Những nhà báo lính đầu tiên đến Trường Sa

19 Tháng Năm 20207:29 SA(Xem: 6574)

VĂN HÓA ONLINE - VIỆT NAM - THỨ BA 19 MAY 2020

Ý kiến-Bài vở vui lòng gởi về:  lykientrucvh@gmail.com (VănHóa Online-California)


Những nhà báo lính đầu tiên đến Trường Sa


image004


 VHO - Thứ sáu, 2/5/2014 |


Tàu khựa điều 6 chiến hạm, trên 100 tàu các loại, 4 chiến đấu cơ bảo vệ HD-981/ Song tử Đông “nhớ” Song tử Tây / Những nhà báo lính đầu tiên đến Trường Sa


Trường Sa năm 1975 trơ trọi chỉ vài bóng cây và những lùm sâm đất. Chim hải âu, ó biển, mòng biển chen chúc đi trên cát, gặp người chẳng buồn bay. Trứng chim la liệt, phải vừa đi vừa tránh...


image005

Bộ đội luyện tập ở Trường Sa những ngày đầu sau giải phóng. Chim và ó biển lúc này nhiều vô kể. Ảnh: Khắc Xuể.


Hà Nội, sáng 2/5/1975, số báo ra đỏ rực tin chiến thắng. Cả toà soạn báo Quân đội nhân dân sốt ruột dõi theo tin bài gửi về từ mặt trận. Cánh phóng viên không được đi, phải ở nhà “gác gôn” ngẩn ngơ vì không được ra trận. Khắc Xuể cũng thế. Nhưng đến “phút 90”, chàng phóng viên trẻ bất ngờ được Tổng biên tập Nguyễn Đình Ước gọi lên, đưa cho tờ giấy giới thiệu: "Giấy có chữ ký của Trung tướng Lê Ngọc Hiền, Phó tổng tham mưu trưởng QĐND Việt Nam. Ngày mai, cậu đi Sài Gòn ngay".


Trưa 3/5/1975, sân bay Tân Sơn Nhất hừng hực nắng. Khắc Xuể xuống máy bay, lò dò hỏi mãi mới về tới cơ quan đại diện Tổng cục Chính trị ở gần cầu Thị Nghè. Lúc này, cấp trên mới cho biết, anh sẽ cùng phóng viên Nguyễn Thắng tham gia đoàn công tác của Bộ Tổng tham mưu ra kiểm tra quần đảo Trường Sa. Ngày N, giờ G, phải có mặt ở Cam Ranh để nhận nhiệm vụ.


Từ Sài Gòn ra Cam Ranh dài hơn 500 cây số. Hai phóng viên trẻ chạy sang gặp Bộ chỉ huy tiền phương thì được trả lời là tự xoay xở bởi không có xe. Chợt nhớ, bên Quân chủng Không quân đã tiếp quản sân bay, Xuể chạy sang “xem có mượn được cái xe máy nào không?”. Lục lọi, anh tìm thấy một chiếc Kawasaki 250 phân khối. Dù chưa từng đi xe máy, Xuể vẫn cắm chìa, nổ máy, rồi cùng Nguyễn Thắng lên đường. Trưa 5/5/1975, họ đến Quân cảng Cam Ranh.


image003

Giải phóng quần đảo Trường Sa (ảnh do Khắc Xuể chụp tại đảo Song Tử Tây tháng 5/1975, bên cột mốc chủ quyền do Việt Nam Cộng hoà lập).


Đêm mùa hè biển lặng, 3 con tàu trong bộ dạng tàu cá rời quân cảng Cam Ranh. Ngoài Khắc Xuể và Nguyễn Thắng, một phóng viên Báo Hải quân cũng tham gia đoàn công tác. 


Quá nửa đêm thì một cơn dông ập đến. Sóng, gió ngày càng dữ dội, ba con tàu mất liên lạc với nhau. Chiếc tàu Xuể đi chết máy, phải thả trôi trên biển. May mắn là có tàu của Liên Xô xuất hiện, lai dắt vào bờ.


