạo hạnh của chư Phật, chư tăng ni gia trì cho gia đình các nạn nhân đủ niềm tin, nghị lực nén những đau thương mất mát, sớm vượt qua những khó khăn trước mắt để tiếp tục xây dựng cuộc sống và xã hội ngày thêm an lành, tốt đẹp”. [2]

Thật khó để phân biệt giữa phát biểu của một viên chức chính phủ với một chức sắc tôn giáo trong trường hợp này. Tuy vậy, cũng như trường hợp Thủ tướng, thời điểm đó công luận Việt Nam không xuất hiện một cuộc tranh luận đáng kể nào về giới hạn can dự của cơ quan hành chính vào các sinh hoạt tôn giáo cũng như vấn đề tính chất trung lập về tôn giáo trong các phát ngôn của viên chức đại diện chính phủ.

Dường như, tính thế tục trong phát ngôn và hành động của chính khách vẫn chưa hoặc không phải là một chủ đề được quan tâm trong dư luận Việt Nam, mặc dù, ở cấp độ hành chính, đã có quy định cấm thờ cúng và thực hành nghi lễ tôn giáo trong cơ quan nhà nước; và, ở cấp độ tư tưởng, nhà nước Việt Nam đã nhiều lần khẳng định trong Hiến pháp rằng họ chọn chủ nghĩa Marx-Lenin, một học thuyết duy vật, làm nền tảng tư tưởng cho mọi hoạt động của nhà nước và xã hội.

Ngược dòng lịch sử

“Đại Sán, tu sĩ Phật giáo người Trung Hoa được nói đến ở các chương trước, vào năm 1695, đã quan sát thấy cung điện của Nguyễn Phúc Chu được trang hoàng với cờ Phật giáo, trướng, cá gỗ và những quả chuông lộn ngược, giống như một ngôi chùa Phật giáo vậy” [3]. Li Tana trong tác phẩm Xứ Đàng Trong đã trích thuật những mô tả của nhà sư Đại Sán để cho thấy trong quá trình lập quốc ở Đàng Trong, các chúa Nguyễn đã chọn Phật giáo Đại thừa làm tôn giáo nhà nước (state religion) để khẳng định và củng cố tính chính danh thế quyền của họ bằng một kiểu cách mà O.W. Wolters chỉ ra, ở Đông Nam Á, “địa vị vua có tính cách duy nhất chỉ bởi vì đó là một địa vị có tính cách tôn giáo” [4].

Đây là một hiện tượng thú vị, song các chúa Nguyễn ở Đàng Trong không phải là thế lực chính trị đầu tiên hoặc duy nhất trong lịch sử Việt Nam xác lập Phật giáo làm tôn giáo nhà nước nhằm củng cố tính chính danh vương quyền. Các triều đại Lý – Trần cũng thể hiện xu hướng này đậm nét, với đặc trưng là sự phổ biến của hiện tượng các nhà sư tham chính, nắm giữ các vị trí cao cấp trong triều đình (chẳng hạn, các Quốc sư cho vua Lý đa phần là các bậc tăng sư), cũng như hiện tượng xuất gia của các vị vua khi đang ở đỉnh cao quyền lực, đặc biệt có những vị như Phật Hoàng Trần Nhân Tông còn là tổ của một tông phái thiền.

Tuy vậy, lịch sử Việt Nam cũng ghi nhận những trào lưu phê phán mô hình nhà nước Phật giáo, đặc biệt là trong các giai đoạn thắng thế của Nho gia khi nó được các lực lượng nắm quyền lựa chọn làm hệ tư tưởng thống nhất của quốc gia. Lê Thánh Tông (1442-1497) trong một bài văn sách thi Đình đã đưa ra nhận định không mấy tốt đẹp về các tôn giáo thịnh hành bấy giờ – một biểu hiện cho thấy sức ảnh hưởng của Phật giáo như là một quốc giáo khuynh loát đời sống chính trị quốc gia đã không còn nữa dưới thời Hậu Lê:

“Giáo lý của đạo Phật, đạo Lão hết thẩy đều mê đời, lừa dân, che lấp nhân nghĩa, cái hại của nó không thể kể hết, mà lòng người lại rất tin, mê” [5].

