VĂN HÓA ONLINE - VĂN HÓA CHÍNH TRỊ - THỨ NĂM 02 OCT 2025
Phân tích: Quan hệ Việt Nam-Campuchia hiện nay
Hun Sen đã làm gì để Việt Nam quay lưng?
Sự im lặng từ Hà Nội ở cấp cao nhất đối với Campuchia là một tín hiệu không thể nhầm lẫn.
Dư Lan
2025.08.01
https://www.rfa.org/vietnamese/thoi-su/2025/08/01/campuchia-thai-lan-xung-dot-viet-nam/
Ông Hun Sen gặp với Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Tô Lâm hồi tháng 4 năm 2025. (TTXVN)
Tối ngày 28 tháng Bảy, 2025, Campuchia và Thái Lan tuyên bố thỏa thuận ngừng bắn. Ngay sáng hôm sau, Phó thủ tướng - Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam Bùi Thanh Sơn thăm Thái Lan, gặp người đồng cấp Maris Sangiampongsa, tái khẳng định mối quan hệ "Đối tác Chiến lược Toàn diện“.
Nhưng điều giới quan sát chú ý không nằm ở những gì đã diễn ra ở Bangkok, mà ở những gì đã không diễn ra.
Không có một chuyến thăm tương tự nào đến Phnom Penh.
Sau chuyến thăm đến Bangkok, Ngoại trưỏng Bùi Thanh Sơn đón Đại sứ Campuchia ở Hà Nội. Không có sự kiện tương tự xảy ra ở Phnom Penh.
Trước khi cuộc xung đột giữa Thái Lan và Campuchia nổ ra ở cấp độ quân sự, Tư lệnh quân đội Thái Lan cũng sang thăm Việt Nam.
Khi đặt hai sự kiện này cạnh nhau – một cuộc đối thoại quốc phòng cấp cao với Thái Lan ngay trước khi xung đột được đẩy lên cấp độ quân sự và một chuyến thăm ngoại giao cấp cao tới Bangkok ngay sau thỏa thuận ngừng bắn, trong khi hoàn toàn phớt lờ Phnom Penh – một bức tranh chiến lược rõ ràng hiện ra.
Campuchia là láng giềng có chung đường biên giới dài hơn một ngàn km và có mối quan hệ lịch sử phức tạp với Việt Nam. Sự im lặng từ Hà Nội ở cấp cao nhất đối với Campuchia là một tín hiệu không thể nhầm lẫn.
Hà Nội, dù công khai duy trì một chính sách ngoại giao cân bằng và chuẩn mực, trên thực tế đã thực hiện một sự “xoay trục”, “quay lưng” với chính quyền của gia tộc Hun Sen ở Campuchia và nghiêng về phía Thái Lan.
Đây không phải là một phản ứng tức thời trước cuộc xung đột biên giới, mà là đỉnh điểm của một quá trình tích tụ lâu dài, hệ quả của một chuỗi các hành động từ Phnom Penh vốn thách thức một cách có hệ thống các lợi ích an ninh quốc gia cốt lõi của Việt Nam.
Bề ngoài trung lập, thực tế nghiêng trục
Trao đổi với RFA, Giáo sư Carlyle A. Thayer đã chỉ ra cách Việt Nam cẩn trọng xây dựng hình ảnh trung lập, cách tiếp cận công bằng đối với cuộc xung đột liên quan đến hai quốc gia đều là thành viên ASEAN.
Đây là một chính sách ngoại giao giúp Việt Nam duy trì vai trò xây dựng trong khối, tránh bị lôi kéo vào tranh chấp của các nước láng giềng và giữ vững hình ảnh một thành viên có trách nhiệm.
Tuy nhiên, đằng sau bức màn của những tuyên bố ngoại giao chuẩn mực này là một thực tế chiến lược hoàn toàn khác.
Khi phân tích sâu hơn các hành động và xu hướng chiến lược của Việt Nam trong giai đoạn trước và sau xung đột, sự “công bằng” trong các tuyên bố công khai bắt đầu mờ nhạt, nhường chỗ cho một sự tính toán chiến lược rõ ràng nghiêng về phía Thái Lan.
