VĂN HÓA ONLINE - DIỄN ĐÀN -VĂN HÓA-LỊCH SỬ 1 - THỨ BA 16 SEP 2025
Việt Nam, một lịch sử khác?
Tác giả, Christopher Goscha
Vai trò, Gửi cho BBC News Tiếng Việt từ Montréal, Canada
Dịch giả: Alex-Thái Đình Võ
15 tháng 9 2025
https://www.bbc.com/vietnamese/articles/c78n7e28xeeo
Với đa số độc giả ngoài Việt Nam, quốc gia ven biển nhỏ bé này vẫn thường gắn liền với cuộc chiến kéo dài một thập kỷ, khi quân đội Hoa Kỳ sa lầy trong nỗ lực ngăn chặn cộng sản miền Bắc tiến chiếm một miền Nam không cộng sản. Chiến tranh Việt Nam kết thúc năm 1975 với sự thất bại nặng nề của Mỹ.
Nỗi thất bại cũng phủ bóng lên ký ức của Pháp về thuộc địa cũ. Thất bại ê chề mà Pháp phải chịu trong trận Điện Biên Phủ năm 1954, khi quân đội của Võ Nguyên Giáp chấm dứt 80 năm thống trị thuộc địa, vẫn còn vang vọng trong đời sống chính trị Pháp cho đến ngày nay.
Ở Việt Nam, chiến thắng vẻ vang này trở thành chủ đề chiếm vị trí trung tâm trong cách dân tộc này hình dung về chính mình.
Mỗi năm, hàng triệu học sinh và học viên quân sự được dạy rằng đất nước hình chữ "S," trải dài từ sông Hồng ở miền Bắc đến đồng bằng sông Cửu Long ở miền Nam, được xây dựng từ truyền thống bền bỉ chống lại sự xâm lược từ bên ngoài. Trước khi đánh bại người Pháp và người Mỹ, người Việt đã từng đẩy lùi các đội quân xâm lược từ Trung Quốc và Mông Cổ.
Hồ Chí Minh chỉ là một trong số nhiều anh hùng đã giành lại độc lập cho Việt Nam. Theo cách nhìn này, cả Pháp lẫn Mỹ chỉ có thể tự trách mình vì đã phớt lờ những bài học từ lịch sử.
Tuy nhiên, việc xây dựng một câu chuyện lịch sử xoay quanh truyền thống kháng chiến sẽ che mờ nhiều yếu tố quan trọng khác, và đó chính là cái giá của nó. Việc kiến tạo một quá khứ trong đó Việt Nam – với đường biên giới và hình dạng như ta thấy ngày nay – luôn là một thực thể thống nhất chống lại ngoại xâm đã che phủ một lịch sử phức tạp và thú vị hơn nhiều.
Nguồn hình ảnh, Getty Images. Hai Bà Trưng trên tranh dân gian
Thực tế, dải đất hình chữ S mà ta thấy trên bản đồ hiện nay không phải lúc nào cũng tồn tại ở hình dáng ấy. Giống như Hoa Kỳ, Nga hay thậm chí Trung Quốc, Việt Nam cũng là sản phẩm của quá trình mở rộng thuộc địa của chính mình. Và, như các đế chế khác trong lịch sử, quốc gia này khởi đầu từ một vùng lõi nhỏ trước khi bành trướng thành một thực thể mang hình thái đế chế.
Cái nôi của nền văn minh Việt nằm ở đồng bằng sông Hồng, nơi một nhà nước độc lập, tập quyền với kinh đô Cổ Loa hình thành vào khoảng thế kỷ thứ 3 trước Công nguyên, gần thủ đô Hà Nội ngày nay. Dù là một nhà nước sôi động và phát triển vượt bậc so với bối cảnh đương thời, nền độc lập của Cổ Loa đã nhanh chóng chấm dứt khi đế chế Trung Hoa ở phương Bắc bắt đầu cho quân tiến vào vùng biên cương. Vào thế kỷ 2 trước Công nguyên, Trung Hoa giành quyền kiểm soát vùng sông Hồng, biến Việt Nam thành quận cực nam của đế chế, mang tên Giao Chỉ. Khi ấy, lãnh thổ Việt Nam chỉ gói gọn ở đồng bằng sông Hồng và nằm dưới ách cai trị Trung Quốc trong một ngàn năm.
