VĂN HÓA ONLINE – ĐIỂM NÓNG A – THỨ NĂM 03 NOV 2022
Ý kiến/Bài vở vui lòng gởi về: lykientrucvh@gmail.com
Thông điệp gì từ chuyến thăm TQ của Tbt Nguyễn Phú Trọng
VOA 03/11/2022
Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng (trái) và Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình dự tiệc trà ở Bắc Kinh hôm 31/10/2022. Nguồn: Vietnam Net.
Chuyên gia nhận định chính sách đối ngoại của Việt Nam không thay đổi sau chuyến thăm Bắc Kinh của ông Trọng nhưng cảnh báo về quyền lực của “nhà lãnh đạo hạt nhân” Tập Cận Bình
Người đứng đầu Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng vừa kết thúc chuyến thăm Trung Quốc mà truyền thông cả hai nước ca ngợi là “thành công tốt đẹp”.
Sự vui mừng về thành công và tầm quan trọng của chuyến thăm Bắc Kinh của ông Trọng, người đang nắm nhiệm kỳ thứ 3 chưa từng có tiền lệ lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam, thể hiện qua việc Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc và Thủ tướng Phạm Minh Chính cùng nhiều lãnh đạo cấp cao khác của Đảng và Nhà nước Việt Nam ra đón ông tại sân bay khi về tới Hà Nội hôm 1/11.
Ông Trọng trở thành nhà lãnh đạo nước ngoài đầu tiên được Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình tiếp đón ngay sau khi Đại hội Đảng, tổ chức mỗi 5 năm một lần, kết thúc. Ngoài ông Tập, người vừa trúng cử chức tổng bí thư Đảng nhiệm kỳ 3 cũng chưa từng có tiền lệ ở Trung Quốc, ông Trọng còn hội kiến tất cả các lãnh đạo cao cấp khác tại Bắc Kinh – gồm Thủ tướng Lý Khắc Cường, Chủ tịch Quốc hội Lật Chiến Thư và Chủ tịch Chính hiệp Uông Dương.
Ông Trọng cùng phái đoàn Việt Nam và các lãnh đạo nhà nước Trung Quốc ở Bắc Kinh đã “đạt được nhiều nhận thức chung quan trọng về quan hệ hai Đảng, hai nước Việt-Trung và tình hình quốc tế” trong các cuộc hội đàm tại Bắc Kinh, theo VietNamNet. Mười ba văn kiện hợp tác trong nhiều lĩnh vực giữa các ban, bộ, ngành, địa phương của Việt Nam và Trung Quốc đã được ký kết trong chuyến thăm của ông Trọng.
Trong Điện cảm ơn gửi ông Tập ngay sau khi về tới Hà Nội hôm 1/11/2022, ông Trọng nói rằng: “Tôi và Đoàn đại biểu cấp cao Đảng, Nhà nước Việt Nam hết sức hài lòng về kết quả phong phú của chuyến thăm” và “tin tưởng chuyến thăm sẽ góp phần định hướng lâu dài cho quan hệ hai Đảng, hai nước” cũng như “góp phần quan trọng vào việc tăng cường tình hữu nghị, sự tin cậy chính trị, tiếp tục đẩy mạnh và làm sâu sắc hơn nữa quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt Nam-Trung Quốc,” theo Báo Điện tử Chính phủ.
Theo Tiến sỹ Hà Hoàng Hợp của Viện nghiên cứu Đông Nam Á ISEAS-Yusof Ishak, có trụ sở ở Singapore, chuyến thăm vừa qua của ông Trọng được coi là “thành công” vì đã đạt được những gì đã đặt ra nhưng không làm thay đổi bản chất quan hệ đối ngoại của Việt Nam.
“Các phía, hai bên Việt Nam và Trung Quốc, đều nói là (chuyến thăm) thành công (nhưng) nếu so sánh với chuyến thăm của ông Trọng (tới Bắc Kinh) hồi tháng 1/2017 đến giờ thì không có gì khác nhau nhiều lắm,” TS Hợp nhận định. “Quan điểm của hai phía về hợp tác giữa hai Đảng vẫn thế, không có gì mới hơn.”
