Hà Văn Thùy: Ngôn ngữ học lịch sử đi về đâu?

08 Tháng Tư 20247:14 SA(Xem: 4971)

VĂN HÓA ONLINE – DIỄN ĐÀN 4 – THỨ HAI 08 APRIL 2024


Ngôn ngữ học lịch sử đi về đâu?


(Trao đổi với một Phó Giáo sư Tiến sĩ Ngôn ngữ học)

image003

Hà Văn Thùy


Năm 2008, tôi công bố chuyên luận Tiếng Việt chủ thể tạo nên ngôn ngữ Hán, một khảo cứu mang ý nghĩa lật đổ quan niệm hiện hành về nguồn gốc ngôn ngữ phương Đông. Năm 2011, tôi cho ra tiếp tiểu luận Lâu Đài Sụp Đổ Suy Ngẫm Từ Công Trình Khoa Học Lớn, phê bình cuốn Nguồn gốc và quá trình hình thành cách đọc Hán-Việt của Giáo sư Nguyễn Tài Cẩn.


Ngay sau đó, tôi gửi thư tới chư vị Viện trưởng Viện Ngôn ngữ học và Viện trưởng Viện nghiên cứu Hán Nôm, thưa rằng, “ý kiến của tôi có thể sai. Xin quý vị xem xét, nếu thấy sai thì công bố cho mọi người biết để khỏi hoang mang. Còn nếu đúng…”


Năm 2012, khi có thêm tư liệu về chữ bùa chú khắc trên đá 4000-6000 năm trước của người Lạc Việt tại Cảm Tang Quảng Tây, tôi đăng bài Lịch sử hình thành chữ viết Trung Hoa. Tiếp đó là bài Không có cái gọi là từ Hán Việt. Năm 2015 tôi công bố tiếp bài Phải chăng tiếng Việt chỉ có 1200 năm lịch sử, phê bình bài viết Thử phân kỳ lịch sử 12 thế kỷ của tiếng Việt của GS Nguyễn Tài Cẩn.


Là kẻ ngoại đạo, buộc phải chen ngang vào lĩnh vực khoa học cao sang, tôi luôn biết mình là một tay mơ, cần được những vị học giả uyên thâm chỉ bảo. Nhất là sau những bài phê bình vị giáo sư có quá nhiều học trò thành danh lớn Nguyễn Tài Cẩn, tôi nghĩ búa rìu sẽ bổ xuống đầu mình. Không chỉ vì chân lý khoa học mà còn vì cái nghĩa tôn sư… Nhưng thật buồn vì đã độc thoại trước sa mạc!


Mới đây, một người bạn gửi cho tôi lá thư ngắn của một PGS.TS Ngôn ngữ học trao đổi với ông. Lần đầu tiên được nghe một người trong nghề, một học giả có môn bài nhận xét về mình, tôi đọc một cách nghiêm cẩn. Đọc xong thì hiểu rằng đây cũng là quan điểm chung của các nhà ngôn ngữ học. Mạn phép ông, trình với công chúng (xin đọc ở dưới) và thưa lại đôi lời.


Vị PGS.TS viết: “dân chuyên môn không chịu bàn đến lý thuyết của anh Thùy không phải vì nó đúng hay sai.  Trong bóng đá, như thế nào thì gọi là việt vị, như thế nào thì gọi là đá phạt, v.v. đã được tất cả mọi người xem bóng đá và chơi bóng đá chấp nhận. Nếu có một anh xông vào cãi, với cách hiểu riêng của anh ta, thì chắc chắn không ai cãi lại với anh ta làm gì. Ngôn ngữ học cũng vậy, có "luật chơi" của nó. Muốn xác định hai ngôn ngữ có quan hệ họ hàng, nhà nghiên cứu phải tuân thủ một quy trình chặt chẽ đã được Franz Bopp khởi xướng từ đầu thế kỷ 19 và đã được kiểm nghiệm qua mấy trăm năm nghiên cứu của các học giả Đông Tây, chứ không phải một "quy trình" tự nghĩ ra, phủ định mọi quy tắc làm nền tảng cho một ngành như Ngôn ngữ học lịch sử.”


