Lưu Diệu Vân, khuôn mặt mới trong dòng Văn học Hải ngoại

20 Tháng Sáu 20259:01 SA(Xem: 467)

VĂN HÓA ONLINE – VĂN HỌC NGHỆ THUẬT 1 - THỨ SÁU 20 JUNE 2025

 

* Văn Hóa Online giới thiệu cùng quí bạn đọc:

Lưu Diệu Vân, khuôn mặt mới trong dòng Văn học Hải ngoại

image007

Lưu Diệu Vân, born December 1979, is a poet, literary translator, and co-editor of the bilingual literary magazine damau.org. She received her Master’s Degree from the University of Massachusetts in 2009. Her bilingual works and translations have been published in numerous print literary journals and online magazines. Her publications include 47 Minutes After 7, poetry, Van Nghe Publisher (2010), The Transparent Greenness of Grass, flash fiction, Tre Publishing House, co-author (2012), Poems of Lưu Diệu Vân, Lưu Mêlan, Nhã Thuyên, co-author, Vagabond Press (2013), M of December, Vagabond Press (2106).

She is currently an adjunct professor at Santa Anna College, a language instructor at California State Univerisity – Fullerton, a business consultant, and is endlessly pursuing all forms of arts.

Lưu Diệu Vân, sinh tháng Mười Hai, năm 1979, là nhà thơ, dịch giả, và biên tập viên tạp chí văn chương Da Màu. Cô nhận bằng thạc sĩ từ đại học Massachusetts vào năm 2009. Các sáng tác song ngữ và dịch phẩm của cô đã được xuất bản và đăng tải trong nhiều tạp chí văn chương. Tác phẩm đã xuất bản: 7 Giờ 47 Phút, thơ, (nxb Văn Nghệ, 2010), Màu Cỏ Xanh Trong Suốt, truyện chớp, đồng tác giả, (nxb Trẻ, 2010), và tập thơ Anh ngữ Poems of Lưu Diệu Vân, Lưu Mêlan, Nhã Thuyên, đồng tác giả, (nxb Vagabond Press, 2013), và tập thơ Anh ngữ M of December, nxb Vagabond Press (2106)

*

Ra Biển Thêm Một Lần

 

Tác giả: Andrew Lam

Chuyển ngữ: Lưu Diệu Vân

 

Andrew Lam là tác giả của tập truyện ngắn Birds of Paradise Lost và hai tập tiểu luận East Eats West: Writing in Two Hemispheres Perfume Dreams: Reflections on the Vietnamese Diaspora. Tháng Ba, 2025 Red Hen Press xuất bản tuyển tập mới của ông, Stories from the Edge of the Sea.

Bài tùy bút này được dịch từ nguyên tác tiếng Anh “Once More to the Beach” trong tuyển tập.

Một buổi chiều, cách đây rất lâu, tôi thấy tôi ở đang Việt Nam, một mình trên bãi biển Vũng Tàu, một thị trấn ven biển gần Sài Gòn, dõi mắt ra biển khơi. Cuộc chiến đang diễn ra một cách khốc liệt. Huế và Đà Nẵng đã thất thủ. Rồi sẽ đến vùng cao nguyên trung phần. Sài Gòn trong cơn hoảng loạn. Quân cộng sản đang tiến như nước vỡ bờ. Tôi mới mười một tuổi và nhỏ con so với tuổi. Bãi biển gần như vắng tanh. Gió và sóng gầm rú bên tai tôi. Tôi dang rộng hai tay, múa may trong không khí, miệng lẩm nhẩm những câu thần chú huyền hoặc.

Nhưng tại sao tôi lại ở đó một mình?

 

Thật khó có thể quay ngược lại tất cả những năm tháng ấy và khẳng định rằng tôi hiểu rõ cậu bé đó. Trong suốt một thời gian dài ở Mỹ, khoảnh khắc ấy đã rời xa tôi – cho đến những năm gần đây. Nhưng tôi nhớ rất rõ điều gì đã dẫn đến nó. Gần cuối cuộc chiến, cha tôi và anh trai của ông, cả hai đều là tướng lãnh trong quân đội Việt Nam Cộng Hòa, đã bị Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu bắt giữ cùng với năm vị tướng khác. Sau khi ra lệnh rút quân từ các vùng khác để bảo vệ Sài Gòn và vùng phụ cận, lo sợ một cuộc đảo chính quân sự. Vì vậy, ông Thiệu cho giam giữ các vị tướng trong một khu nhà lưu động sang trọng nằm trong Bộ Quốc phòng, bên cạnh sân bay Tân Sơn Nhất.