Ông Trọng thăm Bắc Kinh ngay sau khi đắc cử nhiệm kỳ 2 chức tổng bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam hồi đầu năm 2017 và vào cuối năm đó tiếp đón ông Tập tại Hà Nội khi người đứng đầu Trung Quốc thăm Việt Nam ngay sau khi trúng cử nhiệm kỳ 2 lãnh đạo Đảng Cộng sản của nước này.
Xung đột Biển Đông
Trong 5 năm qua, kể từ khi hai lãnh đạo này gặp nhau lần cuối, mối quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc dù phát triển hơn về mặt hợp tác kinh tế nhưng cũng chứng kiến những xung đột về lãnh thổ. Vào năm 2018, không lâu sau khi ông Tập thăm Hà Nội, Trung Quốc đưa tàu thăm dò vào khu vực mà Việt Nam coi là vi phạm chủ quyền lãnh thổ. Sau đó Việt Nam còn nhiều lần cáo buộc Trung Quốc có các hoạt động phi pháp trong vùng biển tranh chấp, gồm cả quân sự hóa các đảo và đâm chìm tàu cá Việt Nam.
Ông Trọng và ông Tập nhắc tới xung đột trên biển khi hội đàm hôm 31/10 và theo báo chí trong nước, hai bên thừa nhận đây là vấn đề còn tồn tại trong quan hệ giữa hai nước.
Vấn đề trên biển cũng được đưa vào Tuyên bố chung được đưa ra ngay sau khi ông Trọng kết thúc chuyến thăm tới Bắc Kinh.
Tuyên bố được VietNamNet đăng toàn văn cho biết, hai bên “đi sâu trao đổi ý kiến chân thành, thẳng thắn về vấn đề trên biển; cho rằng kiểm soát bất đồng, duy trì hòa bình, ổn định ở Biển Đông vô cùng quan trọng.” Theo tuyên bố này, các lãnh đạo của Việt Nam và Trung Quốc “nhất trí xử lý ổn thỏa vấn đề trên biển, đóng góp tích cực cho hòa bình, an ninh lâu dài ở khu vực."
“Phía Việt Nam đề nghị đưa vào Tuyên bố chung rằng vấn đề trên biển là một vấn đề cực kỳ quan trọng trong quan hệ giữa hai Đảng và hai nước và mong muốn rằng hai bên xử lý các vấn đề đó bằng các biện pháp hòa bình và dựa trên luật pháp quốc tế, đặc biệt là Công ước 1982 về luật biển,” TS Hợp, chuyên nghiên cứu về an ninh và chính sách đối ngoại trong khu vực, cho biết.
Theo Tuyên bố chung, hai bên đồng ý tiếp tục thúc đẩy thực hiện toàn diện, hiệu quả Tuyên bố ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) và sớm đạt được Bộ quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC) phù hợp với luật pháp quốc tế, trong đó có Công ước Liên Hợp Quốc về Luật biển (UNCLOS) 1982. Hai bên cũng thống nhất “kiểm soát tốt bất đồng trên biển, không có hành động làm phức tạp tình hình và mở rộng tranh chấp, duy trì hòa bình, ổn định ở Biển Đông và thúc đẩy hợp tác trên biển.”
“Đưa chuyện Biển Đông vào Tuyên bố chung không phải là mới nhưng ngôn ngữ của lần này khác các lần trước,” TS Hợp nhận định. “Ngôn từ (mới) ở chỗ là khẳng định rõ hơn về quan điểm (rằng) vấn đề Biển Đông là vấn đề cực kỳ quan trọng giữa hai Đảng và hai nước (mà) trước đây không có. Điểm này khá mới và thể hiện sự tích cực từ phía Việt Nam và từ phía Trung Quốc nữa.”