Tất cả ngủ một đêm ngon giấc, tờ mờ sáng hôm sau lại tiếp tục lên đường. Lần này, ngoài 3 tàu cá còn có thêm tàu Trùng Khánh của đoàn 125 hải quân chỉ huy, dẫn đường.


Điểm đảo đầu tiên đoàn dừng chân là Song Tử Tây, cũng là đảo đầu tiên được giải phóng rạng sáng 4/4/1975.


Sau Song Tử Tây, đoàn tiếp tục hành trình tới Nam Yết, An Bang, Trường Sa Lớn… và cuối cùng là Sơn Ca - hòn đảo được giải phóng sau cùng vào ngày 29/4/1975.


Là phóng viên ảnh, Khắc Xuể miệt mài bắt tay vào công việc. Những bức ảnh chụp ở Song Tử Tây được cho là khá nhất, tốt nhất với nhiều hình ảnh sinh động như: Bộ đội thao tác bắn cối 60, phất cờ giải phóng…đã trở thành những hình ảnh biểu tượng của giải phóng Trường Sa.


image006

Lính đặc công trên đảo Trường Sa năm 1975. Ảnh: Khắc Xuể.


Sau này, còn một số đợt phóng viên ra Trường Sa những năm đầu sau giải phóng nên xuất hiện thêm nhiều hình ảnh chụp bộ đội Trường Sa “thuở ban đầu”.


Nhưng theo ông Xuể, có thể phân biệt đâu là những ảnh do ông chụp vào tháng 5/1975 bởi có tới “ba lớp ảnh” bộ đội Trường Sa ngày đầu giải phóng. 


Lớp ảnh thứ nhất là hình ảnh anh em mặc quần áo bộ binh đội, đội mũ cối do Khắc Xuể chụp tháng 5/1975


Lớp ảnh thứ hai do ông Bằng Lâm chụp có hình ảnh bộ đội mặc áo trắng hải quân.


Lớp ảnh thứ ba ông Vũ Đạt, cũng là cựu phóng viên Báo Quân đội nhân dân ra Trường Sa vào khoảng những năm 1978-1980 chụp lại với dụng ý không quên chiến công của bộ đội đặc công nên có nhiều hình ảnh chiến sĩ đội mũ sắt.


Trường Sa ngày quân đội Sài Gòn đồn trú còn khá hoang sơ. Ông Xuể kể rằng, cây cối cũng ít. Ở Song Tử Tây chỉ có chừng mươi cây dừa, không có bàng vuông, phong ba như bây giờ. Cây sâm đất khá nhiều, mọc kín đảo Trường Sa Lớn. Ở Nam Yết có dừa, bàng vuông… An Bang, Sinh Tồn gần như không có cây cối. Các công trình trên đảo chủ yếu là hầm, công sự phủ cát, gác tôn. 


image007

Khắc Xuể (giữa) - tại đảo Nam Yết tháng 5/1975


Cây cối thưa vắng nhưng bù lại đảo rất nhiều chim. Chim hải âu, ó biển, mòng biển nhiều vô kể. Chúng chen chúc đi trên cát, gặp người chẳng buồn bay. Trứng chim la liệt, phải vừa đi vừa tránh kẻo vỡ…


Hôm tới đảo An Bang, thấy chim ó biển đậu rất nhiều, nhìn dễ thương, ông Xuể đưa tay “chào”. Nào ngờ, chú ó biển mổ mạnh vào tay khiến máu tuôn xối xả. Vích trên đảo cũng rất nhiều, chúng lên đẻ trứng ngay trên các bãi cát. Thực phẩm mang theo không nhiều nên nguồn thức ăn chính của lính vẫn là trứng chim, thịt vích. Nước uống cũng thiếu, lại hầu như không có rau. Nhưng rồi, mọi người đều động viên nhau vượt qua, vì đồng đội bám đảo đã và sẽ phải chịu đựng cuộc sống như thế lâu dài. (Nhà báo Khắc Xuể ký tặng lên lá cờ Tổ quốc, gửi tới bộ đội Trường Sa).