 

Gia đình tôi và gia đình bác tôi đã đến Vũng Tàu theo lệnh của Cha. Những tàu hải quân Mỹ dự kiến sẽ cập bến ở đó để di tản nhiều gia đình có chức vụ và quen biết lớn – ít ra ông cũng được cho biết như vậy. Chúng tôi ở trong một biệt thự khá lớn, những cây phượng vĩ trong vườn bắt đầu nở hoa đỏ rực, và biển thì chỉ cách con đường phía trước. Một buổi chiều, tôi nhớ các bà ngồi quây quần bên bàn ăn cạnh cửa sổ mở rộng trên lầu hai, chăm chú dùng kìm nhỏ để tháo những viên kim cương và hồng ngọc khỏi những chiếc vòng đeo tay và nhẫn của họ. Mỗi người có một hộp kim chỉ, bên trong là nút áo, ống đẩy kim, kim khâu và chỉ, nhưng những viên sáp ong mới là thứ quan trọng. Dưới ánh nắng miền nhiệt đới, sáp mềm ra vừa đủ để các bà có thể giấu những viên đá quý vào trong đó – tất cả là để chuẩn bị đối đầu với những hành vi bạo lực có thể xảy ra trên tàu.

 

Họ vừa làm vừa trò chuyện, nhưng bất chợt, một tiếng hét vang lên: một viên kim cương từ chiếc nhẫn của dì tôi văng xuống sàn và biến mất đâu đó dưới chân. Thật khó để tìm thấy nó trên nền gạch men trắng, các bà cuống cuồng tìm kiếm, nhưng vô ích. Thế là họ gọi tôi. Một cậu bé nhỏ con, tôi rời bỏ chồng truyện tranh Pháp và dễ dàng chui xuống dưới bàn ghế, cuối cùng cũng tìm thấy viên đá đang lấp lánh gần chân bà ngoại tôi. Tôi còn nhớ đã giơ nó lên cho mọi người cùng thấy. Dưới ánh nắng, nó lấp lánh giữa những ngón tay bé xíu của tôi, và mọi người bật cười nhẹ nhõm.

Tôi nhớ là mình đã cảm thấy sung sướng. Một tai họa đang ập đến thế giới của tôi, vậy mà tôi không có cách nào để hiểu hết điều đó. Việc tìm ra viên kim cương ấy là đóng góp duy nhất của tôi cho gia đình mình, nhưng dĩ nhiên, nghĩ lại thì cũng chẳng đáng là bao.

 

Có lẽ chính những lời đồn về cướp biển, về giết chóc và hiếp dâm đã khiến tôi sợ hãi, và buộc tôi phải tìm kiếm sự bình yên một mình trên bãi biển. Có lẽ là do buồn chán. Điều gì đó đã thúc đẩy tôi rảo bước, tôi đã rời biệt thự và lang thang một mình trên bãi biển trước nhà. Chuyện ấy hiếm khi xảy ra, vì thời đó tôi gần như chẳng bao giờ đi đâu một mình, và vì quá bận rộn mẹ không còn tâm trí đâu để cấm đoán tôi. Tôi cứ thế đi mãi. Tôi đã muốn một mình đi hết chiều dài của bãi biển, như có lần đám anh chị em bà con đã thách thức tôi. Vào cuối tuần thì bãi biển thường đông đúc, nhưng giờ này thì vắng tanh.

 

Rồi, khi chẳng có ai nhìn, tôi dừng lại. Bàn chân chìm xuống cát, tôi múa may trong không khí. Tôi lẩm nhẩm những câu thần chú tự nghĩ ra, rồi chuyển sang cầu nguyện các vị Phật, những vị mà mẹ tôi – một Phật tử sùng đạo – đã dạy tôi. Tôi vung tay trong gió như thể đang kéo một sợi dây vô hình. Tôi không thể khẳng định rằng mình hiểu rõ những gì đã diễn ra trong đầu cậu bé năm ấy, nhưng tôi có thể đoán: có lẽ, bằng một sự kết hợp giữa phép thuật, lời cầu nguyện và khả năng võ thuật tưởng tượng, cậu ấy – như những anh hùng trong các tiểu thuyết kiếm hiệp – có thể triệu hồi một chiếc tàu Mỹ xuất hiện ở đường chân trời để giải cứu gia đình và cả dòng tộc mình?