Tuy nhiên, TS Hợp cho rằng điều này không đảm bảo rằng Trung Quốc sẽ không gây ra thêm xung đột trên Biển Đông bởi, theo nhà nghiên cứu của ISEAS, ông Tập, sau khi trở thành “nhà lãnh đạo hạt nhân” của Đảng Cộng sản Trung Quốc, có nhiều quyền lực trong tay hơn và sẽ kiên quyết hơn trong chính sách ngoại giao “chiến binh sói lang” vốn bị cộng đồng quốc tế không thiện cảm vì mang hơi hướm thù địch.
“Kết quả Đại hội 20 của Đảng Cộng sản Trung Quốc nói rằng họ sẽ xây dựng một quân đội hùng mạnh nhất thế giới và trong 5 năm tới chắc chắn họ sẽ tăng cường sức mạnh của quân đội,” TS Hợp nói. “Một khi họ tăng cường sức mạnh quân đội thì nó sẽ là rủi ro cho Việt Nam.”
Giáo sư Carl Thayer của Học viện Quốc phòng Úc hồi tuần trước cũng nhận định với VOA rằng dưới sự lãnh đạo của ông Tập, Trung Quốc “sẽ tiếp tục sử dụng các biện pháp ngoại giao, chính trị, kinh tế và cả cưỡng ép để thúc đẩy chủ quyền” trên Biển Đông.
Không liên minh
Việt Nam hiện đang ở trong vòng xoáy của sự gia tăng cạnh tranh giữa Trung Quốc và Mỹ. Quốc gia Đông Nam Á đang phải thận trọng trong quan hệ của mình với cả hai cường quốc. Việc duy trì quan hệ chặt chẽ với Trung Quốc luôn là ưu tiên hàng đầu trong ngoại giao của Việt Nam. Mặt khác, Việt Nam cũng đang nỗ lực phát triển hơn nữa mối quan hệ ngày càng nồng ấm với Mỹ. Mặc dù vậy, theo các nhà quan sát, Hà Nội luôn phải xoa dịu những lo ngại ngày càng gia tăng của Trung Quốc về mối quan hệ Việt-Mỹ đang phát triển nhanh chóng trong những năm gần đây, đặc biệt là quan hệ hợp tác quốc phòng giữa hai nước ở Biển Đông.
Nhiều chuyến thăm của các lãnh đạo cấp cao của Mỹ trong năm qua, đặc biệt là chuyến thăm của Bộ trưởng Quốc phòng Lloy Austin và Phó Tổng thống Kamala Harris tới Hà Nội chỉ trong vòng 1 tháng hồi năm ngoái, cho thấy Washington ngày càng muốn thắt chặt quan hệ với Việt Nam trong lúc tìm cách chống lại sức mạnh và ảnh hưởng ngày càng tăng của Trung Quốc trong khu vực.
Theo tờ The Diplomat, Tổng thống Joe Biden dự kiến sẽ đến thăm Việt Nam trong chuyến công du tới Đông Nam Á cuối tháng này để tham dự các cuộc họp đa phương gồm G-20, Thượng đỉnh Đông Á và APEC. Tờ tạp chí tin tức chuyên về khu vực Ấn Độ-Thái Bình Dương có trụ sở ở Washington DC của Mỹ, nhận định rằng đó là lý do ông Trọng cần phải đi thăm Trung Quốc trước chuyến thăm của Tổng thống Biden tới Việt Nam. Theo tờ báo này, chuyến thăm của ông Trọng là để “thuyết phục Trung Quốc rằng mối quan hệ Trung-Việt vẫn là ưu tiên hàng đầu trong chính sách ngoại giao của Hà Nội.”
Nhà Trắng chưa đưa ra bất kỳ tuyên bố nào về việc Tổng thống Biden sẽ tới thăm Việt Nam trong thời gian tới. Lịch trình của người đứng đầu Nhà Trắng cho thấy ông Biden sẽ tới Ai Cập, Campuchia và Indonesia từ 10 đến 17 tháng này để tham dự các cuộc họp thượng đỉnh và điểm đến Việt Nam không có trong đó. Chính phủ Việt Nam cũng chưa công bố bất kỳ thông tin nào về chuyến thăm của Tổng thống Biden.