Từ những nhận định đó, Lê Thánh Tông đã lệnh cho các phủ, lộ không xây thêm chùa, quán mới. Bên cạnh đó, thời Hồng Đức cũng chứng kiến sự biến mất của giới tăng quan, mà thay vào đó khoa cử đóng vai trò chủ chốt trong việc tuyển lựa người tài ra làm quan.

Có quan điểm cho rằng những biểu hiện này phản ánh quá trình thế tục hóa ở chỗ các tôn giáo đã mất hoặc giảm dần thẩm quyền của nó (thông qua giáo hội và chức sắc) đối với hoạt động quản trị quốc gia, và phần nào đó, đối với xã hội. Tuy vậy, một số khác lại cho rằng hiện tượng “phế Phật, lập Nho” của triều Hậu Lê, hoặc sau này là triều Minh Mạng, chưa thể được coi là biểu hiện của quá trình thế tục hóa, mà đơn thuần chỉ là việc thay đổi tôn giáo được chọn làm quốc giáo. Sự khác biệt quan điểm này liên đới trực tiếp với những tranh luận rằng Nho giáo có nên được coi là một tôn giáo hay đơn thuần chỉ là một hệ thống triết lý và đạo đức về đối nhân xử thế và trị nước. [6]

Thế tục hóa: Biểu hiện của quá trình Lý tính hóa và Hiện đại hóa

Giữa thế kỷ 19, trong khi ở Việt Nam, Minh Mạng và sau đó là Thiệu Trị đang mải mê thi hành những chính sách hà khắc về tôn giáo như cấm đạo, sát đạo để bảo vệ giềng mối Nho gia thì ở nước Anh, nhà văn George Jacob Holyoake (1846) đã lần đầu tiên sử dụng thuật ngữ chủ nghĩa thế tục (secularism) như “là một kiểu quan điểm chỉ quan tâm tới những vấn đề có thể được kiểm tra bằng kinh nghiệm trong cuộc đời này” [7].
blank
Nhà văn George Jacob Holyoake (1817-1906). Ảnh: BBC

Có nguồn gốc từ sự nổi lên của Cách mạng Khoa học và Kỷ nguyên Khai minh và đi liền là sự suy thoái về tầm ảnh hưởng của tôn giáo nói chung và Giáo hội La Mã nói riêng ở châu Âu, tiến trình thế tục hóa (secularization) đã diễn ra sâu rộng trên khắp các mặt của đời sống chính trị xã hội và trở thành một biểu hiện đặc sắc của tiến trình lý tính hóa (rationalization) và hiện đại hóa (modernization), làm thay đổi bộ mặt Tây phương thời bấy giờ.

Hai nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa thế tục là phân tách nhà nước khỏi các tổ chức tôn giáo; và tất cả người dân với bất kể tôn giáo nào (kể cả không tôn giáo) đều bình đẳng trước pháp luật. [8] Đây cũng chính là những đặc điểm của văn hóa chính trị hiện đại ở các nước Tây phương mà dựa trên đó, tự do tôn giáo, tinh thần đa nguyên và khoan dung được bắt rễ.

Không chỉ ở cấp độ văn hóa chính trị, tính thế tục còn được khẳng định ở trong các văn bản pháp lý ở các nền dân chủ. Nếu như Tu chính án thứ Nhất là lời tuyên xưng cho tính chất thế tục của Hiến pháp Hoa Kỳ (và được củng cố qua nhiều án lệ trong đó Tối cao Pháp viện viện dẫn Tu chính án này) thì ở Pháp, tính chất này được ghi nhận trong một loạt các văn kiện quan trọng từ Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền, Luật 1905 về Phân chia Nhà thờ và Nhà nước, rồi sau đó là Hiến pháp 1958.