Chuyến công tác kéo dài hơn 10 ngày là dịp để đoàn khảo sát, hoạch định những vấn đề phòng thủ, giữ vững quần đảo tiền tiêu của Tổ quốc. Ông Xuể và ông Thắng đã hoàn thành nhiệm vụ chụp ảnh, thu thập tư liệu. Tuy nhiên, có viết bài không, có đăng báo không? Câu trả lời là không làm gì cả, chờ lệnh của trên.


Gần ngày thành lập quân đội năm ấy, ông Xuể mới được phép viết một bài về trận đánh chiếm đảo Sơn Ca. Sang năm 1976, trong một loạt ký sự 5 kỳ mang tên “Sóng gió trên những đảo tiền tiêu” do hai phóng viên Nguyễn Thắng và Hà Đình Cẩn viết chung, câu chuyện Trường Sa mới được nhắc đến chi tiết hơn nhưng không nói rõ địa danh từng đảo, chỉ mang một địa danh ước lệ: “Đảo Bão Tố”. Những bức ảnh của Khắc Xuể chụp xuất hiện rải rác, dù hiếm khi nó được chú thích rõ ràng gắn với hai chữ “Trường Sa”.


Với ông Xuể, dù là nhà báo đầu tiên ra chụp ảnh Trường Sa nhưng để có được những bức hình đó cho riêng mình, cũng không hề đơn giản. “Khi về đất liền, trong số 14 cuộn phim đã chụp, tôi bàn giao lại cho cấp trên 10 cuốn. Nghĩ mình là nhà báo mà “trắng tay”, tôi xin giữ lại 4 cuộn với lý do ảnh “không quan trọng”. Còn bài viết về Trường Sa, tôi chỉ viết một bài về trận đánh đảo Sơn Ca và một bài về chiếc xe máy Kawasaki”, ông Xuể tiếc nuối./


Nguyên Minh - Trường Giang


++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++


image008


TTO - 17h30 ngày 4-4-1975, đại tướng Võ Nguyên Giáp, bộ trưởng Bộ Quốc phòng Việt Nam dân chủ cộng hòa, gửi đi bức điện mật về quần đảo Trường Sa, mở ra trang lịch sử mới thiêng liêng cho quần đảo Tổ quốc.


Quần đảo Trường Sa với hơn 100 đảo lớn nhỏ và bãi đá san hô ngầm, rộng khoảng 180.000km2, một phần lãnh thổ của Việt Nam, khi đó đang bị quân đội Việt Nam cộng hòa trấn giữ.


(Viết lại cho đúng: khi đó quân đội Việt Nam Cộng Hòa đang trấn giữ từ năm 1956).


Bức ảnh dưới đây chứng minh sự thật chủ quyền trên đảo Trường Sa do phóng viên ảnh bộ đội Khắc Xuể chụp trên đảo Trường Sa tháng 5/1975, lù lù cột mốc chủ quyền bằng đá xi măng do Hải quân VNCH xây dựng xác lập chủ quyền của VNCH trên đảo Trường Sa từ năm 1956.


image006

Lính đặc công trên đảo Trường Sa năm 1975. Ảnh: Khắc Xuể.


Bức ảnh dưới đây chứng minh sự thật chủ quyền trên đảo Song Tử Tây do phóng viên ảnh bộ đội Khắc Xuể chụp trên đảo Song Tử Tâytháng 5/1975, lù lù cột mốc chủ quyền bằng đá xi măng do Hải quân VNCH xây dựng xác lập chủ quyền của VNCH trên đảo Trường Sa từ năm 1956.


image006

Lính đặc công trên đảo Trường Sa năm 1975. Ảnh: Khắc Xuể.


image008

45 năm đã trôi qua, nhưng ký ức về những ngày lênh đênh giữa đại dương, vượt muôn vàn khó khăn đi tìm đảo, giải phóng đảo và ở lại giữ đảo vẫn còn sống động trong tâm khảm những người lính đặc công nước.


TTO - Trong lúc các cánh quân trên bộ của ta bắt đầu tiến công ồ ạt vào thị xã Xuân Lộc (Đồng Nai) chặt đứt tuyến phòng thủ vòng ngoài Sài Gòn, Bộ tư lệnh Hải quân nhận lệnh đưa ngay tàu ra quần đảo Trường Sa.