Vào năm 2015, hơn một tháng trước khi có chuyến công du đầu tiên tới Mỹ, ông Trọng đã tới Trung Quốc và gặp ông Tập. Theo cựu Đại sứ Mỹ tại Việt Nam Ted Osius từng nói trước đây, Việt Nam luôn phải dè chừng Trung Quốc khi quan hệ với Mỹ. Trong chuyến thăm Washington tháng 7/2015, ông Trọng trở thành nhà lãnh đạo Đảng Cộng sản đầu tiên được tiếp đón tại Nhà Trắng và sự kiện này được xem là mở ra một chương mới trong quan hệ giữa hai cựu thù Việt Nam và Mỹ.
Việt Nam vẫn tiếp tục kiên định với chính sách quốc phòng “4 Không” của mình và để tăng cường sự tin tưởng lẫn nhau cũng như đặt nền tảng vững chắc cho sự phát triển quan hệ với Trung Quốc, ông Trọng, trong chuyến thăm Bắc Kinh vừa qua, đã khẳng định lại lập trường này. Theo CGTN, mạng lưới tin tức truyền hình do nhà nước Trung Quốc quản lý, ông Trọng nói với ông Tập rằng Việt Nam không cho phép bất kỳ quốc gia nào đặt căn cứ quân sự trên lãnh thổ của mình, không tham gia bất kỳ liên minh quân sự nào, không sử dụng vũ lục chống lại bất kỳ nước nào, và không liên kết với quốc gia này chống lại quốc gia khác.
Dù truyền thông chính thống của Việt Nam không đăng tải bất kỳ thông tin nào về việc này nhưng theo các nhà quan sát, việc ông Trọng khẳng định lại lập trường này là để đảm bảo với Trung Quốc rằng quan hệ giữa Mỹ và Việt Nam sẽ không làm tổn hại đến mối quan hệ của Trung Quốc với Việt Nam.
Trong khi đó, TS Hợp cho rằng việc khẳng định lại lập trường của Việt Nam của ông Trọng tại Bắc Kinh là khôn ngoan.
“Điều đó thể hiện là Việt Nam muốn khẳng định rằng Việt Nam là một quốc gia đi theo đường lối đối ngoại độc lập và tự chủ cũng như đi theo hướng quan hệ quốc tế đa phương chứ không song phương vì đa phương là không đứng vào phe nào cả,” TS Hợp nói.
Cả Việt Nam và Trung Quốc đều thấy mình đang phải đối mặt với sự xâm nhập ý thức hệ ngày càng tăng từ Mỹ. Cả hai đảng Cộng sản của Việt Nam và Trung Quốc đều cảm thấy bị đe dọa bởi các giá trị cốt lõi của phương Tây, như bầu cử tự do và tự do ngôn luận. Do đó cả hai bên đã tăng cường trao đổi và theo đuổi những phương cách để bảo vệ hệ thống xã hội chủ nghĩa của họ cũng như duy trì sự cầm quyền của đảng.
Nhận định nhân chuyến thăm của ông Trọng tới Bắc Kinh, tờ Hoàn cầu Thời báo (Global Times) – một ấn phẩm của Đảng Cộng sản Trung Quốc – nói rằng “trên thực tế Mỹ và phương Tây chưa bao giờ từ bỏ “diễn tiến hòa bình” chống lại Trung Quốc và Việt Nam. Dẫn lời các chuyên gia, tờ báo này cho rằng chuyến thăm của ông Trọng “một lần nữa chứng minh rằng phương Tây đã không hiểu được và không giải thích được mối quan hệ giữa Trung Quốc và nước láng giềng của họ.”