Sự cai trị của Trung Hoa đôi khi rất khắc nghiệt. Đã có những thời khắc người Việt kháng cự quyết liệt, trong đó có cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng vào thế kỷ thứ nhất Công nguyên. Quân đội nhà Hán đã được điều động để trấn áp phong trào này. Tuy nhiên, cũng có nhiều người Việt hợp tác với chính quyền Trung Hoa, coi sự cai trị ấy như một phương tiện thúc đẩy cải cách và hiện đại hóa. Trên thực tế, một ngàn năm dưới ách đô hộ đã khiến nhiều yếu tố văn hóa Trung Hoa ăn sâu vào đời sống ở Giao Chỉ.
Nguồn hình ảnh, Getty Images. Hưng Đạo đại vương và trận chiến Bạch Đằng trên tranh dân gian
Các quan lại Trung Hoa giới thiệu những khái niệm mới về luật pháp, thời gian và không gian (như các bộ luật, niên lịch, hệ thống đo lường, trọng lượng và bản đồ), cùng với nghệ thuật quản lý hành chính, vũ khí, giấy và kèm theo đó là hệ thống chữ viết theo ký tự. Văn hóa của tầng lớp tinh hoa ở đồng bằng sông Hồng cũng thay đổi với sự xuất hiện của kiến trúc cung đình, âm nhạc, nghệ thuật và ẩm thực lấy cảm hứng từ Trung Hoa, bao gồm cả việc sử dụng đũa. Trong giai đoạn này, Nho giáo và Phật giáo Đại thừa trở thành một phần của đời sống văn hóa Việt Nam.
Khi đế chế Trung Hoa suy yếu vào cuối thời Đường (618–907), người Việt giành lại độc lập vào thế kỷ 10, nhưng lại mất nó một lần nữa vào đầu thế kỷ 15, khi triều Minh khôi phục đế chế bằng cả biện pháp chính trị lẫn quân sự. Lần đô hộ thứ hai này không kéo dài lâu; đến năm 1427, người Việt lại giành được độc lập sau một cuộc kháng chiến. Song, việc thoát khỏi hệ thống đế chế Trung Hoa không có nghĩa là chủ nghĩa thực dân không còn hiện diện trong câu chuyện của Việt Nam. Thực tế, nó vẫn là lực đẩy quan trọng định hướng mạnh mẽ trong tiến trình lịch sử.
Tương tự như người Mỹ thoát ly khỏi Đế quốc Anh vào cuối thế kỷ 18 nhưng sau đó lại tạo dựng một nhà nước thuộc địa riêng của họ bằng cách tiến dần về phía tây ra Thái Bình Dương, người Việt cũng chọn con đường bành trướng. Với sự rút lui của Trung Hoa, người Việt tập trung hướng tới việc kiến tạo đế chế riêng mình, chinh phục các vùng đất phía nam bằng vũ lực, nghệ thuật trị quốc và ý thức hệ thuộc địa theo tinh thần Nho giáo được coi là "ưu việt" mà họ tiếp thu từ Trung Hoa.
Trong bước tiến xuống phương nam, cùng với quân lính, quan lại và dân di cư, các hoàng đế Việt Nam thiết lập những phủ bảo hộ, thúc đẩy việc định cư, đồng thời luân phiên áp dụng hình thức cai trị "trực tiếp" và "gián tiếp" đối với các cộng đồng xa xôi, đa sắc tộc, như một phần trong sứ mệnh khai hóa của mình. Nếu người Mỹ chinh phục các tộc người bản địa và đẩy lùi các đế quốc châu Âu tại Bắc Mỹ, thì người Việt cũng chinh phục người Chăm ở miền Trung, người Khmer thuộc vùng đồng bằng sông Cửu Long ở miền Nam, cùng nhiều cộng đồng phi Việt ở vùng cao nguyên lân cận.
Triều Lê, tồn tại từ năm 1428 đến 1789 sau khi nhà Minh rút lui, chịu ảnh hưởng sâu sắc từ cuộc tiếp xúc "thuộc địa" này. Khi giành lại Việt Nam và xưng đế vào năm 1428, Lê Lợi cùng những người kế vị đã tái tổ chức nhà nước theo khuôn mẫu Nho giáo. Vị hoàng đế này nhìn thấy cơ hội làm được điều mà các bậc tiền nhân từng thất bại: thiết lập quyền lực tập trung trên một đất nước rộng lớn và khó quản lý. Ông và các thế hệ kế vị thúc đẩy mô hình trị quốc theo tinh thần Nho giáo thông qua việc mở mang trường học, đẩy nhanh các kỳ thi tuyển quan lại, và ban hành bộ luật nhà Lê (Bộ luật Hồng Đức) mang đậm dấu ấn Nho giáo.
