Di tản từ Nha Căn Cứ Hàng Không Tân Sơn Nhất, tháng 4.1975

20 Tháng Tư 20218:09 SA(Xem: 7938)

VĂN HÓA ONLINE – DIỄN ĐÀN CHÍNH TRỊ - THỨ TƯ 21 APRIL 2021

Ý kiến-Bài vở vui lòng gởi về:  lykientrucvh@gmail.com

Di tản từ Nha Căn Cứ Hàng Không Tân Sơn Nhất, tháng 4.1975

image007
Trần Anh Tuấn


LỜI GIỚI THIỆU
: Sau đây là bản tường thuật của một gia đình cư ngụ trong Nha Căn Cứ

Hàng Không Tân Sơn Nhất. Bài viết viết thành nhiều đoạn trong những ngày 25.3, 29.3, 3.4, 7.4,

13.4, và 18.4.2021.

Đây là lời kể của một người bạn từ mùa hè 1960, nơi tôi đến chơi hàng tuần. May mắn

bất ngờ là tôi liên lạc lại cùng toàn thể gia đình người bạn tại Hoa Kỳ hai lần, hồi tháng 6.2004

và tháng 3.2021. Vì thế, tôi ngỏ ý người bạn viết lại những ngày di tản như một kỷ niệm chia sẻ

với nhau. Tôi sẽ kể chuyện thuyền nhân tháng 1.79 từ Vũng Tầu. Còn người bạn sẽ kể lại chuyện

di tản từ phi trường Tân Sơn Nhất tháng 4.75.

Chúng tôi là hai gia đình trong số những người dân thường mà năm 1975 chính quyền

quân nhân tháo chạy khiến chúng tôi phải rời bỏ quê hương bản quán vì không chấp nhận sống

dưới chế độ Cộng Sản, một chế độ độc tài độc đảng mà chúng tôi -cùng tất cả quân dân cán

chính VNCH khác- sẽ không tránh khỏi tù và tội.

Đây là chuyện thật việc thật với từng chi tiết mà người trong cuộc nhớ lại. Bạn tôi xuất

thân chương trình Pháp trường Marie Curie và đây là lần đầu tiên viết văn tiếng Việt. Nhớ sao

viết vậy, không hề làm dáng văn chương. Và tôi không có ý chỉnh sửa, vì giá trị của bản văn là

giá trị của những sự kiện đã qua, nên sự chỉnh sửa chỉ làm mất đi sự nguyên toàn của quá khứ.

Chỉ tiếc là chiếc máy ảnh chụp những tấm hình đầu tiên trong cuộc đời tỵ nạn tại Hoa Kỳ của

gia đình người bạn bị mất, nên bài viết không có hình ảnh kèm theo.

Trừ tên thật của người viết thì tôi viết tắt, vì đó là sự riêng tư cá nhân: MH người vợ và

NT người chồng. Trong bài viết, bác Lâm là kỹ sư công chánh Trần Ngọc Lâm, Trưởng khu các

phi trường miền Bắc, Nha Căn Cứ Hàng Không VNCH. Năm 2004 tôi đã tới Texas để thắp trước

bàn thờ Bác một nén hương kính viếng. Còn Hiệp là tên em trai người bạn, Trần Trọng Hiệp,

cũng đã mất. Nay xin thắp cho Hiệp một nén, vốn là một người học trò trong đời dạy học của tôi.

Cám ơn người bạn quý.

Nhân nói đến trường trung học Marie Curie ở Sài Gòn, tôi ghi lại câu văn ngây ngô của

một người cựu nữ sinh trường ấy, là Trần Tố Nga cũng chính là hiệu trưởng Marie Curie những

năm 1978-1986 sau khi Cộng Sản chiếm được toàn thể nước Việt: “Tôi cũng chỉ là một trong rất

nhiều học sinh Marie Curie đã chọn con đường đi theo cách mạng. Mỗi người xuất phát từ một

hoàn cảnh, một động cơ, nhưng tất cả những nẻo đường ấy đều dẫn chúng tôi đến sự nghiệp cao

cả của dân tộc.” (Nữ Sinh Sài Gòn Một Thời Để Nhớ 1945-1975. Nxb Trẻ, tp HCM, 2002, trang

133).

Sự nghiệp cao cả của dân tộc? Hãy đối chiếu lý tưởng đó với thực trạng xã hội nước Việt

dưới ách thống trị của Đảng Cộng Sản ngày nay -cùng lý tưởng của những kẻ đồng dạng, như

một Nguyễn Mạnh Tường, một Trần Đức Thảo, hay một Dương Quỳnh Hoa...- để thấy sự bẽ

bàng của một số người Việt có học nhưng xuẩn ngốc về chính trị.