Không khó để nhận ra sự ngụy biện của tác giả khi ví đá banh với nghiên cứu ngôn ngữ. Đá banh là trò chơi do con người bày ra cùng với những luật chơi; còn nghiên cứu ngôn ngữ là việc khám phá bí mật của quá khứ. Một công việc mà không ai có quyền đặt ra luật lệ, tất cả đều bình đẳng trong nghiên cứu mà trọng tài duy nhất là chân lý!


Tác giả nói: “Muốn xác định hai ngôn ngữ có quan hệ họ hàng, nhà nghiên cứu phải tuân thủ một quy trình chặt chẽ đã được Franz Bopp khởi xướng từ đầu thế kỷ 19 và đã được kiểm nghiệm qua mấy trăm năm nghiên cứu của các học giả Đông Tây.” Nhưng sự thật thì sao? Cái “quy trình chặt chẽ” ấy cộng với biết bao học giả mà sau 150 năm không xếp được tiếng Việt vào họ ngôn ngữ nào, nói lên điều gì?! Phải chăng đó là một trò chơi vô tích sự?


Được biết, từ giữa thế kỷ XIX, cùng với nhân chủng học, văn hóa học… môn Ngôn ngữ học lịch sử ra đời với mục đích chủ yếu là tìm hiểu quá trình hình thành ngôn ngữ để tìm ra nguồn gốc các tộc người. Với tiếng Việt thì như PGS.TS viết: “Vấn đề nguồn gốc tiếng Việt đã có một lịch sử nghiên cứu 150 năm; trong đó, lý thuyết của Schmidt bị lý thuyết của Maspéro thay thế trong 40 năm; rồi lý thuyết của Maspéro bị Haudricourt đánh đổ; đến lượt nó, lý thuyết của Haudricourt mặc dầu cho đến nay được chấp nhận nhưng được rất nhiều học giả bàn luận sôi nổi và bổ sung, chỉnh lý.”


Vậy, “bổ sung, chỉnh lý” thế nào?


Mới đây tôi nhận được bài viết nhan đề: What Makes Chinese so Vietnamese? An Introduction to Sinitic-Vietnamese Studies. Chữ “so” ở đây quá linh động nên có thể tạm dịch: Điều gì làm cho tiếng Trung Quốc giống (như, với) tiếng Việt. Giới thiệu về nghiên cứu ngôn ngữ Trung-Việt. Bằng nhiều chứng cứ khó bác bỏ, tác giả chứng minh: tiếng Việt thuộc họ ngôn ngữ Hán-Tạng!


Điều gì diễn ra vậy? Tại sao sau 150 năm lao tâm khổ tứ nghiên cứu mà hôm nay mèo lại hoàn mèo: Tiếng Việt từ gia đình Sino-Tibétan lại trở về họ Hán-Tạng?! Trong Vật lý học, việc di chuyển một điện tử về đúng điểm xuất phát, công thu được bằng không (zero). Cũng vậy, sau 150 năm, Ngôn ngữ học lịch sử giúp gì cho tiến bộ của nhận thức? Một sự thật không thể phản bác: khi xếp tiếng Annam vào họ Hán-Tạng, Schmidt đưa ra nhiều dẫn chứng, khiến cho học giả thế giới tâm phục khẩu phục. Đến lượt mình, Maspéro rồi Haudricourt cũng thế! Và hôm nay? Khó lòng bác bỏ tác giả mới này!


Chỉ một ngôn ngữ Việt Nam mà vừa xếp lọt rồi lại bị đẩy ra hết khuôn này tới khổ kia, trong bốn họ ngôn ngữ, nói lên điều gì? Chẳng phải là có sự giống nhau, sự tương đồng lớn giữa chúng đồng thời là sự khác biệt quan trọng khiến cho tiếng Việt không chấp nhận bất cứ cái khuôn nào người ta áp đặt cho nó?