Việc mở rộng lãnh thổ quá nhanh đã châm ngòi cho nội chiến và sự hình thành các thế lực Việt Nam đối nghịch, cạnh tranh quyền kiểm soát một thực thể chính trị đang bành trướng. Dù danh nghĩa cai trị đất nước thuộc về triều Lê, nhưng từ sau khi Trung Hoa rút lui ở thế kỷ 15, thực tế đã hình thành hai Việt Nam: miền bắc do họ Trịnh nắm quyền quân sự, và miền nam do các chúa Nguyễn lãnh đạo trong quá trình bành trướng.
Đến thế kỷ 18, nhà Nguyễn ở phương nam đã trở thành một nhà nước gần như độc lập, với triều đình, bộ máy hành chính và quân đội riêng. Mọi nỗ lực của họ Trịnh nhằm đánh bại thực thể này đều thất bại.
Nguồn hình ảnh, Getty Images. Bảo tàng Quang Trung tại Bình Định, nay là tỉnh Gia Lai, gợi nhắc một thời nội chiến của Việt Nam
Nội chiến leo thang trong thập niên 1770, khi ba anh em nhà Tây Sơn, dựa vào làn sóng phẫn uất vì đói nghèo của nông dân vùng cao nguyên miền Trung, đã đánh bật nhà Nguyễn khỏi kinh đô Huế và dồn họ vào các căn cứ trong rừng ở đồng bằng sông Cửu Long. Nhà Tây Sơn sau đó hướng ra bắc và cuối cùng lật đổ luôn họ Trịnh vào cuối những năm 1780. Nhà Thanh tìm cách can thiệp nhưng bất thành và cuối cùng cũng bị Tây Sơn đánh đuổi.
Tuy nhiên, tàn dư của nhà Nguyễn vẫn bám trụ từ các căn cứ rừng sâu. Thực ra, cuộc nội chiến kéo dài 30 năm chỉ thật sự chấm dứt khi dòng họ Nguyễn có một màn trở lại ngoạn mục dưới sự lãnh đạo của Nguyễn Ánh. Vị lãnh đạo quân sự quyết đoán này đã chỉ huy đoàn quân tiến dọc bờ biển, đưa hải quân bắc tiến, đánh bại nhà Tây Sơn rồi lập nên đế chế Việt Nam vào năm 1802. Dáng hình chữ S của Việt Nam ngày nay có từ năm ấy, kết quả của nhiều thế kỷ mở rộng lãnh thổ và nội chiến. Kể từ thập niên 1620, đất nước này đã sống trong chia cắt. Vì thế, việc tồn tại của "hai Việt Nam" ở nửa sau của thế kỷ 20 không phải là điều lạ thường.
Từ kinh đô Huế, Minh Mạng – con trai Gia Long – cai trị thực thể chính trị mới này bằng bàn tay cứng rắn. Lý trí đến mức cực đoan và thông minh hiếm thấy, ông dồn trọn hai thập kỷ trị vì để kiến tạo một quốc gia hiện đại. Ông cai trị với sự khắc nghiệt, không để bất cứ điều gì cản đường. Tương tự những nỗ lực xây dựng quốc gia mà các vua Xiêm và Miến thực hiện ở phía tây biên giới Việt, Minh Mạng tin rằng quyền lực tập trung dựa trên quản trị hành chính hợp lý sẽ giúp cai trị hiệu quả hơn và thúc đẩy phát triển kinh tế.
Các chính sách hành chính của ông thúc đẩy sự thống nhất lãnh thổ, tập trung quyền lực, phát triển kinh tế và đồng nhất về ý thức hệ. Hệ thống khoa cử được cải tổ để bảo đảm tính minh bạch và chống lại những hệ lụy tiêu cực của nạn gia đình trị cùng nhiều thế kỷ phân quyền cát cứ. Thực tế, việc xây dựng một bộ máy dân sự nắm quyền chỉ huy quân đội – thay vì ngược lại – là ưu tiên của Minh Mạng và là điều kiện cốt lõi để kiến tạo một nước Việt Nam mới.