 

Tôi không nhớ mình đã múa may phù phép được bao lâu, nhưng đã ngừng khi nghe có ai gọi tên mình. Tôi quay lại và thấy chị tôi. Chị đi tìm tôi, vẻ tuyệt vọng hiện rõ trên nét mặt. Tin buồn, chị nói, các tàu Mỹ sẽ không đến. Chúng tôi phải quay lại Sài Gòn ngay để tìm đường thoát khác.

 

Không lâu sau đó, ông Thiệu bỏ trốn khỏi miền Nam Việt Nam. Các vị tướng may mắn được thả ra, và cha tôi nhanh chóng tìm được cách đưa cả nhà rời khỏi Việt Nam. Sáng ngày 28 tháng 4 năm 1975, hai ngày trước khi Sài Gòn thất thủ, chúng tôi chen chúc nhau trên một chiếc máy bay chở hàng và bay sang Philippines. Sau đó, chúng tôi lại lên một chuyến bay khác đến Guam, nơi những chiếc lều quân đội được dựng vội trên nền đất mới san ủi để đón nhận làn sóng tị nạn mới nhất của nước Mỹ.

 

Tôi còn nhớ gió nóng và khô, mặt đất lồi lõm, và những hàng người dài dằng dặc dưới cái nắng thiêu đốt để nhận khẩu phần ăn. Khi nghe tin Sài Gòn đã thất thủ qua đài BBC, tiếng khóc than vang lên khắp khu lều trại.

Tuy nhiên, chúng tôi chỉ ở đó một thời gian rất ngắn. Như bị cuốn đi trong một cơn lốc, chưa đầy một tháng sau, chúng tôi đã có mặt trong một căn chung cư nhỏ ở cuối đường Mission, khu vực gọi là “Top of the Hill,” một xóm lao động đầy sương mù ở phía nam San Francisco, nơi anh cả tôi, một sinh viên du học, đang sống ở đó.

 

Những tuần đầu tiên ở Mỹ, tôi sống trong trạng thái tê liệt và hoang mang. Tôi liên tục mơ thấy ác mộng, trong đó tôi bị bỏ lại trong căn nhà ở Sài Gòn và bị những kẻ vô diện mặc đồ bà ba đen rượt đuổi. Chúng tôi mặc áo khoác được quyên tặng và ăn trên sàn nhà. Không có tin tức gì về cha tôi, người đã ở lại sau. Nhưng rồi điện thoại reo: cha tôi đã thoát khỏi Việt Nam sau chúng tôi trên một chiếc tàu hải quân. Cả nhà bật khóc vì mừng rỡ. Giữa mùa hè, cha tôi đã đoàn tụ cùng chúng tôi. Dù giờ đây là một gia đình tị nạn nghèo túng sống ở rìa thành phố, chúng tôi lại được ở bên nhau.

 

Rồi những cơn ác mộng của tôi chấm dứt, và tôi bắt đầu thay đổi. Nếu vào đầu mùa hè tôi còn sợ hãi, lạc lõng giữa đất nước mênh mông này, thì đến cuối mùa hè, tôi đã cùng những người bạn mới trong xóm lang thang khám phá những ngọn đồi quanh nhà, học chửi thề bằng tiếng Anh một cách đầy hăng hái, và làm quen với luật chơi bóng chày – và cả cách bắt bóng, dù rất vụng về.

Chẳng bao lâu sau, giọng tôi bắt đầu vỡ. Nó vỡ đúng vào lúc tiếng Anh vừa mới bắt đầu thấm vào tôi, đến mức tôi cảm thấy như thể ngôn ngữ mới đang biến đổi tôi từ trong ra ngoài.

Hơn thế nữa, nó đem lại cho tôi một khoảng cách tâm lý với nỗi buồn mà bất kỳ người lưu vong nào cũng mang theo, một nỗi buồn đã phần nào trở thành điều mà gia đình tôi sở hữu.

 

Ở nhà tôi im lặng, gần như câm lặng, nhưng ở trường thì tôi láu lỉnh, lắm lời. Cuối tuần, tôi đến thư viện công cộng và ngấu nghiến các tiểu thuyết Mỹ. Thời gian rảnh, tôi xem phim hài truyền hình hoặc đi chơi với bạn bè. Chúng tôi chơi quần vợt, ném đĩa, và bóng bầu dục biến thể (touch football). Chúng tôi nghe nhạc Mỹ trên radio và các nghệ sĩ hài qua đĩa nhựa. Chúng tôi xem Looney Tunes rồi cười ngặt nghẽo.