Thực trạng đó khiến ta không thể không nhận ra, suốt thế kỷ rưỡi qua, những bậc thầy của Ngôn ngữ học kia hoạt động một cách vô thức như những ông thày mù sờ voi! Mục đích tối hậu là tìm nguồn gốc dân cư phương Đông qua tiếng nói không thực hiện được, vậy thì kết quả của 150 năm học thuật là gì? Phải chăng chỉ là dã tràng xe cát?


Jared Diamond, nhà nhân học lớn của nước Mỹ có câu nói đáng suy ngẫm: “Những gì thuộc về con người mà không được di truyền học xác nhận, đều không đáng tin cậy!” Hơn những cục đá, những mảnh gốm, ngôn ngữ gắn bó mật thiết với con người. Nhưng hơn cả những hòn đá, những mảnh gốm, tiếng nói vô cùng linh động. Vâng, tiếng nói của mỗi tộc người bày ra giữa thanh thiên bạch nhật đấy nhưng làm sao biết mối liên hệ giữa chúng? Phải hàng tháng, có khi hàng năm, nhà ngôn ngữ học đi điền dã ghi âm, rã băng, lên phiếu rồi phân tích âm tiết, âm vị từng chữ, thống kê rồi khảo sát cú pháp… mới có thể tạm xác nhận hai ngôn ngữ ấy là anh em. Chấm hết! Không thể nói đâu là con đâu là mẹ! Trong khi đó, nhà di truyền học chỉ cần lấy mẫu nước miếng vài chục người của mỗi cộng đồng, đem về phòng thí nghiệm là tìm ra chính xác mối quan hệ gữa họ. Một khi khoa học công nghệ đã đạt độ chính xác như vậy thì cái việc truy theo ngôn ngữ để tìm mối quan hệ giữa các cộng đồng người liệu có còn ý nghĩa?


Hôm nay, bằng cách đọc cuốn thiên thư ADN được tạo hóa ghi lại trong máu huyết con người, khoa học phát hiện: trong cây phả hệ các dân tộc phương Đông, người Việt Nam nằm ở gốc. Tày-Thái, Môn-Khmer, Nam Á, Hán-Tạng… cũng chỉ là con cháu Lạc Việt mang mã di truyền haplogroup O1 (Y-DNA). Là sản phẩm hoạt động xã hội của con người, nên ngôn ngữ Lạc Việt cũng là mẹ của mọi ngôn ngữ châu Á. Tiếng Việt Nam là sự thừa kế trực hệ của ngôn ngữ Lạc Việt nên dù có gần gũi với các hệ ngữ khác nhưng do là gốc, là mẹ nên “độ phủ sóng” của nó lớn, không thể xếp nó “trọn gói” vào bất cứ họ ngôn ngữ con cháu nào! Thất bại của Ngôn ngữ học lịch sử là ở chỗ chỉ xác định sự gần gũi giữa hai ngữ mà không thể khẳng định đâu là mẹ, đâu là con giữa chúng. Trong khi điều này mới là mục đích của việc nghiên cứu ngôn ngữ. Có ai đó từng đưa ra lời khuyên minh triết, đại ý: “Đừng tìm nguồn gốc ngôn ngữ nơi những cộng đồng người đông đảo sống trên bình nguyên mênh mông mà hãy tìm nơi những bộ lạc nhỏ bé cư trú giữa rừng sâu núi thẳm hẻo lánh.” Đúng thế, mấy trăm năm nào có ai ngờ, tổ tiên của cái thứ tiếng “trọ trẹ” miền Thanh Nghệ lại là cội nguồn ngôn ngữ phương Đông?!


Như vậy phải chăng, Ngôn ngữ học lịch sử là một trò chơi xa xỉ sản sinh ra quá nhiều học giả nhưng lại đưa học thuật lạc đường?