Hà Nội chính thức nâng cấp quan hệ với Bangkok lên Đối tác Chiến lược Toàn diện vào tháng 5 năm 2025, chỉ hai tháng trước cuộc xung đột, là một minh chứng rõ ràng nhất cho thấy sự tin cậy chiến lược đã được củng cố từ trước.
Trong khi đó, mối quan hệ với Campuchia lại bị phủ bóng bởi hàng loạt các vấn đề an ninh nghiêm trọng, từ Biển Đông, căn cứ Ream, kênh đào Phù Nam cho đến các vấn đề an ninh phi truyền thống.
Sự tương phản này cho thấy lựa chọn của Việt Nam không phải là một quyết định bộc phát, ngẫu nhiên.
Thách thức có hệ thống của Campuchia đối với an ninh Việt Nam
Thái độ của Hà Nội đối với Phnompenh là phản ứng tất yếu trước một loạt các chính sách của gia đình Hun Sen trong những năm gần đây. Chúng tạo ra một chuỗi các thách thức có hệ thống và ngày càng nghiêm trọng đối với an ninh quốc gia của Việt Nam.
Những hành động này, trải dài trên nhiều lĩnh vực từ địa chính trị, quân sự, môi trường đến an ninh phi truyền thống, đã làm xói mòn nghiêm trọng lòng tin. Nó buộc Việt Nam phải đánh giá lại toàn bộ mối quan hệ với người láng giềng phía Tây Nam.
Thái độ của Campuchia đối với tranh chấp Biển Đông
Campuchia, một thành viên của khối ASEAN đã nhiều lần hành động như một “con ngựa thành Troy”, phá vỡ sự đồng thuận của ASEAN từ bên trong. Đó là trao đổi của một chuyên gia ở Hà Nội với RFA.
Năm 2012, lần đầu tiên trong lịch sử 45 năm của mình, ASEAN đã không thể ra được một Tuyên bố chung sau Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao (AMM) vì Campuchia, thuận theo chính sách của Bắc Kinh, đã từ chối đưa các nội dung liên quan đến các vụ đối đầu cụ thể ở Biển Đông, như vụ bãi cạn Scarborough, vào văn kiện.
Sự việc này lặp lại vào năm 2016 khi Campuchia một lần nữa ngăn chặn một tuyên bố chung mạnh mẽ của ASEAN về phán quyết của Tòa Trọng tài Thường trực (PCA) bác bỏ yêu sách “đường chín đoạn” của Trung Quốc.
Trao đổi với RFA, Giáo sư Zachary Abuza, một chuyên gia về an ninh Đông Nam Á tại Đại học Chiến tranh Quốc gia Hoa Kỳ, nhận định một cách thẳng thắn: “Về mặt ngoại giao, Phnom Penh đi theo sự dẫn dắt của Bắc Kinh và thường làm theo ý Trung Quốc khi nói đến ASEAN hoặc Biển Đông.” Bởi vì, theo GS Zachary, Hun Sen hay Hun Manet sẽ không bao giờ “đi ngược lại lợi ích của Trung Quốc ở Biển Đông”, và họ “không thấy lý do gì để thúc đẩy vai trò trung tâm của ASEAN trong vấn đề này.”
Bằng cách làm suy yếu mặt trận chung của ASEAN, Campuchia đã giúp Trung Quốc thực hiện chiến lược “chia để trị”, làm giảm hiệu quả của các nỗ lực ngoại giao đa phương nhằm bảo vệ công lý trên Biển Đông và sự tuân thủ Luật biển Quốc tế. Campuchia đẩy các nước Đông Nam Á đang bị Trung Quốc chèn trên Biển Đông vào thế phải đối mặt song phương với một đối thủ lớn hơn rất nhiều.
Căn cứ Hải quân Ream là “mũi dao của Trung Quốc kề vào “vùng bụng mềm” của Việt Nam
Đó là trao đổi với RFA của ông Greg Poling, Giám đốc Chương trình Đông Nam Á, Trung tâm CSIS.