Về kinh tế, hệ thống thuế do nhà nước quản lý, đánh trên dân cư và hoạt động thương mại, cung cấp nguồn tài chính để đầu tư vào các công trình hạ tầng lớn, nhập khẩu hàng hóa nước ngoài và trả lương cho bộ máy quan liêu ngày càng mở rộng. Việc mở rộng quyền kiểm soát hành chính xuống các tầng nấc thấp hơn cho phép huy động khối lượng lớn nhân công để xây dựng đê điều, đường sá và cầu cống mới. Dưới thời Minh Mạng, triều Nguyễn cho xây dựng Quan lộ chạy từ Hà Nội đến Sài Gòn nhằm giúp việc di chuyển quan lại và binh lính giữa hai miền hiệu quả hơn; đến đầu thế kỷ 20, người Pháp cũng cho trải nhựa con đường này với mục đích tương tự.
Minh Mạng cũng ủng hộ việc thúc đẩy thương mại quốc tế. Ông mạnh tay trấn áp nạn buôn lậu gạo và thuốc phiện, thay vào đó phát triển hoạt động thương mại do chính quyền quản lý với Singapore, Trung Quốc và phương Tây. Triều Nguyễn cũng tổ chức cộng đồng thương nhân người Hoa thành các bang hội lớn để dễ kiểm soát và đánh thuế.
Những cải cách kinh tế và chính trị này cho thấy triều đại Minh Mạng ở đầu thế kỷ 19 xứng đáng được nhìn nhận nhiều hơn là chỉ một dòng chú thích trong lịch sử Việt Nam cận đại. Điều đó không có nghĩa là ông đã hoàn thành mọi mục tiêu đặt ra, mà thay vào đó cho thấy rằng tính hiện đại ở Việt Nam – cũng như ở bất kỳ nơi nào khác – không phải là một hiện tượng tuyệt đối "có hoặc không," và cũng không nhất thiết phải đến từ mối liên hệ thuộc địa với phương Tây.
Cũng cần lưu ý rằng việc kiến tạo nước Việt Nam dưới thời Minh Mạng đã khởi phát một làn sóng chinh phục mang tính thuộc địa khác. Trong thập niên 1830, khi cải tổ bộ máy nhà nước, Minh Mạng đồng thời mở rộng lãnh thổ, sáp nhập toàn bộ Campuchia ngày nay và một phần Lào. Nhưng rốt cuộc, vị hoàng đế này đã đi quá xa: khi tìm cách xóa bỏ vương quyền Campuchia, ông đã châm ngòi cho một cuộc nổi dậy lớn và kéo theo sự can thiệp quân sự của Xiêm.
Campuchia sau đó giành lại độc lập thông qua một thỏa thuận hòa bình do Xiêm và Việt Nam cùng thương lượng. Nói cách khác, hình dáng chữ S của Việt Nam thực sự chưa bao giờ là một tất yếu lịch sử. Cuối cùng, chính sự can thiệp của Xiêm – chứ không phải của người Pháp – đã cứu Campuchia thoát khỏi sự thôn tính của Việt Nam vào thập niên 1840.
Khi người Pháp áp đặt quyền lực đế quốc của mình tại Việt Nam, họ đã xây dựng bộ máy thuộc địa dựa trên nền tảng sẵn có của nhà nước Việt Nam. Thực vậy, Liên bang Đông Dương thuộc Pháp, được chính thức tuyên bố thành lập năm 1888, phản chiếu một cách lạ lùng ranh giới của "Đại Nam" dưới thời Minh Mạng của những năm 1830, bao gồm cả Campuchia và phần lớn Lào.
Dù hành trình giành thống nhất và độc lập ở thế kỷ 20 là chìa khóa để lý giải lịch sử Việt Nam, nhưng nó thường bỏ qua sự thật rằng chưa từng có một Việt Nam duy nhất, mà nhiều Việt Nam với những diện mạo rất khác biệt. Trong 80 năm dưới ách cai trị của Pháp, người Việt quả thực chịu nhiều đau khổ, nhưng họ không phải lúc nào cũng chỉ là nạn nhân của sự đô hộ. Bởi chính họ cũng từng là những kẻ đi chinh phục.
Các tường thuật chuẩn mực về quan hệ Việt-Trung thường mô tả đó là một lịch sử liên tục chống lại sự xâm lược của Trung Quốc. Đây là một câu chuyện hấp dẫn đối với những người theo chủ nghĩa dân tộc ở Việt Nam, bởi nó khơi gợi một truyền thống kháng cự bất tận trước ngoại xâm – không chỉ trong các cuộc chiến chống Pháp và Mỹ giữa thế kỷ 20, mà cả trong xung đột biên giới với Trung Quốc những năm 1980 và các căng thẳng trên Biển Đông hiện nay. Thế nhưng, như chúng ta đã thấy, những câu chuyện "chống Trung Quốc" này đã đơn giản hóa thực tế.