Lực lượng giải phóng đảo ngay lập tức được thành lập từ Trung đoàn Đặc công Hải quân 126 đang làm nhiệm vụ bảo vệ một số căn cứ ở bán đảo Sơn Trà (Đà Nẵng).


Là đặc công nước nhưng chưa ai trong số này có tiền lệ đánh chiếm đảo.


image009


Chú thích cho đúng: Lực lượng đặc công của Trung đoàn 126 sau khi giải phóng đảo Song Tử Tây phía sau là cột mốc chủ quyền bằng đá do hải quân VNCH xây dựng từ năm 1956.


image010


17h30 ngày 4-4-1975, đại tướng Võ Nguyên Giáp, bộ trưởng Bộ Quốc phòng, gửi đi bức điện mật về việc giải phóng quần đảo Trường Sa.


5 ngày sau, ngày 9-4-1975, Bộ tư lệnh Hải quân nhận lệnh đưa ngay tàu đi đảo. Khi đó, đại đội 1 của Trung đoàn Đặc công Hải quân 126 đang làm nhiệm vụ bảo vệ một số căn cứ ở bán đảo Sơn Trà (Đà Nẵng), được lệnh bàn giao gấp cho Quân khu 5 và tập kết ngay tại quân cảng Đà Nẵng.


20h ngày 10-4-1975, biên đội ba tàu của Đoàn 125 gồm 673, 674 và 675 cập cảng Đà Nẵng. Ba chiếc tàu được cải trang thành tàu đánh cá, không số, không treo cờ.


Lực lượng giải phóng đảo (gồm 3 phân đội của đội 1) được thành lập, phiên hiệu Đoàn C75, do Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân Mai Năng, trung đoàn trưởng Trung đoàn Đặc công Hải quân 126, làm chỉ huy trưởng.


image011


4h sáng 11-4-1975, Đoàn C75 xuất phát từ Đà Nẵng ra Biển Đông. Ngoài lực lượng đặc công nước của hải quân còn có một phân đội hỏa lực của Tiểu đoàn đặc công nước 471 (Quân khu 5) đi cùng.


Theo thông tin tình báo đưa về, lực lượng Việt Nam cộng hòa đóng trên 5 đảo (Sơn Ca, Sinh Tồn, Nam Yết, Trường Sa, Song Tử Tây) có khoảng 150 lính, thuộc tiểu đoàn 371 Phước Tuy. Sở chỉ huy chung được đặt tại đảo Nam Yết. Đây cũng là đảo có quân số đông nhất (50 lính). Đảo đông thứ hai là Song Tử Tây với 39 lính.


"Ý định của trên là đi giải phóng đảo Song Tử Tây trước để rút kinh nghiệm sau đó còn đánh tiếp các đảo khác vì có nhiều khó khăn ban đầu với đặc công đi đánh đảo", ông Đào Mạnh Hồng, 69 tuổi, một trong những người trực tiếp đi giải phóng đảo Song Tử Tây, kể.


image012


Song Tử Tây là hòn đảo ở phía Bắc quần đảo Trường Sa, cách Đà Nẵng 480 hải lý. Nhưng nhờ những lần chở vũ khí cho chiến trường miền Nam, thường xuyên qua vùng biển này nên thủy thủ Đoàn 125 không khó khăn để nhận biết đảo.


Ông Phan Xuân Ạp, 68 tuổi, một cán bộ Tiểu đoàn đặc công nước 471 (Quân khu 5) tham gia giải phóng đảo, cho biết: "Đúng ra mình phải trinh sát nhưng lúc đó không còn thời gian nữa".


Thuyền trưởng tàu 673, ông Nguyễn Xuân Thơm, kể lúc đó thông tin được cung cấp chỉ đơn giản: đảo Song Tử Tây hình quả trám, phía tây thấp, phía dông cao hơn mặt biển vài mét. Trên đảo có 3 lô cốt, ở giữa hình như có lô cốt hầm ngầm.