Sự nghiệp cao cả của dân tộc? Sự thật chỉ là đại phúc cho một số cán bộ cộng sản, mà là

đại họa lâu dài cho đất nước và dân tộc!

Mặt khác, cuộc chiến giữa miền Bắc Cộng Sản và miền Nam Cộng Hòa lại càng không

phải là “cuộc chiến phi nghĩa giữa 2 miền” như có người gốc Việt vừa mở miệng đầu tháng

4.2021 tại miền nam California.

Với Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, đó là cuộc chiến xâm lăng nhằm cướp chính quyền cả

nước nên họ đem quân từ miền Bắc vượt Trường Sơn vào miền Nam trong 15 năm (1960-75) với

súng đạn vô tận từ Liên Sô và Trung Cộng. Trong chiến dịch đánh chiếm Sài Gòn-Gia Định năm

1975, khi Tư lệnh Văn Tiến Dũng hỏi Chủ nhiệm Tổng Cục Hậu Cần về tình hình đạn dược thì

Đinh Đức Thiện trả lời, nguyên văn: “Ta có đủ đạn pháo để bắn cho bọn Ngụy chúng nó sợ đến

ba đời!”

Vì thế, với Việt Nam Cộng Hòa, đó là cuộc chiến tự vệ để duy trì một xã hội tương đối Tự

Do, tương đối Dân Chủ, và tương đối Lương Thiện từ sông Bến Hải đến mũi Cà Mâu.

Đừng vô tâm! Phải biết suy nghĩ để nhớ ơn người lính Việt Nam Cộng Hòa hy sinh trong

hai thập niên 1960-70 cho thanh niên đô thị cùng trang lứa an lành theo đuổi việc học!


TRẦN ANH TUẤN

Tháng 4.2021

image009Hình Class Terminale trường Marie Curie niên khóa 1963-64.

Tác giả TMH đứng hàng trên cùng, thứ tư từ trái qua. (Sưu tập TAT)

Nhớ lại lúc chạy loạn mà rùng mình. Khi được trực thăng vớt lên từ phi trường Tân Sơn

Nhất thì đi là cứ đi theo dòng người ngồi chờ, chứ không biết là sẽ đi về đâu.

Trực thăng thả đoàn người xuống một tàu chiến Mỹ nhỏ. Tại đó họ cho mỗi gia đình một

quả cam, và chắc có nước và bánh. Tưởng yên, nhưng họ lại xua đàn người này xuống hầm tàu,

ra một cái sà lan nhỏ. Rồi tàu Mỹ chạy đi. Đêm tối thui, không ai biết gì hết, không ai nói gì, cứ

ngồi vậy, chung quanh là trời, là nước đen thui. Ai cũng hoang mang, nhưng quá mệt mỏi, nên

kệ, tới đâu hay tới đó.

Nhưng rồi, một tàu to đến, ghé sát vào sà lan. Một ông lính Mỹ ném cái thang giây xuống

và ra hiệu cho đám người này leo lên. Lần lượt, hết người này tới người kia leo lên. Trong lúc đó

thì gió và sóng làm sà lan dập dìu, đập ình ình vào tàu to. MH hồi đó có bầu con Tèo 7 tháng,

bụng to chình ình, cũng phải leo lên. Anh NT thì ôm thằng Ti, và vai khoác cái sách nhỏ đựng 1,

2 thứ cần dùng. Xong cũng lên tới boong tàu. Đang bơ vơ thì có một anh, hình như quen chỉ đi

sang bên kia boong tàu có chỗ nằm cho con nhỏ. Sang đó, thì người cũng đông như kiến, nhưng

có một gia đình họ thương hại chia sẻ chỗ nằm. Lênh đênh như vậy cả tuần vì tàu đứng im một

chỗ để vớt thêm người. Hình như họ có cho ăn sơ sơ, nhưng MH không nhớ gì hết.

Sữa bột mang theo cho con, thì lấy đại nước quấy lên cho nó uống. Vì không có vệ sinh

gì cả, nên Ti bị diarrhea nặng. Kêu lính Mỹ cầu cứu thì được nói xuống hầm tàu tìm mấy ông bác

sĩ VN, nhưng cũng không có thuốc đâu. May quá, anh NT có mang theo một ít trụ sinh, bèn tán

ra cho nó uống. Sau vài ngày thì Ti bớt.