Nếu như chính sách đối với Biển Đông của Campuchia là đòn đánh vào chiến lược ngoại giao của Việt Nam, thì việc Campuchia cho phép Trung Quốc hiện diện quân sự tại Căn cứ Hải quân Ream là một mối đe dọa quân sự trực tiếp và hữu hình.
Ream mằm ở vị trí chiến lược trên Vịnh Thái Lan, chỉ cách đảo Phú Quốc của Việt Nam khoảng 30 km đường biển, cách Kiên Giang khoảng 70 km đường bộ.
Từ năm 2019, Wall Street Journal đã đưa tin về một thỏa thuận bí mật cho phép Trung Quốc độc quyền sử dụng một phần căn cứ Ream trong 30 năm đã xuất hiện, dù chính quyền Hun Sen liên tục phủ nhận. Tuy nhiên, như một báo của Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế (CSIS) đã chỉ ra, các hành động sau đó đã nói lên tất cả. Campuchia đã phá dỡ các cơ sở do Mỹ tài trợ tại Ream để thay thế bằng các cơ sở do Trung Quốc tài trợ để hiện đại hóa toàn bộ căn cứ.
Các phân tích hình ảnh vệ tinh từ Trung tâm CSIS cho thấy quân cảng Ream có những cơ sở hạ tầng, bao gồm cầu cảng nước sâu, các nhà kho, khu nhà, cơ sở sửa chữa tàu. Đáng lo ngại hơn, kể từ tháng 12 năm 2024, hai tàu hộ vệ của Hải quân Quân giải phóng Nhân dân Trung Quốc (PLAN) đã hiện diện gần như liên tục tại cầu cảng mới này. Các tàu Trung Quốc là những tàu duy nhất được phép sử dụng cơ sở hạ tầng hiện đại này. Trong khi đó, các tàu hải quân Nhật Bản khi đến thăm Campuchia đã phải chuyển hướng đến cảng dân sự Sihanoukville thay vì Ream như thỏa thuận ban đầu.
Giáo sư Abuza nói với RFA rằng tình hình này cho thấy Trung Quốc có “quyền tiếp cận đặc quyền - nếu không muốn nói là hiện diện bán thường trực” tại Ream.
Đối với Việt Nam, điều này tạo ra một cơn ác mộng chiến lược.
Trao đổi với RFA, ông Greg Poling, Giám đốc Chưong trình Đông Nam Á ở Trung tâm CSIS, cho rằng nó phá vỡ thế bố trí phòng thủ của Việt Nam ở phía Nam. Bởi lẽ, nếu đặt các trạm radar ở Ream, Trung Quốc có thể theo dõi mọi chuyển động của Việt Nam ở Miền Nam.
Như lời của Giáo sư Abuza, Việt Nam “giờ đây cảm thấy bị Trung Quốc bao vây tứ phía”. Một sự hiện diện quân sự của Trung Quốc tại Ream, ngay sát “vùng bụng mềm” của Việt Nam, buộc Hà Nội phải phân tán lực lượng, đối mặt với nguy cơ bị tấn công từ hai hướng (phía Bắc và phía Tây Nam) trong trường hợp xảy ra xung đột, và làm thay đổi hoàn toàn cán cân quân sự trong khu vực.
Kênh đào Phù Nam Techo
Dự án kênh đào Phù Nam Techo, một siêu dự án trị giá 1.7 tỷ USD do công ty nhà nước Trung Quốc China Road and Bridge Corporation (CRBC) thực hiện theo hình thức Xây dựng-Vận hành-Chuyển giao (BOT), là thách thức song trùng mới nhất mà Campuchia đặt ra cho Việt Nam.
Nó vừa là một quả bom hẹn giờ về môi trường, vừa là một đòn bẩy địa chính trị nguy hiểm.
Về mặt môi trường, kênh đào dài 180 km này sẽ nối sông Mê Kông (từ một nhánh của nó là sông Bassac) ra Vịnh Thái Lan. Các chuyên gia thủy văn và môi trường quốc tế đã gióng lên nhiều hồi chuông báo động về những tác động thảm khốc tiềm tàng của nó đối với Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) và thậm chí cho chính Campuchia.