17h ngày 13-4-1975, biên đội tàu đến gần đảo Song Tử Tây. Chỉ huy trưởng Mai Năng lệnh cho tàu 673 vòng vào gần đảo để trinh sát. Sau đó các tàu di chuyển ra xa đảo để làm công tác chuẩn bị thực hiện phương án chiến đấu. Sở chỉ huy chiến đấu được đặt trên tàu 675.


image013image014image015


Phân đội 1 được chỉ huy trưởng chiến dịch chọn đánh trận đầu tiên.


Đại đội trưởng Đại đội 1 Nguyễn Ngọc Quế chỉ huy chung, thượng sĩ Đào Mạnh Hống (sau này gọi Đào Mạnh Hồng - PV), phân đội trưởng phân đội 1, chỉ huy trực tiếp phân đội đánh đảo. Thượng sĩ Đào Mạnh Hống khi đó đã có 5 năm kinh nghiệm chiến đấu, từng đánh 15 trận ở Cửa Việt (Quảng Trị).


Phân đội tiên phong này có 3 tổ chiến đấu và được hỗ trợ thêm 2 khẩu đội DKZ và 1 khẩu cối 82mm của Tiểu đoàn 471 đặc công Quân khu 5.


Theo phương án, tàu 673 chở phân đội 1 vào gần đảo để đổ bộ trước. Hai tàu còn lại cơ động ra án ngữ ở phía Bắc và phía Nam đảo sẵn sàng yểm hộ khi cần thiết.


image016


1h sáng 14-4, tàu 673 tắt đèn, lặng lẽ tiến vào gần đảo, thả xuồng. Thời gian là yếu tố sống còn. Phân đội 1 chia làm 3 mũi, bắt buộc phải đột nhập lên đảo trước khi trời hửng sáng.


"Khi xuồng cách đảo khoảng 5km, bộ đội nhảy xuống biển bơi vào đảo. Suốt mấy ngày trên tàu, thậm chí đến lúc xuống xuồng cao su chuẩn bị vào đảo tôi vẫn còn say sóng. Nhưng khi thả quân bơi vào thì tỉnh như sáo! Sóng dữ lắm, đêm tối lại không được sử dụng đèn pin nên tất cả phải bơi nương theo sóng. Thỉnh thoảng lại bị cuốn dạt đi", ông Hồng kể.


Do sóng đánh quá mạnh, khẩu cối 82mm của mũi 1 rơi xuống nước. Sau hơn 2 giờ vật lộn với sóng lớn và nước xoáy, lực lượng đổ bộ đã tiếp cận được các vị trí từ hướng nam, hướng tây và hướng đông nam đảo.


image017image018


Gần 4h30. Ngoài đảo trời hửng sáng sớm hơn trong đất liền.


"Trên đảo chỉ có mấy cây  cao, chim hải âu, chim biển rất nhiều. Lúc bò lê tiếp cận còn đè bẹp cả trứng chim. Lính ở vọng gác thấy chim bay lên bắn vài phát vu vơ cảnh báo chứ không phát hiện ra mình. Vì thế khi chúng tôi lên đến chiến hào và nổ súng chúng mới phát hiện ra", ông Lê Xuân Phát kể.


4h30 ngày 14-4, phân đội trưởng Đào Mạnh Hống lệnh cho chiến sĩ Lê Minh Đức bắn 3 phát B41 vào ăng-ten sở chỉ huy, mở đầu trận đánh.


Nghe hiệu lệnh, đồng loạt các tổ chiến đấu ẩn mình dưới cát ồ ạt xông lên, tấn công cùng lúc vào các lô cốt, công sự trên đảo.


Với kỹ chiến thuật được rèn luyện trong chiến trận và quyết tâm giải phóng đảo, những người lính đặc công đã vượt qua làn đạn chống trả, nhanh chóng làm chủ chiến trường.


Lính đảo bị dồn co cụm về phía tây nam đảo. Toàn bộ 33 người còn lại bị bắt sống, toàn bộ vũ khí bị tịch thu.


image019image020


Phần trướcHồ sơ: TRƯỜNG SA - THÁNG 4 LỊCH SỬ 1975