Bình Nguyên Lộc là một thí dụ. Do ngộ nhận ngôn ngữ tỷ hiệu (tên gọi một thời của Ngôn ngữ học so sánh) là phép màu giúp tìm nguồn gốc dân tộc nên ông bỏ ra 10 năm học các tiếng Đông Nam Á để rồi “khám phá ra châu Mỹ” bằng đề xuất: Nguồn gốc Mã Lai của dân tộc Việt Nam!


Nguyễn Tài Cẩn là thí dụ khác. “Công trình” Nguồn gốc và quá trình hình thành cách đọc Hán Việt đưa ông lên đỉnh cao chót vót của Ngôn ngữ học Việt Nam nhưng lại là sai lầm thê thảm! Chỉ nguyên việc “phát minh” ra lớp từ Hán cổ cùng lớp từ Hán Việt Việt hóa trong tiếng Việt đã khiến ông vượt qua tất cả các bậc thầy của mình trong việc xuyên tạc văn hóa dân tộc!


Tại sao người thầy đức độ, có tâm, có tài ấy lại sai? Câu hỏi dằn vặt tôi mỗi khi nhớ tới những mùa Đông nơi rừng núi Thái Nguyên. Ngọn đèn dầu đêm thâu của thầy bên cô giáo Nôna rị mọ trên những phiếu tư liệu cho cuốn sách tương lai, từng sưởi ấm lòng chúng tôi. Có lẽ, trong số các nhà Ngôn ngữ học Việt Nam, khó ai có được cuộc nghiên cứu quy mô, bài bản như thầy. Không chỉ thầy với trí tuệ hàng đầu mà bên thầy còn người bạn đời, người cộng tác tài năng nhiều năm cùng miệt mài làm việc. Rồi tôi hiểu. Cái sai của thầy thuộc về phương pháp luận. Do bị cuốn vào vòng xoáy ma mị của Ngôn ngữ học lịch sử, thầy đã không tìm được đường ra! Cái sai của thầy bộc lộ sự thất bại của phương pháp luận nghiên cứu Ngôn ngữ học lịch sử. Thầy sai còn do học trò quá thụ động, không ai hỏi lại thầy câu hỏi thường tình nhất: “Việt là dân sông nước, phải vẽ mình để tránh giao long. Lẽ nào không có thuyền, buồm mà lại phải mượn “buồm” của dân đồng cỏ, chuyên chăn cừu cưỡi ngựa? Hay: “Maspéro nói tiếng Việt mượn 70% từ tiếng Hán. Bây giờ thêm lớp từ Hán cổ và Hán Việt Việt hóa nữa thì tỷ lệ vay mượn là bao nhiêu? Lẽ nào khi chưa gặp người Hán thì tiếng nói của tổ tiên ta nghèo đến vậy?” Thầy sai còn vì lẽ, mấy ông mắt xanh mũi lõ tít trời Tây luôn kích lệ người học trò thuộc bài! Nay ý tưởng của thầy tràn lan trên các giáo trình giáo án. Làm thế nào gột rửa di hại của thầy? Thí dụ khác là các bậc Schmidt, Maspéro rồi Haudricourt… những ông xẩm vĩ đại trong lịch sử khoa học! Là những học giả uyên bác nhưng do hạn chế của tri thức thời đại khiến các ông hoang tưởng đẻ ra một trò chơi vô tích sự!


Thực tế là thước đo kiểm định mọi lý thuyết! Nay khi khoa học tự nhiên đã làm xong công việc của nó là khám phá chính xác nguồn gốc loài người cùng quá trình hình thành các sắc dân châu Á thì thiết tưởng, Ngôn ngữ học lịch sử phải được thay đổi. Giống như đứng trước một lâu đài sụp đồ, cùng với việc hót dọn xà bần, người khôn ngoan cố gắng lựa ra những gì hữu ích cho cuộc sống đang tiếp diễn!