Tu chính án thứ Nhất, Hiến pháp Hoa Kỳ:

Quốc hội sẽ không ban hành một đạo luật nào nhằm thiết lập tôn giáo hoặc ngăn cấm tự do tín ngưỡng, tự do ngôn luận, báo chí và quyền của dân chúng được hội họp và kiến nghị Chính phủ sửa chữa những điều gây bất bình.

Như vậy, để trở thành những nhà nước thế tục (secular state) như hiện nay các quốc gia Tây phương đã đi một chặng đường dài cả ở cấp độ lý thuyết lẫn thực hành mà kèm với nó là không ít những biến động lịch sử. Nhưng bù lại, chủ nghĩa thế tục, một khi đã bắt rễ và cấu thành một phần của văn hóa chính trị, sẽ giúp tạo ra một khuôn khổ pháp lý và tập quán xã hội tôn trọng tự do tôn giáo, tự do biểu đạt, tinh thần đa nguyên và bình đẳng, từ đó củng cố nền móng cho các nền dân chủ tự do, nhất là trong bối cảnh đa tôn giáo, đa văn hóa như hiện nay.

Từ góc độ đó mới thấy, thiếu vắng những cuộc tranh luận về tính thế tục trong đời sống chính trị xã hội ở một nước đa tôn giáo như Việt Nam, có khi lại không phải một điều gì đáng mừng.