Anh NT thấy con ốm, vợ ốm, nên viết một bức thơ xin Mỹ thả gia đình về lại VN. Mỹ không

chịu, nói, “Mày về thì nó bỏ tù.” Anh ấy nói “Tôi chết cũng được, nhưng vợ con tôi sống.” Họ

cũng làm lơ.

           Tàu cứ đứng một chỗ, vớt thêm dân tỵ nạn. Người càng ngày càng đông, nhưng không có

việc xô đẩy nhau, hay tranh chấp. Nhà cầu của tàu là một cái chòi, xây trên cao. Muốn đến đó,

phải leo lên một cái cầu bằng gỗ ọp ẹp. Nhà cầu xây dựng trên lan can của tàu. Trên đó thì nhìn

xuống qua khe hở của sàn gỗ là thấy sóng ầm ĩ.  MH nghĩ nếu mà trượt chân rớt xuống biển, thì

không ai biết mà cứu vớt lên. Đó cũng là lần đầu tiên và lần chót MH trèo lên đó.

Rồi tàu cũng nhổ neo đi. Tới cảng Subic Bay của Philippines thì đoàn người tỵ nạn lần

lượt xuống bến. Lại một lần nữa, người và túi sách bị khám sét. (Khi đến tàu to trước đó, thì họ

đã khám cái túi sách tay của anh NT rồi. Ông lính trẻ rất cẩn thận, mở túi, xem sét từng tí một,

khi thấy cái bí tất anh NT nhét nữ trang ngày cưới của MH, thì ông ấy nói “Nên cất nữ trang

trong người, để ngoài có thể bị mất.” Họ quá tử tế, không lợi dụng cơ hội mà thủ tiêu đi thì cũng

đâu có ai ở đó biết mà khiếu nại.)

Sữa cho con, thuốc, bị vứt hết. MH nói cho xin lại sữa thì họ nói, sữa, và mọi thứ cần

dùng sẽ được phát đầy đủ, không lo. Ở trạm nghỉ không lâu thì họ cho lên tàu bay. Có người hỏi,

đi đâu, thì họ trả lời, tất cả được đi Mỹ. Họ chia đoàn người tỵ nạn ra từng nhóm một. Nhóm MH

được lên một tàu bay, đông người nên ngồi sát sạt nhau. Tàu bay nổ máy rất ầm. Vừa nóng, vừa

ầm, nên Ti nó khóc váng lên, dỗ thế nào nó cũng không nín.  Có ông sốt ruột, nói “Bế nó ra

ngoài cho nó thoáng đi.” Nhưng MH đâu có làm vậy được, vì lỡ lạc thì sao? Nên cứ lì mặt làm

ngơ. Ti nó vẫn tiếp tục hét. Một lúc lâu sau thì tất cả mọi người bị đuổi xuống tàu bay đó sang

tàu bay khác vì tàu bay bị trục trặc máy móc. Sang tàu bay khác thì Ti im thin thít!

Rồi tàu bay đáp xuống phi trường Guam. Đoàn người lại kéo xuống đảo. Tại đây, tất cả

trở thành dân tị nạn. Tất cả lần lượt làm giấy tờ nhập cảnh nước Mỹ. Từng gia đình một được

cho ở vào lều vải, tùy ít hay nhiều người, được chung một lều, hay được riêng một lều. Và cuộc

sống của người tị nạn bắt đầu.

Gia đình MH chia lều với một gia đình khác. Lều có ghế bố. Ngày ngày đến giờ xếp hàng

đi lấy cơm ăn. Mới đầu MH nghĩ sao khổ quá, sang đây phải đi ăn xin, nhưng rồi, ai cũng lốc tha

lốc thốc giống nhau, nên quen đi. Sữa cho Ti thì được đi lãnh riêng vì có phiếu lãnh cho từng gia

đình có con nhiều hay ít. Lâu lâu có vòi nước để dân tị nạn dùng. MH đem quần áo dơ ra giặt, và

phơi. Nhưng khi đến chiều ra lấy quần áo vào thì có cái váy đầm duy nhất mang được đi, và vài

quần áo lặt vặt đã bị ai cuỗm mất!

Nhưng trại tị nạn có công báo ngày giờ được đi lấy quần áo cũ. Mỗi người được chọn 2, 3

thứ gì đó. Vì Ti đi chân đất, nên MH nói Hiệp nếu thấy giầy thì lấy cho Ti một đôi. Thế là đoàn

người lại lần lượt vào lựa quần áo cũ. Từng đống, từng đống, trông hoa mắt, phần nhiều to quá

khổ của người VN gầy gò. Rồi MH cũng chọn được một cái váy đầm tương đối không to lắm, có

thể sửa lại làm áo bà bầu. Và Hiệp cũng lấy một đôi giày cho Ti. Ti đi giầy như đi hia bẩy dậm,

nhưng MH thì rất sung sướng vì Ti không phải đi đất dơ bẩn.