Tức là, tôi đã nuốt trọn nước Mỹ. Vài năm sau, khi bước vào trung học, tôi đã trở thành một người khác. Tôi thậm chí còn đổi tên thành Andrew. Việt Nam, như một tấm bản đồ cũ của một thế giới không thể nào lấy lại, đã nhạt phai vô phương cứu vãn, được tôi cất vào một góc cùng với nỗi buồn và niềm thương tiếc.

 

Có những năm tôi cố tình xóa bỏ nó bằng cách từ chối nói tiếng mẹ đẻ, dù dĩ nhiên, tôi vẫn nghe nó hàng đêm – qua lời của người lớn trong gia đình mới của tôi ở Mỹ, thường là với giọng hoài niệm, u uẩn. Tôi giả vờ như mình bị mất trí nhớ. Với những hoài bão và cảm quan Mỹ mới hình thành, tôi cứ thế sống hạnh phúc với cuộc sống mới của mình.

 

Nhưng tại sao tôi lại kể bạn nghe tất cả những điều này?

Vì tôi đang viết những dòng này từ Vũng Tàu, nơi mà gần năm mươi năm trước tôi từng đứng một mình. Tôi đã quyết định, sau chừng ấy năm, sẽ hoàn tất chuyến đi dọc bãi biển mà đứa trẻ ngày xưa từng mong muốn thực hiện. Và tôi muốn bạn biết rằng đôi khi, qua những khúc quanh kỳ lạ của đời sống, con đường dẫn tới tương lai lại đưa ta quay trở về chính bờ cát nơi ta từng cầu xin được cứu rỗi.

 

Nhưng hành trình trở về này hoàn toàn không dễ dàng. Suốt nhiều năm, cuộc chiến mà biết bao người đã bỏ mạng, và còn nhiều hơn nữa đã chết khi vượt biển tìm tự do, chỉ còn là những câu chuyện được kể lại trong vài dịp để gây ấn tượng với bạn học, bạn bè, rồi sau này là người yêu – như một điều gì đó khiến tôi khác biệt một chút, nhưng cũng không quá nhiều. Nhưng rồi, sau đại học, thay vì vào trường y như dự định, tôi chọn học viết văn và trở thành một nhà văn, một nhà báo.

Cuối cùng tôi đã lại nhìn thấy quê hương mình vào đầu những năm 1990. Nhưng khi ấy, tôi đã nhìn nó bằng con mắt của một nhà báo Mỹ đang đưa tin về một đất nước từng bị tàn phá đang dần hồi sinh sau Chiến Tranh Lạnh. Tôi quan tâm đến nghề nghiệp của mình, đến những gì tôi có thể viết, hơn là việc tôi có hay không có sự kết nối với quê hương mình.

Việt Nam, tôi tự nhủ, giờ chỉ là một điểm đến, không còn là định mệnh của tôi nữa. Dù sao cũng còn nhiều điểm đến khác: Lào, Campuchia, Thái Lan, Hồng Kông.

Phải mất thêm nhiều năm nữa, nhiều lần trở lại, nhiều bài viết, nhiều câu chuyện được kể, và không ít lần tan vỡ, tôi mới có thể từ từ chấp nhận ý nghĩ được sống lại trên quê hương mình.

Nhưng quay lại thì hiện tại…

 

Ngày nay, khi đã nghỉ hưu, tôi sống giữa hai nơi: San Francisco và thành phố nơi tôi chào đời – Sài Gòn, hay Thành phố Hồ Chí Minh như nhiều người gọi. Nhưng trong lúc ở Việt Nam – một đất nước đầy những người trẻ đang hối hả tiến về phía trước – tôi luôn phải cố cân bằng giữa ký ức tuổi thơ về một thế giới đã mất với thực tại của một đất nước hiện đại hóa từng ngày, đang lao mình về phía tương lai với tốc độ chóng mặt.

 

Từng là một đứa trẻ trong một gia đình có đặc quyền sống tại Sài Gòn, giờ tôi chỉ là một kẻ lữ hành đơn độc nơi ấy. Gia đình và dòng tộc tôi đã rời bỏ quê hương từ lâu và tan tác khắp thế giới; cha mẹ yêu quý của tôi nay cũng đã không còn.

Và vào những lúc cái nóng ở Sài Gòn trở nên không thể chịu nổi, khi tôi gom đủ quyết tâm, tôi thực hiện chuyến đi hiếm hoi xuống Vũng Tàu – hay đúng hơn là đến những khu nghỉ mát gần đó. Dù tôi luôn chào đón làn gió biển mát rượi, tôi lại e ngại cái nỗi buồn dai dẳng, không ào ạt nhưng âm ỉ, lúc đến lúc đi, kéo dài suốt khoảng thời gian tôi ở đó. Nên những lần ghé thăm, tôi thường chọn nhà nghỉ ngoài thị trấn, tránh xa nơi chốn cũ.