ĐBSCL không chỉ là nơi sinh sống của hàng chục triệu người dân Việt Nam mà còn là vựa lúa, vựa trái cây và vựa thủy sản, đảm bảo an ninh lương thực cho cả nước và đóng góp lớn vào kim ngạch xuất khẩu. Bất kỳ sự tổn hại nào đến vùng đất này đều là một đòn giáng mạnh vào nền kinh tế và sự ổn định xã hội của Việt Nam.
Về mặt địa chính trị, mục tiêu công khai của Campuchia là giảm sự phụ thuộc vào các cảng của Việt Nam, vốn đang xử lý khoảng một phần ba lượng hàng hóa xuất nhập khẩu của họ. Bằng cách tạo ra một lối đi riêng ra biển, Campuchia sẽ loại bỏ một trong những quan hệ kinh tế quan trọng nhất mà Hà Nội đang có đối với Phnom Penh.
Như Giáo sư Abuza nhận định, đây không chỉ là một dự án kinh tế, mà là một “vấn đề an ninh”. Nó cho phép Campuchia tự do hành động hơn trong các chính sách đối ngoại mà không cần quá bận tâm đến phản ứng của Việt Nam.
Điều làm tăng thêm sự lo ngại là thái độ thiếu minh bạch, có phần lừa dối của Campuchia. Trong thông báo gửi đến Ủy hội sông Mê Kông (MRC), Campuchia đã phân loại dự án này là một dự án “nhánh sông” (tributary). Trong đó, như một báo cáo của Stimson Center đã chỉ ra, kênh đào này kết nối trực tiếp với hai kênh thuộc dòng chính của sông Mê Kông.
Việc phân loại sai này giúp Phnom Penh tránh được quy trình “Tham vấn Trước” (Prior Consultation) nghiêm ngặt theo Hiệp định Mê Kông 1995, một quy trình đòi hỏi phải có đánh giá tác động xuyên biên giới toàn diện và sự đồng thuận của các nước thành viên khác. Điều này cho thấy Hun Sen và Hun Manet không có ý định hợp tác một cách thiện chí và sẵn sàng phớt lờ những lo ngại chính đáng của Việt Nam.
Thiên đường cho tội phạm xuyên quốc gia
Như RFA đã thông tin, trong những năm gần đây, Campuchia đã trở thành một trong những trung tâm lớn nhất thế giới của ngành công nghiệp lừa đảo trực tuyến, một hình thức tội phạm xuyên quốc gia có tổ chức với quy mô và mức độ tàn bạo chưa từng có.
Các thành phố như Sihanoukville, Poipet và Bavet đã biến thành những “công viên lừa đảo” (scam park), nơi hàng trăm ngàn người, chủ yếu là người nước ngoài, bị lừa đảo, bắt cóc, tra tấn để ép buộc làm việc trong điều kiện bị tra tấn như nô lệ giữa thời hiện đại.
Nạn nhân của các mạng lưới này đến từ khắp nơi trên thế giới. Một phần lớn những người bị bắt cóc, đưa đến các trại lừa đảo, bị tra tấn, ép buộc “làm việc” lại là công dân của các nước láng giềng như Việt Nam, Lào và Thái Lan.
Theo ước tính của Viện Hòa bình Hoa Kỳ, ngành công nghiệp lừa đảo này tạo ra doanh thu hơn 12.5 tỷ USD mỗi năm ở Campuchia, tưong đương một nửa GDP chính thức của nước này.
Quy mô khổng lồ này không thể tồn tại nếu không có sự bảo kê ở cấp cao nhất.
Cả hai chuyên gia Nguyễn Thế Phương và Zachary Abuza đều có chung nhận định rằng các trung tâm lừa đảo không chỉ là vấn đề tội phạm đơn thuần, mà đã trở thành một bộ phận không thể tách rời của nền kinh tế - chính trị Campuchia.