Sài Gòn, Trung Thu năm Bính Thân


Hà Văn Thùy


*


Thư của vị PGS.TS Ngôn ngữ học


Sent: Tuesday, September 6, 2016 6:02 PM


“Em phản đối lý thuyết của Hà Văn Thùy. Và chuyện học chữ Hán hay không thực ra không liên quan gì đến lý thuyết của anh Hà Văn Thùy cả.


Chưa có một nhà ngôn ngữ học lịch sử về tiếng Việt nào cho đến nay chịu bàn đến lý thuyết của anh Thùy, điều đó phải có lý do học thuật.


Vấn đề nguồn gốc tiếng Việt đã có một lịch sử nghiên cứu 150 năm; trong đó, lý thuyết của Schmidt bị lý thuyết của H. Maspéro thay thế trong 40 năm; rồi lý thuyết của Maspéro bị Haudricourt đánh đổ; đến lượt nó, lý thuyết của Haudricourt mặc dầu cho đến nay được chấp nhận nhưng được rất nhiều học giả bàn luận sôi nổi và bổ sung, chỉnh lý. Như thế, trong khoa học, các lý thuyết thay thế nhau là chuyện thường.


Vậy dân chuyên môn không chịu bàn đến lý thuyết của anh Thùy không phải vì nó đúng hay sai.  Trong bóng đá, như thế nào thì gọi là việt vị, như thế nào thì gọi là đá phạt, v.v. đã được tất cả mọi người xem bóng đá và chơi bóng đá chấp nhận. Nếu có một anh xông vào cãi, với cách hiểu riêng của anh ta, thì chắc chắn không ai cãi lại với anh ta làm gì. Ngôn ngữ học cũng vậy, có "luật chơi" của nó. Muốn xác định hai ngôn ngữ có quan hệ họ hàng, nhà nghiên cứu phải tuân thủ một quy trình chặt chẽ đã được Franz Bopp khởi xướng từ đầu thế kỷ 19 và đã được kiểm nghiệm qua mấy trăm năm nghiên cứu của các học giả Đông Tây, chứ không phải một "quy trình" tự nghĩ ra, phủ định mọi quy tắc làm nền tảng cho một ngành như ngôn ngữ học lịch sử.


Vài dòng sơ lược như thế, mong anh hiểu.”


XEM THÊM:


Xin trả lại vinh quang cho người Lạc Việt


https://www.nhatbaovanhoa.com/p186a12204/xin-tra-lai-vinh-quang-cho-nguoi-lac-viet
10 Tháng Bảy 2014(Xem: 22291)
Những người bạn trẻ mới ra tù như Nguyễn Tiến Trung và Đỗ Thị Minh Hạnh đều thốt lên với gương mặt rạng rỡ đến ngỡ ngàng “Thật không thể tin nổi!”.
08 Tháng Bảy 2014(Xem: 23503)
Một nhà nghiên cứu hải quân của Mỹ nhận định trên nhật báo New York Times rằng Trung Quốc nhiều khả năng sẽ chiến thắng ‘trong mọi kịch bản có thể’ nếu xảy ra chiến sự với Việt Nam.
06 Tháng Bảy 2014(Xem: 22488)
Để có một xã hội dân sự đúng nghĩa và hiệu quả, Tự do Ngôn luận là một quyền không thể thiếu. Một khi chính kiến và ý kiến của mọi thành phần xã hội có được môi trường biểu hiện một cách tự do, thì tinh thần dân chủ mới có điều kiện thực thi.
03 Tháng Bảy 2014(Xem: 24482)
Nhà báo Bùi Tín hiện sống tự do ở Pháp, là một nhà báo chuyên nghiệp, một nhà bình luận thời sự quốc tế, và là cộng tác viên thường xuyên của đài VOA. Đối tượng chính của nhà báo Bùi Tín là giới trí thức trong và ngoài nước, đặc biệt là tuổi trẻ Việt Nam quan tâm đến quê hương tổ quốc.
01 Tháng Bảy 2014(Xem: 23197)
Năm 16 tuổi, tôi tình nguyện đi bộ đội khi bom Mỹ ném quanh Hà Nội và cuộc chiến trực tiếp cầm súng đã làm tôi hết cả tuổi xanh. Hòa bình trở về, bao nhiêu năm sau, nỗi ám ảnh bởi những gì trải qua trong chiến tranh luôn gây cho tôi những cơn mơ khủng khiếp
29 Tháng Sáu 2014(Xem: 20784)
Trung Quốc tiếp tục leo thang gây căng thẳng tại Biển Đông : Phát hành bản đồ « đường 10 đoạn » nuốt gọn 80% biển Đông Nam Á, đưa thêm 4 giàn khoan dầu vào khu vực, sử dụng hàng trăm tàu thuộc lực lượng tuần duyên trấn áp cảnh sát biển Việt Nam. Bắc Kinh thật sự tính toán gì ?
26 Tháng Sáu 2014(Xem: 20828)
- Gần 2 tháng bị phản đối vì đặt trái phép giàn khoan 981, Trung Quốc không lùi bước mà kéo thêm 4 giàn khoan ra Biển Đông, có nhiều tuyên bố phá vỡ nguyên trạng hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc chủ quyền Việt Nam, diễn biến tiếp tới theo ông sẽ là gì?
22 Tháng Sáu 2014(Xem: 20244)
Trao đổi với báo chí trước thềm hội thảo tại Đà Nẵng, GS Nguyễn Quang Ngọc, Phó Chủ tịch Hội khoa học lịch sử VN, chia sẻ những thách thức khi biến những bằng chứng lịch sử thành chứng cứ pháp lý trong trường hợp VN kiện TQ ra tòa về những hành động xâm phạm chủ quyền.
20 Tháng Sáu 2014(Xem: 24986)
Cách đây hơn một năm, các em trường PTTH Nguyễn Hiền – Sài Gòn đã có một bữa tiệc ăn mừng bằng hành động xé đề cương ôn thi sử ném xuống sân trường, khi nghe thông báo môn lịch sử không đưa vào môn thi tốt nghiệp PTTH kỳ thi năm 2013 (http://tuoitre.vn/).
13 Tháng Sáu 2014(Xem: 23240)
Hiệp định Genève 1954 là hiệp định được kí kết để khôi phục hòa bình ở Đông Dương. Vào ngày 26 tháng 4 năm 1954, hội nghị Genève về Đông Dương chính thức được khai mạc.
09 Tháng Sáu 2014(Xem: 44876)
(1) Đào Tiến Thi: Số phận Lê Chiêu Thống và đoàn tòng vong trên đất Trung quốc Bất cứ ai, chỉ cần qua ghế nhà trường cấp 2, cũng đều biết chi tiết trưa ngày mùng năm Tết Kỷ Dậu (1789), Quang Trung cưỡi voi, áo bào xạm đen khói súng, tiến vào Thăng Long, kết thúc cuộc đại phá 29 vạn quân Thanh chỉ có 5 ngày, sớm hơn 2 ngày so với dự định (lúc khao quân ở Nghệ An ngày 30 Tết, Quang Trung hẹn ngày mùng 7 Tết vào Thăng Long mở tiệc ăn mừng).