Tài liệu tham khảo:
[1]: Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng thăm nơi đức Phật giác ngộ
[2]: Trọng thể Khai Mạc Đại Lễ Kỳ Siêu các nạn nhân tử vong do tai nạn giao thông cả nước năm 2014
[3][4]: Li Tana, Xứ Đàng Trong, NXB Trẻ 2014, Nguyễn Nghị dịch, tr.225
[5]: Tạ Ngọc Liễn, Nho giáo Việt Nam thế kỷ XV, đầu thế kỷ XVI
[6]:Yong Cheng, Confucianism as Religion: Controversies and Consequences, NXB Brill, tr.1
[7]: George Jacob Holyoake, English Secularism (online version)
[8]:National Secular Society, What is Secularism?
blank
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng nhận quà lưu niệm từ đại diện của chùa Mahabodhi.
26 Tháng Giêng 2016(Xem: 14097)
"Những nhận thức bảo thủ có thể thay đổi trong một sớm một chiều. Nhưng một con người hủ bại do tham nhũng, do chuyên quyền... thì không thể thay đổi được. Nếu lãnh đạo sắp tới có quyết tâm diệt tham nhũng, Việt Nam đã hội đủ điều kiện ban đầu để phát triển. Nếu các đảng viên hiện đang tham dự Đại hội 12 đặt quyền lợi và tương lai đất nước lên trên thì sẽ phải biết mình bầu cho ai".
24 Tháng Giêng 2016(Xem: 14064)
- "Nhiều người đang trông chờ “Luật về hội”, một đạo luật mà “Quốc hội của Đảng” (chứ không phải của Dân) hứa sẽ ban hành và chưa biết ngày nào sẽ ban hành. Tuy nhiên, nếu cứ trông chờ vào một đạo luật để có thể hội họp và lập hội thì đó có thể chỉ là một giấc mơ hay một ảo tưởng ...". - Xem lại bài 1: Mai Thái Lĩnh, Nhóm lợi ích là gì? http://www.nhatbaovanhoa.com Mục TIN NÓNG.
21 Tháng Giêng 2016(Xem: 15495)
17 Tháng Giêng 2016(Xem: 14512)
"Có thể thấy rằng khi bà Tống Mỹ Linh khuyên Tưởng Giới Thạch chạy ra đảo Đài Loan là bà có ý định trở lại lục địa không phải với vị thế của kẻ trốn chạy. Nhưng khi chứng kiến Đặng Tiểu Bình đã chiến thắng Magaret Thatcher năm 1984 trong việc lấy lại Hồng Kông thì bà đã hiểu vị thế của Đài Loan không còn như dự định được nữa".
10 Tháng Giêng 2016(Xem: 15132)
- Vì sao TBT Nguyễn Phú Trọng chống cho bằng được TT Nguyễn Tấn Dũng? - TT Nguyễn Tấn Dũng bị chống đối trên hai vấn đề: - Thứ nhất là đổi mới thể chế cho phù hợp với nền kinh tế mà nhà nước VN luôn luôn công khai xin các nước phát triển công nhận đó là nền kinh tế thị trường đích thực; - Thứ hai là không đổi độc lập chủ quyền biển đảo lấy "hữu nghị viển vông" với Trung Quốc.
07 Tháng Giêng 2016(Xem: 13798)
"Phải chăng Thủ tướng Dũng đang quyết định việc “thay đổi thể chế cho bằng được”, từ mô hình Nhà nước lãnh đạo toàn diện dịch chuyển sang mô hình Nhà nước kiến tạo phát triển? Liệu những đề xuất trên của Thủ tướng Dũng có khả năng phủ bóng trên Đại Hội XII của Đảng Cộng Sản Việt Nam?"
05 Tháng Giêng 2016(Xem: 14807)
"Trong sự bi phẫn có chen vào cảm hứng bi hùng từ tứ thơ tuyệt đẹp của người tráng sĩ thời tao loạn ở buổi mạt kỳ vương triều Trần thế kỷ XIV chuyển sang XV trong cuộc chiến không cân sức chống quân xâm lược nhà Minh. Đẹp với hình tượng trong câu thơ mà người đời gọi là “thi trung hữu hoạ”: Thù nước chưa trả mà mái tóc đã bạc sớm, Bao phen mang gươm báu mài dưới bóng trăng. “Quốc thù vị báo đầu tiên bạch, Kỷ độ Long Tuyền đới nguyệt ma”.
04 Tháng Giêng 2016(Xem: 14074)
"... nhưng bài phát biểu của ông Tập Cận Bình cổ vũ tình hữu nghị Việt-Trung thắm thiết đã được đón nhận bằng một sự im lặng nặng nề và với vài tiếng vỗ tay lác đác khi ông chấm dứt bài phát biểu. Trên gương mặt cử tọa hội trường Quốc Hội hôm ấy lộ rõ vẻ chán chường, thờ ơ, thậm chí thù nghịch. "The Washington Post trích lời một quan chức Việt Nam, xin được miễn nêu tên vì đây là vấn đề “nhạy cảm,” cho biết là bầu không khí hôm ấy “rất căng thẳng.”