Theo ông Nguyễn Thế Phương, việc Hun Sen cho phép các hoạt động này tồn tại là vì ông ta “phải ‘nuôi’ các gia đình chính trị của Campuchia”. Lợi ích kinh tế từ các sòng bạc và trung tâm lừa đảo, vốn do các tổ chức tội phạm Trung Quốc điều hành, được bảo kê sau hậu trường của nhiều “gia đình chính trị” trong mạng lưới bảo trợ chính trị rộng lớn của Đảng Nhân dân Campuchia (CPP), giúp gia đình Hun Sen duy trì quyền lực. Do đó, việc dẹp bỏ các trung tâm này là “gần như rất khó”.
Giáo sư Zachary Abuza có cùng nhận định với nhà nghiên cứu Nguyễn Thế Phương. Ông Zachary trao đổi với RFA:
“Chính quyền Hun Sen/Hun Manet là một tổ chức tội phạm (criminal enterprise). Cỗ máy bảo trợ chính trị của họ, thứ mang lại cho Đảng CPP gần như độc quyền quyền lực, lại được tài trợ bởi các trung tâm lừa đảo. Nếu loại bỏ những trung tâm lừa đảo đó, thì bộ máy chính trị của Đảng CPP sẽ không còn tiền, và thế độc quyền quyền lực của họ có thể sụp đổ.”
Điều đó giải thích lý do những nỗ lực chống lại các “trung tâm lừa đảo” này của chính người Campuchia trung thực đã bị thất bại. Mech Dara là một nhà báo trẻ nổi tiếng của Campuchia. Anh từng nhận đưọc giải thưởng của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ nhờ những bài phóng sự điều tra phanh phui sự thật trần trụi về các trung tâm lừa đảo, bắt cóc và ép buộc nạn nhân phải lừa đảo. Chính quyền Campuchia đã đối xử với anh như thế nào? Anh bị bắt giữ, phải xin lỗi chính quyền công khai vì “kích động trên mạng.”
Đối với Việt Nam, sự bùng nổ của các trung tâm lừa đảo ngay sát biên giới tạo ra một thách thức an ninh phi truyền thống vô cùng nghiêm trọng.
Trong các trung tâm lừa đảo của Campuchia đã được báo chí quốc tế điểm mặt chỉ tên, có Poipet nằm sát biên giới Thái Lan và Bavet nằm sát biên giới Việt Nam. Bavet là một thành phố, đặc khu kinh tế cửa khẩu. Cửa khẩu đối diện phía Việt Nam là Mộc Bài, Tây Ninh. Bavet cách Tp. HCM chỉ hơn 70 km.
Nó gây ra những vấn đề xã hội nhức nhối khi hàng ngàn công dân Việt Nam bị bắt cóc, tra tấn và ép buộc phạm tội.
Nó tạo gánh nặng khổng lồ cho các cơ quan thực thi pháp luật trong việc giải cứu nạn nhân và truy bắt tội phạm.
Hơn nữa, kế hoạch xây dựng một “đặc khu kinh tế” dọc theo kênh đào Phù Nam, trong đó có thêm một đặc khu nữa, chỉ cách tỉnh Tây Ninh của Việt Nam khoảng 50 km, có thể tạo ra một nỗi lo sợ có thật rằng một “Bavet thứ hai” – một ổ tội phạm và bất ổn – sẽ mọc lên ngay tại cửa ngõ của Thành phố Hồ Chí Minh, trung tâm kinh tế lớn nhất của Việt Nam.
Trạng thái “bình thường mới” trong quan hệ Việt Nam - Campuchia?
Liệu “mối quan hệ đặc biệt” trong quá khứ giữa Hà Nội và Phnompenh giờ đây chỉ còn là một hoài niệm lịch sử?
Như nhận định của nhà nghiên cứu Nguyễn Thế Phương, Hà Nội có thể vẫn coi chế độ hiện tại ở Phnom Penh là “lựa chọn ít tồi tệ nhất” so với các kịch bản hỗn loạn khác. Điều đó có nghĩa là Hà Nội đã sẵn sàng ứng phó với nhiều kịch bản khác nhau.