05 Tháng Sáu 2014(Xem: 26119)
Một chuyên viên nghiên cứu địa chính trị của Viện Nghiên cứu Đông Á (IAO) cho rằng, Trung Quốc còn có nhiều mối quan tâm khác không chỉ trên Biển Đông mà còn trên Biển Hoa Đông, trong khi với Việt Nam, Biển Đông là ‘sống còn’.
25 Tháng Năm 2014(Xem: 25932)
Hôm nay ngày thứ Năm 22-05-2014. Chúng tôi, Lý Kiến Trúc hân hạnh được tiếp xúc với Giáo sư Sử học Đinh Kim Phúc,một nhà nghiên cứu Biển Đông tại Sài Gòn. Trong tình hình thời sự nóng bỏng hiện nay, ý kiến riêng của ông Đinh Kim Phúc thể hiện phần nào suy nghĩ chung của công luận người Việt trong ngoài nước trĩu nặng tấm lòng hướng về tổ quốc.
23 Tháng Năm 2014(Xem: 36117)
Trung Quốc đưa giàn khoan ra chỉ một tháng sau 'lễ thượng cờ' cho hai tàu kilo của Việt Nam "Trung Quốc có chiến lược biên giới mềm [trên biển]. Họ mạnh tới đâu, biên giới của họ ở đó," một nhà nghiên cứu biển có tiếng của Việt Nam nói với tôi như vậy từ cách đây cả 10 năm.
21 Tháng Năm 2014(Xem: 27178)
Công hàm 1958 của TT Phạm Văn Đồng hiện vẫn là “lá bài tẩy” của Trung cộng; Văn Hóa Magazine đăng tải lại 2 bài tranh luận của ông Trần Công Trục, nguyên Trưởng ban Biên giới VN và ông Lý Thái Hùng, Tổng bí thư đảng Việt Tân để rộng đường dư luận.
18 Tháng Năm 2014(Xem: 21029)
Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam tại hội thảo của Bộ Khoa học và Công nghệ sáng 17/5 Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam khẳng định Việt Nam đã tính toán đến mọi phương án, kể cả phương án 'không hòa bình' để giải quyết tranh chấp trên Biển Đông. Phát biểu tại một hội thảo tại Bộ Khoa học và Công nghệ sáng 17/5, ông Đam được truyền thông Việt Nam dẫn lời nói "Trường Sa, Hoàng Sa là của Việt Nam" và việc Trung Quốc chiếm đóng Hoàng Sa là trái phép.
17 Tháng Năm 2014(Xem: 21602)
Ts. Cù Huy Hà Vũ: Không phải riêng tôi mà tất cả mọi người Việt Nam đều rõ chính sách của Trung Quốc đối với biển Đông nói chung và với Việt Nam nói riêng. Từ hằng nghìn năm nay Việt Nam luôn là mục tiêu xâm lược của nhà cầm quyền Trung Quốc. Bao nhiêu triều đại của nước ta đã phải chống chọi với các triều đại Trung Hoa trong suốt chiều dài lịch sử hai nước. Điều này thì ai cũng rõ.
05 Tháng Năm 2014(Xem: 22098)
Ngày 03/5 hàng năm được Liên Hợp Quốc lấy làm ngày tự do về truyền thông trên toàn thế giới. Tự do tự do báo chí, truyền thông và tự do tư tưởng xét đến cuối cùng về mặt nguyên tắc đem lại lợi ích chung cho toàn xã hội kể cả cho nhà nước, theo quan điểm của một nhà nghiên cứu xã hội từ Việt Nam.
16 Tháng Tư 2014(Xem: 21858)
Trả lời BBC từ Hà Nội, nơi ông đang tham dự hội nghị về Việt Nam với sứ mạng gìn giữ hòa bình của Liên Hiệp Quốc, giáo sư Thayer từ Đại học New South Wales, Australia, nói: "Việt Nam chịu sức ép của Hoa Kỳ liên quan tới TPP (Hiệp định Đối tác Kinh tế Xuyên Thái Bình Dương) và Hiệp định [hạt nhân dân sự giữa Hoa Kỳ và Việt Nam] 123 do nhân quyền được coi là điều kiện của cả hai văn bản này.
27 Tháng Ba 2014(Xem: 22507)
“Không phải tính hiếu kỳ đã giết con ngỗng đẻ trứng vàng, mà lòng tham vô độ vượt qua giới hạn của lý trí bình thường – It was not curiosity that killed the goose who laid the golden egg, but an insatiable greed that devoured common sense – E. A. Bucchianeri”