Người ta nói có thể ở đó vài ngày đến vài tuần. Ngày ngày xếp hàng đi ăn cơm, phần

nhiều line nó dài, đứng xếp hàng lâu, trời thì khô, nắng nên cũng mệt mỏi. Có hôm có một ông

thương hại, nói đi lên đầu hàng mà đợi, vì bụng bự. Nhưng MH ngại nên cứ chờ tới phiên mình.

Nhiều khi vừa ăn xong bữa cơm trưa, thì đến giờ đi lãnh cơm chiều!

Nhưng vài hôm sau thì được gọi lên máy bay đi Mỹ. Máy bay kỳ này có ghế ngồi đàng

hoàng. Bay tới phi trường Honolulu, Hawaii, thì xuống. Lúc bấy giờ là đêm tối rồi. Tất cả được

cho vào khách sạn ngủ. Gia đình MH chia phòng với hai cô gái, nhưng chắc hai cô ấy thấy gia

đình MH lốc thốc quá, nên rủ nhau đi mất! Sáng hôm sau tất cả được cho xuống quán ăn để ăn.

Ti vì uống sữa đậu nành không quen, nên lại bị ỉa chảy. Và quê nhất là đúng lúc ngồi chờ đồ ăn

thì Ti xoè ra đầy ghế. Rất khổ, nhưng nhìn chung quanh thì cũng thấy một đứa bé khác cũng bị y

như Ti, nên mặt cứ trơ ra mà đi lau chùi cho Ti!

Rồi tất cả đoàn người tỵ nạn lại được lên máy bay để vào Mỹ.

Tàu bay lần này là tàu bay dân sự, có chiêu đãi viên đàng hoàng, ghế ngồi thoải mái. Lúc

ở Guam làm giấy tờ thì có ghi xin đến trại tị nạn ở California. Nhưng tàu bay cứ bay mãi, qua cả

Cali, qua cả núi rừng trùng trùng điệp điệp, qua cả đồng bằng phẳng lì. Cuối cùng tàu bay đáp

xuống phi trường của tiểu bang Arkansas. Trời cũng chập choạng tối. Đoàn người tị nạn được

cho lên xe buýt trở vào trại. Được biết đấy là trại Fort Chaffee của tiểu bang Arkansas. Tất cả

được vào một phòng rất rộng để lăn tay, làm giấy tờ chính thức là refugee có thẻ xanh, số SS...

Xong đoàn refugees được chia ra ở những nhà gỗ. Nhà khá rộng, được chia ra từng ngăn

cho từng gia đình. Thế là cuộc sống của những người tị nạn bắt đầu. Người người như cái máy,

tới giờ ăn trưa, ăn chiều, xếp hàng lãnh cơm. Nhà nào có trẻ con được phát thẻ lãnh sữa,

cereals... Người nào ốm, hay có bầu thì được cho đi khám ở clinic nhỏ trong trại.

Không ai biết là sẽ bị ở trong trại bao lâu, vì tất cả phải chờ cho có người bảo lãnh thì

mới ra khỏi trại được. Anh NT ban ngày thì đi lang thang, và có gặp một vài ông bạn cũng thoát

khỏi VN ngày cuối, mỗi người chạy một lối khác nhau. Bất ngờ một hôm có anh TH, hồi xưa là

học trò cũ của bác Lâm đến trại thăm. Anh ấy đang du học ở Mỹ thì mất nước, thành trở thành

người tị nạn, giống như tất cả mọi người trong trại. Anh TH rất tử tế ân cần, đến thăm vài lần.

Có một đêm, trại báo tin có ca sĩ VN đến trình diễn. Thế là tối hôm đó tất cả mọi người,

già trẻ, lớn bé, ùa ra xem hát, phần nhiều là bài hát về chiến tranh, rất buồn.

Khi làm giấy thì anh NT và Hiệp quyết định chia ra, vì Hiệp, độc thân, trẻ thì có nhiều hy

vọng được bảo lãnh sớm. Còn gia đình nheo nhóc, có con nít thì không biết bao giờ mới được

bảo lãnh.

Và tất cả cứ phải chờ để được gọi đi thôi.

Tháng 5 và tháng 6 trôi qua, vẫn không có giấy rời trại. Chung quanh thì lâu lâu lại có gia

đình được bảo lãnh. Đầu tháng 7 thì MH sinh Tèo ở clinic trong trại. Sau hai ngày thì được về

nhà. Anh NT bận hơn vì vừa phải đi lấy cơm về cho vợ, vừa phải đi lãnh sữa cho con.