Cuộc xung đột vũ trang kéo dài hai tháng giữa Thái Lan và Campuchia vào mùa hè năm 2025 vừa tạm ngưng bằng một lệnh ngừng bắn, rồi ngay lập tức hai bên giao chiến trở lại. Chắc hẳn cuộc chiến này sẽ không dai dẳng. Tuy vậy, những dư chấn địa chính trị mà nó tạo ra sẽ còn kéo dài.
Đối với Việt Nam, cuộc khủng hoảng này đã đóng vai trò như một chất xúc tác, đẩy nhanh một quá trình chuyển dịch chiến lược vốn đã âm ỉ từ lâu.
Sự “quay lưng nhẹ nhàng” của Hà Nội đối với chính quyền Hun Sen ở Phnom Penh, được thể hiện qua những tín hiệu ngoại giao và quân sự tinh tế nhưng rõ ràng, không phải là một phản ứng cảm tính hay nhất thời.
Mối quan hệ Việt Nam - Campuchia, do đó, đã bước vào một giai đoạn mới, một “trạng thái bình thường mới”, trong đó Việt Nam đã sẵn sàng đối diện với những bất ổn, trạng thái thiếu tin cậy và tiềm ẩn nhiều rủi ro.
Hà Nội nhìn về biên giới Tây Nam: tiếng vọng lịch sử và sự chuẩn bị cho tương lai
Khoảng 15% đường biên giới Việt Nam - Campuchia vẫn chưa được phân định.
Dư Lan
2025.08.05
https://www.rfa.org/vietnamese/thoi-su/2025/08/06/campuchia-viet-nam-lanh-tho-thai-lan/
Một người Campuchia đốt cờ Việt Nam trong cuộc biểu tình năm 2014. (TANG CHHIN SOTHY/AFP)
Thái Lan và Campuchia vừa tạo ra cuộc xung đột vũ trang quy mô lớn đầu tiên giữa hai nước thành viên ASEAN, khi tranh chấp chủ quyền đối với một ngôi đền cổ tại khu vực biên giới đã dẫn đến một cuộc đụng độ quân sự nghiêm trọng kéo dài năm ngày, khiến hàng trăm người ở hai phía thương vong và hàng trăm nghìn người khác phải di tản.
Tranh chấp biên giới từ lâu đã là điểm nóng trong quan hệ Thái Lan - Campuchia. Những vụ đụng độ nhỏ lẻ từng xảy ra vào các năm 2008 và 2011, và người dân Campuchia thậm chí từng phóng hỏa Đại sứ quán Thái Lan tại Phnom Pênh vào năm 2003. Tuy nhiên, việc quân đội hai bên sử dụng vũ khí hạng nặng và giao chiến với cường độ như một cuộc chiến tranh quy mô nhỏ là điều chưa từng có tiền lệ kể từ khi Campuchia gia nhập ASEAN.
Cuộc xung đột không chỉ biến nguy cơ chiến tranh giữa các quốc gia thành viên ASEAN thành hiện thực, mà còn khơi dậy những vấn đề tưởng chừng đã lùi vào quá khứ: chủ nghĩa dân tộc cực đoan và xung đột vũ trang từ tranh chấp lãnh thổ.
Câu hỏi đặt ra là: Việt Nam nhìn thấy điều gì từ cuộc xung đột này? Bởi trên thực tế, trong nhận thức của nhiều người Campuchia, tranh chấp lãnh thổ với Việt Nam còn nhạy cảm và sâu sắc hơn cả với Thái Lan.
Chế độ Khmer Đỏ từng tiến hành một cuộc chiến kéo dài từ năm 1975 đến 1979 dọc biên giới với Việt Nam, buộc Việt Nam phải đưa quân vào Phnom Pênh lật đổ chế độ này và duy trì hiện diện quân sự hao người tốn của cho đến năm 1989. Lập luận chính của Khmer Đỏ là vùng “Khmer Krom”, bao gồm miền Đông và Tây Nam Bộ Việt Nam, là lãnh thổ của Campuchia và phải được “đòi lại bằng vũ lực”.