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và Tổng Bí thư, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình tại Bắc Kinh. Ảnh: Tân Hoa Xã
+++++++++++++++++++++++++++++++++
Việt Nam, Trung Quốc cam kết sẽ “xử lý thỏa đáng” tranh chấp chủ quyền Biển Đông
RFI 02/11/2022
Cơ sở hạ tầng và đường bay được Trung Quốc xây dựng trên đã Chữ Thập, thuộc quần đảo Trường Sa, Biển Đông, ngày 20/03/2022. AP - Aaron Favila
Hôm qua, 01/11/2022, tổng bí thư đảng Cộng Sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng đã kết thúc chuyến thăm chính thức Trung Quốc. Hai bên đã ra một Tuyên bố chung, trong đó Hà Nội và Bắc Kinh cam kết sẽ “xử lý thỏa đáng” các tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông.
Trong chuyến đi Trung Quốc bắt đầu từ ngày 30/10/2022, ông Nguyễn Phú Trọng đã hội đàm với ông Tập Cận Bình, vừa tái đắc cử tổng bí thư đảng Cộng Sản Trung Quốc nhiệm kỳ thứ 3, và gặp các lãnh đạo cao cấp khác của chính quyền Bắc Kinh, trong đó có thủ tướng Lý Khắc Cường.
Theo bản Tuyên bố chung mà phía Việt Nam công bố, trong cuộc gặp giữa ông Nguyễn Phú Trọng với các lãnh đạo Trung Quốc, hai bên đã trao đổi ý kiến “chân thành, thẳng thắn” về vấn đề trên biển, đồng thời đã “nhất trí xử lý ổn thỏa” vấn đề trên biển để “duy trì hòa bình, ổn định ở Biển Đông”.
Hai bên cũng cam kết sẽ “sử dụng hiệu quả” cơ chế đàm phán biên giới cấp Chính phủ Việt Nam-Trung Quốc, kiên trì, đàm phán về “các biện pháp giải quyết mang tính quá độ, tạm thời mà không ảnh hưởng đến lập trường, chủ trương của mỗi bên, tìm kiếm giải pháp cơ bản lâu dài mà hai bên đều có thể chấp nhận được.”
Trung Quốc dưới thời ông Tập Cận Bình đã tỏ ra hung hăng hơn trong việc xác quyết chủ quyền ở Biển Đông, thể hiện qua việc xây dựng các đảo nhân tạo và quân sự hóa các đảo này, cũng như tăng cường tuần tra trên vùng biển này và sách nhiễu các tàu cá của những nước khác, đặc biệt là của Việt Nam.
Không công nhận chủ quyền mà Bắc Kinh tự áp đặt lên phần lớn Biển Đông, Hoa Kỳ và các nước phương Tây khác thường xuyên đưa chiến hạm đến tuần tra bảo vệ tự do hàng hải ở khu vực này, bất chấp phản đối của Trung Quốc.
Tuy vẫn thường xuyên gặp căng thẳng do tranh chấp chủ quyền Biển Đông, trong chuyến đi thăm vừa qua của ông Nguyễn Phú Trọng, hai bên đã tuyên bố sẽ “tiếp tục đẩy mạnh và làm sâu sắc hơn nữa quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt Nam - Trung Quốc”.
Không những thế, theo bản Tuyên bố chung, Hà Nội và Bắc Kinh cho biết sẽ “tích cực thúc đẩy” kết nối chiến lược phát triển hai nước, đẩy nhanh trao đổi, ký kết Kế hoạch hợp tác giữa chính phủ hai nước về thúc đẩy kết nối giữa Khuôn khổ “Hai hành lang, một vành đai” với Sáng kiến “Vành đai và Con đường” do lãnh đạo Trung Quốc Tập Cận Bình đề xướng.
Ông Nguyễn Phú Trọng như vậy là lãnh đạo nước ngoài đầu tiên gặp Tập Cận Bình sau khi ông đắc cử tổng bí thư nhiệm kỳ 3 trong kỳ Đại Hội đảng Cộng Sản Trung Quốc lần thứ 20, trở thành lãnh đạo có thế lực nhất ở nước này kể từ thời Mao Trạch Đông.