Được độ một tháng thì có giấy cho biết gia đình NT được một nhà thờ Tin Lành ở một

làng nhỏ ở Kentucky bảo lãnh. Hiệp thì vẫn chưa được ai nhận. Thế là vợ chồng, con cái bồng bế

nhau rời trại tỵ nạn. Đến nơi, thì được một gia đình người Mỹ đón về nhà họ.

Làng này êm đềm, vắng vẻ, nhà này cách nhà kia khá xa. Họ cho ở một buồng dưới

basement. Hai vợ chồng là giáo sư của trường làng, họ có 3 người con. Họ có vườn rộng, nuôi

vài con bò và trồng rau. Họ tử tế, và rất sùng đạo. Mỗi tuần họ dắt gia đình NT đi nhà thờ hai

lần, thứ tư và chủ nhật để học đạo. Anh NT không dám từ chối, nên ngoan ngoãn đi theo. Cơm

ăn mỗi ngày thì họ cho ngồi cùng bàn ăn, nhưng thấy họ to lớn, mà sao mỗi người chỉ lấy một

miếng rau, hay miếng thịt, hay một lát bánh mì khi đĩa đồ ăn được chuyền đến phía mình ngồi. Thành cũng phải nói là không quen đồ ăn Mỹ nên không thấy no lắm.

Hai cậu con trai Mỹ thì ít nói, cô con gái và bà mẹ thì rất thích Ti và Tèo, nên cứ hay bế,

nựng nịu tụi nó, thành MH phải dọn dẹp sơ sơ, và rửa bát đĩa. Ban ngày thì theo bà ấy ra vườn

hái rau để nấu cho bữa ăn trưa, chiều. Anh NT thì được ông ấy giắt đi nhà hàng xóm lượm táo

chín rụng. Có hôm anh NT lại phải theo ông ấy mang một con bò đi thiến!

Ông bà ấy rất cần kiệm, vì có một hôm Ti hết sữa, nói ông ấy cho đi tiệm mua sữa thì ông

ấy nói, chờ đến cuối tuần được vào PX mua rẻ hơn ở ngoài! Nhưng con không sữa uống, anh NT

đâu có chờ được, nên ông ấy phải đưa đi mua sữa “đắt.” Tiền cứu trợ được vài trăm, thì ông ấy

nói để ông ấy giữ cho, ở đây không thiếu thốn gì hết, không cần mua gì hết. Nhưng anh NT nói

là gia đình cần một cái xe để đi, và nói cần ông ấy mua hộ một xe cũ bằng tiền trợ cấp. Mãi ông

ấy cũng phải bằng lòng và mua cho một xe cũ.

Cũng nhờ ông ấy hay dẫn anh NT theo, nên một hôm khi về nhà, ông ấy rẽ vào lấy thơ.

Khi ông ấy soạn thơ trên xe, thì anh NT thấy có một cái thơ đề tên anh NT. Vậy là anh NT mới

đòi được cái thơ của mình.

Hoá ra là thơ của Red Cross báo cho những refugees là Red Cross sẽ có một buổi hội

thảo ở Louisville về những gì refugees được giúp đỡ khi mới định cư ở Mỹ. Thế là mừng quá.

Anh NT đòi đến buổi họp của Red Cross đó. Mới đầu ông ấy không chịu, nhưng rồi ông ấy cũng

phải đưa cả gia đình anh NT lên Louisville, cách làng chừng hơn một tiếng lái xe. Đến nơi, thì

gặp nhiều người VN khác cũng chân ướt chân ráo đến Mỹ. Thì được biết là chính phủ Mỹ sẽ

giúp đỡ cho tìm việc làm, hay cho đi học nếu muốn. Chính phủ sẽ giúp cho trợ cấp xã hội, và bảo

hiểm sức khỏe trong thời gian đầu. Thế là anh NT mừng quá, về nhất định đòi dọn lên Louisville.

Thoát trở thành một gia đình nông dân cũng trần ai!

Ông bà sponsors nói nếu muốn đi học thì gần đây có trường nhà binh, muốn học gì cũng

có. Ông ấy dắt vô trại để ghi tên học. Nhưng anh NT nằng nặc đòi đi Louisville. Cuối cùng ông

bà Mỹ cũng phải bằng lòng và đưa anh NT lên Louisville để tìm nhà thuê.