Dù chế độ Khmer Đỏ đã sụp đổ, tư tưởng đòi lại “Khmer Krom” vẫn chưa biến mất. Niềm tin cho rằng vùng Đồng bằng Sông Cửu Long mới chỉ bị người Pháp trao cho Việt Nam từ năm 1949 vẫn đang phổ biến ở nước này, trong khi trên thực tế, chính người Pháp đã ép nhà Nguyễn của Việt Nam nhượng vùng đất này cho họ trong các hòa ước Nhâm Tuất (1862) và Giáp Tuất (1874), sự thật lịch sử này đã được báo Khmer Times đăng tải thông qua bài viết của Thomas Fowler vào năm 2019.
Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Thế Phương thì tranh chấp lãnh thổ với Việt Nam, nguyên liệu chính để thổi bùng chủ nghĩa dân tộc, vẫn tiếp tục được các đảng đối lập tại Campuchia khai thác để công kích tính chính danh của chính quyền Hun Sen và thu hút cử tri.
Theo ông Phương, khoảng 15% đường biên giới Việt Nam - Campuchia vẫn chưa được phân định. Trong bối cảnh chủ nghĩa dân tộc đang được thổi bùng bởi xung đột quân sự với Thái Lan, vấn đề biên giới với Việt Nam rất có khả năng sẽ bị “hâm nóng” trở lại.
Ngoài vấn đề lãnh thổ, theo ông Nguyễn Thế Phương, quan hệ Việt Nam - Campuchia còn đối mặt với những thách thức khác như: nguồn nước sông Mekong, cộng đồng người gốc Việt tại Campuchia, vấn đề quân cảng Ream, và các trung tâm lừa đảo xuyên biên giới. Vì vậy, theo ông, “Campuchia trong thời gian tới chắc chắn sẽ trở thành một điểm nóng.”
Khi xung đột còn đang xảy ra ở khu vực biên giới giữa Thái Lan và Campuchia, ông Nguyễn Thanh Nghị, Phó Bí thư Thành ủy TP.HCM, đã tổ chức hội thảo với Quân khu 7 (đơn vị quản lý khu vực giáp Campuchia) và tuyên bố cần sẵn sàng bảo vệ biên giới Tây Nam.
Việc ông Nguyễn Thanh Nghị, một lãnh đạo cấp thành phố, là người truyền tải thông điệp thay vì một lãnh đạo cấp trung ương là điều đáng chú ý.
Sẽ không có gì đặc biệt nếu ông không phải là con trai của ông Nguyễn Tấn Dũng, cựu Thủ tướng Việt Nam. Sự nghiệp của ông Nguyễn Tấn Dũng gắn liền với vùng đất Tây Nam và cuộc chiến chống Khmer Đỏ, ông từng là Trưởng ban cán bộ Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Kiên Giang trong thời kỳ khu vực này chịu ảnh hưởng nặng nề bởi các cuộc tấn công của Khmer Đỏ.
Một nhà nghiên cứu quan hệ quốc tế tại Hà Nội chia sẻ với RFA rằng thay vì đưa ra các tuyên bố cứng rắn ở cấp trung ương, vốn có thể gây leo thang căng thẳng, sự xuất hiện của ông Nguyễn Thanh Nghị, con của một cựu lãnh đạo từng trực tiếp chiến đấu để bảo vệ biên giới, là hình thức ‘răn đe thông qua di sản’, để truyền đi thông điệp rõ ràng mà không cần nói ra.”
Trao đổi với RFA, Giáo sư Zachary Abuza nhận định: Việt Nam buộc phải truyền đi thông điệp cứng rắn và nghiêm túc về biên giới Tây Nam, bởi “sẽ là vô trách nhiệm nếu họ không đến khu vực biên giới trong bối cảnh hiện tại,” ông nói:
“Tôi sẽ không ngạc nhiên nếu Nguyễn Thanh Nghị và Tư lệnh Quân khu 7 đến thị sát khu vực Tây Nam. Chính phủ và Quân đội Nhân dân Việt Nam vẫn còn mang ký ức sâu sắc về các yêu sách lãnh thổ của Khmer Đỏ và những cuộc tấn công đã dẫn đến cuộc can thiệp kéo dài 10 năm. Với tình hình hiện nay dọc biên giới Thái Lan – Campuchia, chỉ cách TP.HCM khoảng 400 km, sẽ là thiếu trách nhiệm nếu họ không hiện diện tại đó”.