Thay vào đó, cần nhìn nhận rằng Việt Nam – cũng như Triều Tiên và thậm chí Nhật Bản – nằm trong một vị trí đặc thù: từng là một phần của, và luôn phải đối diện với, đế chế khổng lồ mà Trung Hoa đã tạo dựng từ thời Hán (206 TCN – 220 CN). Giống như người Frank và người German (Giéc-manh) đối diện với đế chế La Mã cùng thời, người Việt đã vay mượn nhiều yếu tố từ Trung Quốc. Người Triều Tiên và người Nhật cũng từng làm như vậy ở những thời điểm khác nhau.
Tuy nhiên, điểm khác biệt là ở chỗ Đế chế La Mã đã sụp đổ vào thế kỷ 5, trong khi đế chế Trung Hoa thì vẫn luôn tồn tại cho đến nay. Họ luôn có khả năng tái lập và thậm chí mở rộng quyền lực của mình.
Nguồn hình ảnh, Getty Images. Công cuộc chinh phục lãnh thổ của người Việt đã dẫn tới sự biến mất của các quốc gia phương nam
Người Việt, cũng như người Triều Tiên, vừa vay mượn từ Trung Hoa để xây dựng quốc gia và văn hóa riêng ở vùng ngoại vi đế chế, vừa phải luôn đề phòng nguy cơ bị kéo ngược trở lại trật tự cũ do Trung Quốc áp đặt. Điều này khiến người Việt luôn tự thuyết phục rằng mình không phải là người Trung Hoa, dù vẫn dựa vào những mô hình từ Trung Quốc, nhưng đồng thời tự xem mình như sứ giả của một nền văn minh "ưu việt" mà họ truyền bá xuống phương Nam thông qua quá trình bành trướng thuộc địa của chính mình. Đó là một hành động cân bằng độc đáo, khó khăn nhưng cũng đầy cuốn hút.
Người Pháp và người Đức không bao giờ phải lo La Mã quay trở lại để nghiền nát họ, hay chế giễu việc họ vay mượn thể chế, thần thoại, ngôn ngữ La Mã, hoặc tự xưng là "Caesar mới" trong châu Âu hậu La Mã với các danh hiệu như Tsar, Czar và Kaiser. Nhưng người Việt thì phải – và phải liên tục – đối mặt với điều này.
Ngày nay, những người cộng sản Việt Nam cũng rơi vào một tình huống tương tự. Họ đã vay mượn rất nhiều từ các mô hình và phương thức cộng sản Trung Quốc, từ cách tổ chức quân sự, xây dựng nhà nước độc đảng, cho đến – kể từ sau cải cách kinh tế thập niên 1980 – việc điều chỉnh kinh tế thị trường nhằm duy trì sự cai trị chuyên chế của đảng cộng sản. Song lãnh đạo Việt Nam vẫn làm điều đó bất chấp bối cảnh giới lãnh đạo cộng sản Trung Quốc đang tìm cách mở rộng đế chế của mình vượt ra ngoài phạm vi lục địa.
Mối quan hệ lịch sử giữa Việt Nam và Trung Quốc – dù trong khuôn khổ cộng sản hay Nho giáo – đặt các nhà lãnh đạo Việt Nam vào tình thế vừa phải dựa vào mô hình Trung Quốc để duy trì quyền lực trong nước, vừa phải đối phó với sự bành trướng của đế chế Trung Hoa trên trường quốc tế.
Thế cân bằng này càng trở nên khó khăn khi các lực lượng đối lập trong nước tìm cách làm suy giảm uy tín của đảng bằng việc chỉ ra sự lệ thuộc vào mô hình Trung Quốc.
- Tác giả Christopher E. Goscha là một nhà sử học người Mỹ-Canada, hiện là giáo sư chính tại Đại học Québec à Montréal (UQAM), nơi ông giảng dạy lịch sử quan hệ quốc tế, chiến tranh Việt Nam và lịch sử thế giới. Ông chuyên nghiên cứu về Chiến tranh Lạnh ở châu Á, quá trình phi thực dân hóa và các cuộc chiến tại Việt Nam. Goscha bảo vệ luận án tiến sĩ tại École Pratique des Hautes Études (Pháp) năm 2000 với đề tài về Chiến tranh Đông Dương trong bối cảnh xuyên quốc gia. Ông đã biên soạn và xuất bản hơn một chục đầu sách, trong đó có Historical Dictionary of the Indochina War (1945–1954), được tạp chí Choice xếp vào danh sách "Outstanding Academic Titles 2012" (Sách học thuật xuất sắc năm 2012). Năm 2016, Goscha xuất bản cuốn Vietnam: A New History, đoạt giải John K. Fairbank 2017 và được đánh giá là một trong những công trình toàn diện nhất bằng tiếng Anh về lịch sử Việt Nam hiện đại. Gần đây, ông tiếp tục gây tiếng vang với The Road to Dien Bien Phu: A History of the First War for Vietnam, một khảo cứu nhiều chiều cạnh về chiến thắng Điện Biên Phủ của Hồ Chí Minh trước thực dân Pháp – sự kiện được xem như đã báo trước trải nghiệm của Mỹ tại Việt Nam sau này.