Thế là vợ chồng con cái lại dắt díu nhau dọn lên tỉnh ở. Rất may anh NT thuê được một

cái gác nhỏ, 1 phòng ngủ, tương đối gần trường. Nhà thờ Tin Lành cúp giúp đỡ.

Mấy tháng đầu ông sponsor chịu khó lái xe lên dắt gia đình MH về làng đi nhà thờ. Xong

chắc thấy mệt quá, nên giới thiệu một nhà thờ Tin Lành khác ở Louisville. Mấy ông mục sư đó

quá cẩn thận, đến tận nhà tự giới thiệu và khuyên đi nhà thờ đều đều. Xong chắc thấy hai vợ

chồng này nó cứng đầu quá, cứ lơ là việc đi lễ, nên họ chán, bỏ!

Anh NT làm giấy tờ xin nhập học và giấy tờ trợ cấp xã hội, bảo hiểm sức khỏe. Vì nghĩ là

phải mau mau đi làm nên anh NT xin vào trường community college. Anh ấy mua báo về xem

mục tìm việc, thấy họ cần ngành nào nhiều thì đi học ngành ấy.

Thành anh NT chuyển qua học computer, vì nếu muốn làm lại nghề cũ luật sư, thẩm phán

thì chắc không xong vì chữ nghĩa không thông. Còn MH thì xoay qua ngành Medical

Technology (MT), vì không có trường dược nào ở Louisville.

Thế là anh NT và MH bắt đầu lại cuộc đời học sinh, nhập học liền niên học đó. Anh NT

lấy nhiều môn học hơn là chỉ định. Còn MH thì phải xin vô program MT của trường. Mỗi lớp là

2 năm, bắt đầu niên khoá 1976. Trong lúc chờ thì MH học mấy môn electives. Vì có con nhỏ nên

MH học ban ngày, anh NT học ban đêm. Nhiều hôm anh NT lái xe tới trường đi học, và MH lấy

xe đưa con về.

Cũng may hai đứa con ngoan, ít khóc và ít ốm. Anh NT cứ để cho Tèo ngồi cái ghế đu

mắc ở cửa, buộc cái giây, nó cứ ngo ngoe lại cho bình sữa, và kéo giây đu qua đu lại. Ti thì luẩn

quẩn chung quanh chơi với nồi niêu xoong chảo. Anh NT vừa coi con, vừa học bài. Hai vợ

chồng cứ quay như chong chóng ngày này qua ngày nọ, nhưng vui.

Đến 1977 anh NT ra trường với cái bằng Associate of Science (AS). Anh NT tìm được

việc làm ngay tại University of Louisville. Và từ đó tự túc lo hết được cho tiểu gia đình.

MH vào MT program, thường thì sáng học lý thuyết, chiều thực tập.  Được ngày nghỉ có

khi được một bà Mỹ dẫn đi bán hàng ở trường đua ngựa! Tới năm 1978 thì MH cũng ra trường,

và xin được việc làm liền ở một nhà thương.

Cũng năm 1978 thì mua được một nhà nhỏ, để có chỗ cho con nó chạy nhẩy, và bố mẹ có

chỗ thở!

Nhưng đi làm với bằng associate degrees thì làm nhiều mà lương không bao nhiêu, nên

anh NT và MH vừa đi làm, vừa đi học thêm để lấy bằng 4 năm (BS). Quay qua, quay lại rồi cũng

học xong.

Bây giờ nghĩ lại cũng rùng mình. Chiến tranh làm đảo lộn cuộc sống của tất cả mọi gười.

Nhưng gia đình MH rất may mắn, đã trải qua cuộc chiến được nguyên vẹn...