Ông Nguyễn Thế Phương nhận định: Việt Nam từ lâu đã coi Campuchia là “một điểm bất ổn tiềm tàng”. Khái niệm “tam giác chiến lược” Việt – Lào – Campuchia trước đây đã được thay thế bằng khái niệm “không gian chiến lược”, nhưng bản chất không thay đổi:
“Nếu không thể duy trì một không gian láng giềng thân thiện, Việt Nam không thể phát triển kinh tế một cách yên bình. Campuchia và Lào bình yên thì Việt Nam mới bình yên. Do đó, việc Trung Quốc gia tăng ảnh hưởng lên Campuchia mang nguy cơ tạo ra bất ổn trong tương lai, cả ở khía cạnh an ninh phi truyền thống lẫn truyền thống.”
Theo ông Phương, Việt Nam không chỉ đang theo dõi một cuộc khủng hoảng ở biên giới Thái Lan – Campuchia, mà còn chuẩn bị để ngăn chặn một kịch bản tương tự xảy ra tại biên giới của chính mình.
Trao đổi với RFA, Giáo sư Carlyle A. Thayer (Đại học New South Wales, Canberra) nhận định rằng quan hệ Việt Nam – Campuchia dưới thời hai nhà lãnh đạo mới, Tô Lâm và Hun Manet, hiện đang ở trạng thái “ổn định, hợp tác về thương mại, đầu tư, an ninh – quốc phòng và trao đổi cấp cao.” Đồng thời, quan hệ Việt – Thái đã được nâng cấp lên “Đối tác Chiến lược Toàn diện.”
Về mặt công khai, Việt Nam đang duy trì hình ảnh trung lập trong xung đột Thái Lan – Campuchia, cố gắng giữ cân bằng trong quan hệ với cả hai bên.
Tuy nhiên, thực chất, Hà Nội đang triển khai một chiến lược hai hướng: vừa tăng cường năng lực răn đe quân sự, vừa duy trì các kênh đối thoại và can dự thực dụng.
Về khía cạnh răn đe, ông Nguyễn Thế Phương cho rằng Việt Nam không chỉ dừng lại ở lời nói. Sắp tới, Việt Nam có thể sẽ tăng cường năng lực phòng thủ cho khu vực phía Nam. Cụ thể, Bộ Quốc phòng có thể sẽ bổ sung tàu tên lửa và hệ thống bảo vệ bờ biển mới cho Vùng 5 Hải quân – đơn vị phụ trách khu vực biển Tây Nam, bao gồm cả vùng biển quanh Phú Quốc và giáp Campuchia. Việc hiện đại hóa và tăng cường hỏa lực cho lực lượng này là bước đi cụ thể nhằm đối phó với các mối đe dọa tiềm tàng từ căn cứ hải quân Ream và những bất ổn trên biển.
Tuy nhiên, răn đe không có nghĩa là đoạn tuyệt. Việt Nam hiểu rằng việc cô lập Campuchia sẽ chỉ đẩy nước này xích lại gần Trung Quốc và làm mất đi ảnh hưởng của Hà Nội. Do đó, hướng tiếp cận thứ hai là duy trì can dự sâu rộng.
Ông Nguyễn Thế Phương nói:
“Theo tôi, Việt Nam vẫn cần tăng cường tương tác cả về kinh tế lẫn quốc phòng với Campuchia. Có thể tận dụng tình huống Campuchia đóng biên với Thái để thúc đẩy thương mại và giao lưu nhân dân. Mặt khác, Việt Nam hiện vẫn đang huấn luyện quân đội Campuchia khá nhiều – nhất là lực lượng hải quân và không quân, phần lớn được đào tạo tại Việt Nam. Kênh liên lạc giữa hai bên vẫn còn, và rất quan trọng.”