XEM THÊM:
Lê Thị Thu Hằng, Thứ trưởng ngoại giao trả lời phỏng vấn
https://www.nhatbaovanhoa.com/a12121/le-thi-thu-hang-thu-truong-ngoai-giao-tra-loi-phong-van
Hà Nội: Thứ trưởng Ngoại giao VN Lê Thu Hằng tổ chức Hội nghị 4 với “hơn 400 Việt kiều yêu nước” về tham dự
Kết quả 2 năm triển khai thực hiện Kết luận số 12-KL/TW về công tác người Việt Nam ở nước ngoài
XEM THÊM:
Vua Minh Mạng của Marcel Gaultier
Nguyễn Quang Diệu - nguyenquangdieubtv@gmail.com
22/05/2021
https://thanhnien.vn/vua-minh-mang-cua-marcel-gaultier-1851070065.htm

Vua Minh Mạng là người kế vị vua Gia Long, mang lại trật tự, hòa bình, bảo vệ và hoàn thành sự nghiệp dang dở của vua cha, đưa đất nước trở lại khuôn khổ truyền thống Nho giáo.
Khác biệt đường lối giữa Gia Long và Minh Mạng
Sau cái chết của Đông cung Cảnh, xảy ra vào ngày 20.3.1801 tại Gia Định, hoàng tử Hy cũng qua đời hai tháng sau đó, vua Gia Long chọn người kế vị là hoàng tử Đảm thay vì chọn hậu duệ của Đông cung Cảnh, bất chấp ý kiến của cận thần.
Nguyễn Phúc Đảm sinh ngày 25.5.1791, tại chùa Khải Tường (Gia Định), là con trai thứ tư của vua Gia Long. Mười tuổi Đảm mới về Huế, về sau trở thành vua Minh Mạng - một nhân vật cải cách lớn bởi tính cách mạnh mẽ của mình và cũng chính ông đã có những can thiệp nhằm xác lập lại trật tự ở vùng đất nơi mình chào đời.
Viết về vua Minh Mạng, trước đó không có gì nhiều ngoài sử biên niên của triều đình và một số ghi chép bấy giờ mang tính hạ thấp ông: vị vua màu mè, sầu thảm, độc ác, vô cảm…
Theo học giả Pháp Marcel Gaultier, các đánh giá về vua Minh Mạng trước đây chưa đúng. Trong cuốn sách Vua Minh Mạng xuất bản năm 1935, Gaultier đặt Minh Mạng vào đúng bối cảnh lịch sử, xã hội Việt Nam trong thời đại và thế kỷ ông sống để phân tích tính cách, tư duy, đường lối, quan điểm cũng như những thành quả và thất bại trong khoảng thời gian ông cai trị nước Việt Nam (đến năm 1839 đổi quốc hiệu thành Đại Nam).
Gia Long là người thân Pháp, chấp nhận Cơ Đốc giáo, chấp nhận cho hoàng tử Cảnh cải đạo theo đạo Cơ Đốc. Minh Mạng coi sự bành trướng Cơ Đốc giáo là hiểm họa đối với nền độc lập của quốc gia. Minh Mạng là người của thế giới cũ trong một xã hội mới, theo đuổi chính sách tự cô lập, khước từ phương Tây theo tư duy của một sĩ phu mà ông được giáo dục từ nhỏ.
Đời vua Gia Long, dù có lịch sử thân Pháp nhưng không có sứ bộ Việt Nam nào đi ra nước ngoài. Đời vua Minh Mạng dù đàn áp tín đồ Cơ Đốc giáo, không thân phương Tây nhưng lại có rất nhiều sứ bộ ra nước ngoài để thực hiện các hoạt động ngoại giao, cũng là quan sát văn minh phương Tây, nhằm canh tân đất nước.