29 Tháng Mười Hai 2015(Xem: 13771)
" vai trò của Tổng thư ký ASEAN (ông Lê Lương Minh) và Singapore, nước được ASEAN giao trách nhiệm điều phối quan hệ với Trung Quốc, sẽ rất quan trọng trong việc duy trì hồ sơ Biển Đông trong chương trình nghị sự của ASEAN". "Đối với Giáo sư Thayer, quan hệ truyền thống tốt đẹp giữa Việt Nam và Lào sẽ là một nhân tố tích cực giúp thúc đẩy hồ sơ Biển Đông trong thời gian Lào làm Chủ tịch ASEAN:"
25 Tháng Mười Hai 2015(Xem: 13822)
"Chúng ta phải khẳng định là Việt Nam phải đi theo kinh tế thị trường", "thông tin trên mạng: chúng ta không ngăn, không cấm được đâu các đồng chí"."40 năm đất nước thống nhất nhưng một phần đất máu thịt của Tổ quốc Hoàng Sa vẫn nằm trong tay ngoại bang. Đó là nỗi đau mất mát lớn của dân tộc"…
17 Tháng Mười Hai 2015(Xem: 13845)
"Đa Chiều cho rằng, đứng ngoài quan sát các hành động của Mỹ và Nga tại Syria, Bắc Kinh đã rút ra cho mình bài học: Trong quan hệ với ASEAN và các nước ven Biển Đông, Bắc Kinh hiện đang dùng 2 thủ đoạn kinh tế và chính trị, nhưng cần tính đến thủ đoạn quân sự, dùng sức mạnh cứng như những gì Putin thể hiện tại Syria".
13 Tháng Mười Hai 2015(Xem: 17827)
"Thủ Tướng Ngô Đình Diệm bị đặt trước sự đã rồi, bị ép buộc đi vào con đường Cách Mạng lật đổ triều Nguyễn bằng Quyết Nghị lịch sử ngày 29 tháng 4 năm 1955".
29 Tháng Mười Một 2015(Xem: 14084)
- "Hội thảo Quốc tế về Biển Đông" lần này tổ chức ở thành phố biển Vũng Tàu lồng dưới chủ đề "Biển Đông: Hợp tác vì an ninh và phát triển khu vực". Chủ đề có tính chất bao quát, rộng lớn, nhằm thăm dò dư luận về tình hình an ninh và hợp tác qua nhiều lĩnh vực trong đó có thể dẫn tới khả năng các bên "gác lại tranh chấp - cùng khai thác". - Văn Hóa phỏng vấn quan chức ngoại giao".
26 Tháng Mười Một 2015(Xem: 13154)
- "Quốc tế hóa không có nghĩa là quốc tế các thực thể vốn dĩ đã là của Việt Nam từ thời ngày xửa ngày xưa đến giờ. Làm sao có thể quốc tế hóa các vùng biển đảo đó được, có hay chăng là các vùng biển nằm ngoài vùng "economic zone", nằm ngoài 12 hải lý đối với những đảo theo quy chế luật biển, các bãi đá, các vùng biển đảo nào không thuộc quy chế 12 hải lý theo luật biển, khi vấn đề là của quốc tế thì cần một giải pháp quốc tế". - "Phải chăng Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng đang tiến gần đến hiện thực giấc mơ thay đổi thể chế cho bằng được của ông".
22 Tháng Mười Một 2015(Xem: 13768)
“Chúng tôi đề nghị giải pháp này để hoá giải tình trạng các chế độ độc tài đã liên tục mạo danh XHDS trong suốt 10 năm qua”, Ts. Nguyễn Đình Thắng, Tổng Giám Đốc kiêm Chủ Tịch BPSOS, giải thích từ Bắc Virginia, Hoa Kỳ". "Theo thể thức hiện nay trong tiến trình tổ chức Hội Nghị ACSC/APF, các tổ chức XHDS ở từng quốc gia tự thành lập phái đoàn tham gia".
19 Tháng Mười Một 2015(Xem: 16037)
Trong “tứ trụ” hiện thời, ông Nguyễn Sinh Hùng bất chợt trở thành nhân vật có nhiều phát ngôn ấn tượng nhất về “không phải muốn bắt ai thì bắt”, “nói hay thế mà một đồng tăng lương cũng không có là sao!”, hay gần đây nhất là ủy quyền cho chánh văn phòng Quốc hội lần đầu tiên thông báo công khai về từ ngữ quá đỗi nhạy cảm: “Xã hội dân sự”…
15 Tháng Mười Một 2015(Xem: 13510)
"Bà chỉ nói là bản thân bà sẽ giữ một vị trí đứng trên Tổng thống cho dù Hiến pháp Miến Điện không nói đến trường hợp này. Bà tuyên bố rằng tân Tổng thống sẽ làm những gì mà Liên đoàn Quốc gia vì Dân chủ bảo phải làm. Nói một cách khác, đó là Tổng thống bù nhìn ».