NMH

Tháng 3-4.2021
23 Tháng Chín 2014(Xem: 22106)
Trung Quốc, Nhật Bản và Ấn Độ hiện là ba cường quốc vùng Châu Á Thái Bình Dương có một mẫu số chung : Được một nhân vật dân tộc chủ nghĩa lãnh đạo. Theo nhận định của Viện Nghiên cứu Chiến lược Quốc tế IISS trong bản « Khảo sát Chiến lược 2014 / Strategic Survey 2014 » công bố hôm qua 18/09/2014 tại Luân Đôn, thì cục diện Châu Á, vốn đang bị cuộc cạnh tranh Trung-Nhật tác động, sắp tới đây sẽ tiếp tục bị hai đại cường này cùng với Ấn Độ nhào nặn.
16 Tháng Chín 2014(Xem: 24702)
Muốn blog cháy hãy viết về chiến tranh Nam Bắc, về cải cách ruộng đất với khẩu hiệu “Trí, phú, cường, hào.. đào tận gốc, trốc tận rễ”, “Nhân văn Giai phẩm”, những chuyện quá khứ đi vào lịch sử đầy máu, nước mắt, và chia rẽ dân tộc. Nhưng né tránh, câu chuyện sẽ còn âm ỷ khôn nguôi, dù thế giới đã sang thế kỷ 21. Lãnh đạo quốc gia có tầm, có tâm, nên bạch hóa sai lầm quá khứ, lấy đó làm bài học cho hiện tại và hướng tới tương lai. Đó là một trong những chìa khóa cho phát triển đất nước.
14 Tháng Chín 2014(Xem: 21948)
Vua Bảo Đại tuyên bố độc lập ngày 11 tháng 3 năm 1945, thu hồi chủ quyền trên danh nghĩa ở ba kỳ, tiếp sau đó là Campuchia ngày 13 tháng 3 và Lào ngày 8 tháng 4. Trong tuyên bố của Bảo Đại thì Việt Nam hủy bỏ các Hiệp ước Bảo hộ trước kia với Pháp.
09 Tháng Chín 2014(Xem: 20341)
Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh, cựu Đại sứ Việt Nam tại Bắc Kinh, vừa có bài viết đăng trên mạng internet, cảnh báo giới lãnh đạo Việt Nam không nên lơ là cảnh giác trước Trung Quốc khi mà nước này đang tiến hành xây dựng trên bãi Gạc Ma trên Biển Đông.
31 Tháng Tám 2014(Xem: 19790)
Trái với dự đoán của người quan tâm, nhận định các cuộc biểu tình của phe ủng hộ cựu thủ tướng Yingluck Shinawatra sẽ bùng phát trên cả nước sau cuộc đảo chính quân sự ngày 22/05/2014 do quân đội Hoàng Gia Thái Lan thực hiện, nhưng cho đến nay, khi thủ lĩnh đảo chính – tướng Prayuth Chan-ocha lên làm thủ tướng, đất nước Thái vẫn khá bình yên.
26 Tháng Tám 2014(Xem: 20070)
Tôi đọc bài “Nhìn lại 45 năm để soi chính mình”. Đây là bài tường thuật của Mai Hương trên báo Tuổi Trẻ (TP. HCM) về hai ý kiến của hai Phó Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương trong Hội nghị toàn quốc hướng dẫn kỷ niệm 45 năm thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh (đúng ra nên nói là cố chủ tịch).
25 Tháng Tám 2014(Xem: 20993)
Sách Cổ Học Tinh Hoa kể chuyện: “Ông Tăng Sâm ở đất Phi, ở đấy có kẻ trùng danh với ông giết chết người. Một người hớt hải chạy đến báo mẹ ông Tăng Sâm rằng: ‘Tăng Sâm giết người’. Bà mẹ nói : ‘Chẳng khi nào con ta lại giết người’. Rồi bà điềm nhiên ngồi dệt cửi. Một lúc lại có người đến bảo: ‘Tăng Sâm giết người’. Bà mẹ không nói gì, cứ điềm nhiên dệt cửi .
21 Tháng Tám 2014(Xem: 19021)
Thượng Nghị sĩ John McCain của đảng Cộng Hòa và Thượng Nghị sĩ Sheldon Whitehouse của đảng Dân Chủ đã vào tận Việt Nam, tổ chức cuộc họp báo tại Hà Nội vào ngày 8/8 vừa qua để nói về viễn cảnh mới của quan hệ Mỹ Việt chuẩn bị đánh dấu 20 năm (1995-2015) bình thường hóa quan hệ ngoại giao.
17 Tháng Tám 2014(Xem: 20191)
Văn Hóa Magazine Online nhận được E-mail từ bạn đọc và từ Viet Art Center vietartcenter@aol.com, một thư ngỏ của Ô. Phan Kỳ Nhơn, Chủ tịch Liên Ủy Ban Chống CS & Tay Sai và một của Đức Cha Dominic Mai Thanh Lương, Giám mục Phụ tá Giáo phận Orange.
15 Tháng Tám 2014(Xem: 17309)