Vì lý do chính trị và bị thúc đẩy bởi những tình cảm cá nhân - từng nhận sự giúp đỡ của giám mục Adran và nhiều người Pháp khác lúc dấy nghiệp - vua Gia Long đối đãi họ tử tế. Khác với vua cha, hoàng tử Đảm bày tỏ ý định gửi trả về nước những giáo sĩ ngoại quốc, đóng hải cảng, ngưng giao thương với người châu Âu, muốn xây dựng Việt Nam thành một cường quốc đối lập với mọi ảnh hưởng Tây phương, qua đó phục hưng tinh thần An Nam xưa, “phục hồi lại trong đất nước chủ nghĩa thuần túy hài hòa với những điển lệ Khổng giáo”. Nhận định về điều này, trong cuốn Vua Gia Long, Gaultier cho rằng Nguyễn Phúc Ánh “bí mật khuyến khích một quan điểm chính trị mới [của hoàng tử Đảm] mà những cam kết và lòng biết ơn thật sự với những người Pháp ngăn cản ông tự thân theo đuổi”. (tr. 157)
Để tưởng thưởng cho các công thần theo mình trong cơn hoạn nạn buổi đầu, vua Gia Long đặt ra một đẳng cấp quý tộc mang tên “Minh nghĩa công thần”. Không thuận theo ý nguyện của vua cha, vua Minh Mạng đã loại bỏ hệ thống đẳng cấp này vì lo rằng “sẽ hình thành một giai cấp quý tộc truyền tử lưu tôn có khả năng một ngày kia làm nguy hại đến vương quyền”.
Bìa sách Vua Minh Mạng. Ảnh: Nguyễn Quang Diệu
Vùng đất phía nam dưới triều Minh Mạng
Gia Định là nơi Nguyễn Phúc Ánh ẩn náu trước các cuộc tấn công của quân Tây Sơn, cùng với người Pháp thì người dân Gia Định đã góp công lớn giúp Nguyễn Phúc Ánh thống nhất sơn hà. Người xuất thân từ vùng đất Gia Định cũng trở thành tầng lớp thống trị ở triều đình Huế.
Triều đình Huế lúc đó cai quản đất nước bằng hai cách: trực trị và gián trị. Trực trị từ Ninh Bình vào đến Bình Thuận hiện nay, gồm 4 dinh và 8 trấn; gián trị 11 trấn ở phía bắc (gọi là Bắc thành, 1802 - 1831) và 5 trấn ở phía nam (gọi là Gia Định thành, 1808 - 1832). Tổng trấn Bắc thành Nguyễn Văn Thành có quyền: “cai trị mười một trấn; quyết định việc tố tụng và chỉ định, tùy nghi sa thải các quan lại, chỉ cần quan tổng trấn trình báo với triều đình sau khi đã thi hành quyết định”. Tổng trấn Gia Định thành Lê Văn Duyệt còn chịu trách nhiệm thanh sát và kiểm soát nước láng giềng Chân Lạp, duy trì Gia Định như một kho dự trữ về kinh tế... Phần lớn quan tổng trấn, phó tổng trấn và hiệp trấn đều là người gốc Gia Định và xuất thân võ quan.
Gần 30 năm, người gốc Gia Định là những anh hùng và chiếm giữ những vị trí quan trọng trong triều đình trung ương và chính quyền địa phương. Trong nhận định của vua Minh Mạng, đất Gia Định hoàn toàn do Lê Văn Duyệt kiểm soát, uy tín của ông quá lớn, cho nên từng bước giảm bớt quyền lực của Lê Văn Duyệt là mục tiêu dài hạn ông nhắm tới. Sau cải cách hành chính 1831 -1832 dưới thời Minh Mạng, Gia Định thành bị bãi bỏ, Minh Mạng cho thắt chặt các hoạt động truyền đạo Cơ Đốc, tấn công nhóm người được Lê Văn Duyệt bảo trợ lúc còn sống... Kế đó (1833) nổi lên loạn Lê Văn Khôi (con nuôi Lê Văn Duyệt) kéo dài trong hai năm, từ đó người Gia Định không chỉ mất vai trò chủ động trong hoạt động chính trị ở trung ương, mà triều đình Huế do Minh Mạng đứng đầu còn coi vùng này như miền đất di thực.