Sự kiện hai Thượng nghị sĩ Mỹ là John McCain (đảng Cộng hòa, bang Arizona) và Sheldon Whitehouse (đảng Dân chủ, bang Rhode Island) đến thăm Việt Nam một cách khá bất ngờ, trong ba ngày kể từ 08/08/2014 đã gây chú ý trong dư luận.
12 Tháng Tám 2014(Xem: 19296)
Ngoại trưởng Hoa Kỳ John Kerry tại Hội nghị Ngoại trưởng khối 10 nước ASEAN lần thứ 47-AMM47. Đề nghị của phía Mỹ là phải ngưng tất cả mọi hoạt động, mọi leo thang trên Biển Đông.
07 Tháng Tám 2014(Xem: 17398)
Trong một cuộc họp khẩn cấp kéo dài đến tối khuya Chủ Nhật hôm trước, Hội Đồng này đã thông qua một lời nhận định mạnh mẽ nhất về cuộc chiến này, dưới hình thức “một bản thông báo cấp tổng thống” (presidential statement) lên tiếng yêu cầu đôi bên hãy tức thời ngưng bắn để có thể thực hiện được một cuộc trợ giúp và cứu trợ cần thiết cho khối dân Palestine khốn khổ đang nằm trong hai lằn lửa đạn.
04 Tháng Tám 2014(Xem: 19587)
Nhưng tôi không khỏi có cảm giác đó chính là những gì ông muốn nói khi được hỏi về sự phát triển của vùng cao nguyên ở Việt Nam trong cuộc gặp tình cờ tại miền nam nước Pháp. Chính xác hơn ông Nguyên Ngọc nói về "lời nguyền tài nguyên".
31 Tháng Bảy 2014(Xem: 19511)
Ngoại trừ các đảng viên nắm quyền, đa số các đảng viên đã không còn tin vào chủ nghĩa xã hội? Đa số các đảng viên về hưu ‘không còn tha thiết với con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội nữa’, một đảng viên kỳ cựu tham gia ký tên vào thư ngỏ gửi Ban chấp hành Trung ương Đảng nói với BBC.
28 Tháng Bảy 2014(Xem: 20526)
Đã hơn một tuần kể từ khi Trung Quốc di chuyển giàn khoan 981, dù có một vài nghi ngại nhưng nhìn chung dư luận Việt Nam đã tương đối lắng dịu, đặc biệt với sự xuất hiện của siêu bão Ramasun và vụ tai nạn máy bay MH17.
25 Tháng Bảy 2014(Xem: 17706)
Giáo sư Tương Lai cho biết sáng qua, khi đọc nội dung tuyên bố của tổ chức Diễn đàn Xã hội Dân sự (một tổ chức phản động chống Nhà nước) đã lên tiếng quyết liệt phản đối âm mưu lợi dụng tình hình phức tạp trên Biển Đông hiện nay để thực hiện mưu đồ chính trị của tổ chức này.
22 Tháng Bảy 2014(Xem: 18106)
“Trong tình hình đất nước Việt Nam chúng ta ngày nay, những người tham gia đấu tranh – qua hình thức xã hội dân sự (XHDS) hay đảng chính trị (ĐCT) – hầu hết là những người lý tưởng, sẵn sàng hy sinh hạnh phúc cá nhân cho đại nghĩa. Lãnh đạo Hà Nội sẵn sàng dùng mọi thủ đoạn để triệt tiêu các đoàn thể không nằm trong khuôn khổ của chế độ, nên những người có lòng đối với dân tộc và đất nước càng phải đoàn kết, gắn bó với nhau hơn bất kể phương thức đóng góp cho đại cuộc là XHDS hay ĐCT.
21 Tháng Bảy 2014(Xem: 18904)
Thế là chuyện lạ đã xảy ra...Quốc Hội Hoa Kỳ đã nhất trí thông qua Nghị Quyết về biển Đông, yêu cầu Trung Quốc quay về nguyên trạng trước ngày 1/5/2014, tức là yêu cầu TC rút giàn khoan 981, một việc mà Quốc Hội Việt Nam đã không dám làm, đã không thể làm và thực sự đã không làm...
17 Tháng Bảy 2014(Xem: 18316)
Sáng ngày 16/7, trang nhà của Bộ ngoại giao Trung Quốc đã chính thức xác nhận giàn khoan Hải Dương 981 đã di dời ra khỏi vùng biển của Việt Nam và đang hướng về đảo Hải Nam. Tin này cũng được báo Tuổi Trẻ Online ngày 16/5 loan tải dẫn lời của ông Ông Hà Lê, Phó Cục trưởng Cục kiểm ngư thuộc Bộ Ngư nghiệp và Phát triển nông thôn của CSVN.
15 Tháng Bảy 2014(Xem: 17739)
Ngày 4 tháng 7 năm 2014 Hội Nhà báo độc lập Việt Nam (HNBĐLVN) tên tiếng Anh là Independent Journalists Association of Vietnam (IJAVN) công khai tuyên bố thành lập nhằm “Làm thế nào để báo chí và các nhà báo cất được tiếng nói theo đúng nghĩa của hai từ “tự do”?