Để đưa Gia Định thành hòa nhập chung với toàn quốc và gò ép vào khuôn phép Nho giáo, vua Minh Mạng đã thực thi những chính sách: giáo hóa người phương Nam, “Việt hóa” các nhóm sắc tộc (mở rộng lãnh thổ sang Chân Lạp…) và chính sách đạc điền mới; lập nhiều trường học, mở các khoa thi, ban bố các huấn điều chuẩn mực đề cao đạo đức và luân lý Khổng giáo, đưa dần văn quan được giáo dục theo tư tưởng Khổng giáo vào giữ vai trò chủ động trong chính quyền Gia Định...
Marcel Gaultier còn đề cập đến một số sự kiện binh biến rải rác khác trong cuốn sách Vua Minh Mạng vừa được Đỗ Hữu Thạnh dịch sang Việt ngữ (Omega+ và NXB Hà Nội vừa ấn hành tháng 3.2021). Dù là sách không quá chuyên sâu, viết cho độc giả Pháp bấy giờ đọc, song cũng mang đến nhiều thông tin và nhận định thú vị.

XEM THÊM:
Bảng Tuyên Cáo của Vua Tự Đức ngày 1-3-1861
Từ ba năm nay ngừoi Pháp đến quấy rối ta tại Gia Định, noi đây họ đã phá thành, giết hại và đánh đuổi quân sỉ phòng thủ của ta. Tất cả thần dân có thấy phẩn nộ hay không, ta tuởng rằng toàn dân nhất là những ai ở Nam Kỳ miền duới sẽ sẳn sàng hợp tác với quân sỉ để trả thù cho những nơi bị địch đánh bại. Nguời Pháp không phải cùng một giống dân với ta, họ áp bức chúng ta, hãm hiếp phụ nữ ta. Tất cả những ai bất nhẩn vì những việc này hãy quay về hợp tác với Trẩm.
Trong số các ngươi có ai muốn thờ họ và theo đuôi họ không?
Truớc đây, ta đã đưa ra một bản tuyên cáo cho chính quyền sáu tỉnh, trong đó ta đã báo rằng:
Tất cả công bộc phải tuân lệnh ta, phải lo kêu gọi dân chúng nổi lên để tổ chức nghĩa quân theo những thể thức nhu sau:
Ai kết nạp đuợc 10 nguời thì phong chức bá hộ.
Ai kết nạp đuợc 50 nguời thì đuợc phong chức Chánh Lục Phẩm xuất đội. Đuợc lảnh khẩu phần của nhà nuớc và đuợc cấp khí giới để tập luyện.
Ai kết nạp đuợc 100 nguời sẽ đuợc phong Phó Vệ.
Ai kết nạp đuợc từ 200 đến 400 sẽ đuợc phong chức tương xứng với số nguời kết nạp.
Ai kết nạp đuợc một đạo quân 500 nguời sẽ đuợc phong làm Chánh Nguyên Phẩm Cơ.
Nếu ai bắt đuợc một nguời Pháp sẽ đuợc thuởng 4 luợng bạc.
Nếu ai giết đuợc một nguời Pháp sẽ đuợc thuởng 2 luợng bạc.
Nếu ai giết đuợc một nguời An Nam theo Pháp sẽ đuợc thuởng một luợng bạc.
Hứa hẹn như thế, tức chúng ta muốn huy động toàn dân chống lại nguời Pháp. Tại Gia Định đa có 308 nguời can truờng theo về với Quan Quân của chúng ta.
Ở Vỉnh Long đã có hơn 140 nguời. Chưa kể năm đạo quân chính quy và một đoàn nghỉa quân truớc kia ở Sài Gòn nay đa quy tụ về Biên Hòa, ngoài ra còn có năm đoàn nghĩa quân đang bí mật thành lập.
“Chẳng lẽ vận hạn của ta cứ đeo đẳng ta mãi hay sao?”
Hôm nay chúng ta hiểu rằng những khó khăn lớn nhất là ở Gia Định và Định Tuờng, chúng ta đã mất hai thị xã cuả hai tỉnh này. Chúng ta nghỉ rằng những ai đã quay về trong lòng gia đinh họ là điều phải, nhưng đã đến lúc cần đồng loạt đứng lên theo về với Trẩm. Trẩm sẽ hân hoan đón ruớc để cùng nhau đánh đuổi nguời Pháp ra khỏi các tỉnh của Trẩm. Sau này, khi chiến thắng sẽ thăng thuởng xứng đáng để an huởng trong hòa bình.
Hoàng Đế Tự Đức
XEM THÊM TÀI LIỆU:

CỔNG MỤC NAM QUAN từ Viet Nam nhìn qua Trung Quốc.

TONKIN – ĐỒNG ĐĂNG nhìn từ đất Việt Nam. (Card Postale 1906)