 

Điều đó cũng dễ hiểu thôi. Khi nhìn lũ trẻ la hét chạy nhảy trên cát, những bà mẹ tất bật đuổi theo chúng, các gia đình và bạn bè tụ tập trên những tấm trải – tiếng cười, tiếng hét vang khắp – tuổi thơ của chính tôi như vọng về. Quả thật, với chúng tôi – những đứa trẻ trong thời chiến – Vũng Tàu là niềm vui thuần khiết, một chốn trú ngụ dễ chịu so với Sài Gòn nóng nực và ngột ngạt, nơi chẳng có gì ngoài trường học, những con phố nhỏ hẹp và – vì thời chiến nên có – giờ giới nghiêm. Tôi nhớ những trận đánh bài ồn ào giữa họ hàng, những lần chơi trốn tìm với lũ em họ. Tôi nhớ nhiều tiếng hát, và những người lớn kể chuyện ma khiến chúng tôi hét toáng lên vì sợ hãi.

 

Vũng Tàu là một doi đất dài mười một dặm vươn ra biển, có thể dễ dàng truy về từ thế kỷ XIV, khi tàu thuyền đến, neo đậu tại cảng và buôn bán với người dân địa phương – khi đó vẫn còn thuộc vương quốc Khmer. Vũng Tàu nghĩa đen là vùng tàu thuyền. Cát ở đây khá thô; màu sắc chuyển từ nâu sang đen, và biển dường như chưa bao giờ thực sự chuyển được từ màu xám sang xanh. Vào những thời điểm nhất định, nước biển có thể trở nên ô nhiễm và có màu xanh rêu, đặc biệt là nơi con sông mang theo rác thải từ Sài Gòn đổ ra biển, khiến có những ngày chỉ những người rất can đảm hoặc dại dột mới dám xuống tắm. Vào cuối tuần và các dịp lễ, dường như một nửa Sài Gòn đổ xô về Vũng Tàu, và bằng cách nào đó lại tái tạo nên một phiên bản Sài Gòn chen chúc, ngột ngạt ngay bên bờ biển.

 

Nhưng trong khi một du khách sành sỏi có thể chỉ thấy một thị trấn nghỉ mát hạng ba, thì với tôi, từng lớp lịch sử dày đặc được chôn sâu trong cát, và chính điều đó khiến những chuyến viếng thăm hiếm hoi trở nên khó khăn.

Dù Vũng Tàu giờ đây đã trở thành một thị trấn nghỉ mát đích thực, nơi bờ biển đầy những khách sạn cao tầng, khu chung cư, trung tâm hội nghị – thậm chí có cả công viên giải trí ven biển – thì đó vẫn không phải là hình ảnh tôi nhìn thấy. Thay vào đó, ký ức cũ về chính tôi trên bãi biển ấy lại hiện về, mang theo một sức mạnh kỳ lạ và bất ngờ chiếm lấy tôi.

 

Với nhiều người, tuổi thơ mờ nhạt dần đi theo thời gian, thậm chí có người còn níu kéo được nó dài mãi sang tận tuổi trưởng thành. Nhưng với tôi, nó kết thúc tại một địa điểm cụ thể: nó kết thúc, hoặc gần như vậy, trên bãi biển Vũng Tàu – nơi phép màu và những lời cầu nguyện đều thất bại.

Nhìn lại, tôi là một người tị nạn kép. Bị buộc phải rời khỏi quê hương yêu dấu một cách đột ngột, tôi cũng đồng thời rời bỏ luôn thế giới diệu kỳ của tuổi thơ. Rồi trong đất nước mới, tôi đã đi xa và nhanh đến mức khi ngoảnh đầu lại, tôi không thể nói rằng mình thật sự còn hiểu được cậu bé năm xưa.

Giữa cậu bé ấy và tôi bây giờ là một sự gián đoạn tâm linh đang biến dần thành một vực sâu. Cứ như thể vẫn còn một phần nào đó của tôi vẫn đang đứng đó, trên cát, chờ đợi điều kỳ diệu xảy ra. Và rồi, người đàn ông lớn lên ở nơi khác, từng trải, và giờ đây đang đứng bên kia sườn dốc của tuổi già.

Ngày xưa, cậu là một đứa trẻ được cưng chiều. Là con út trong ba anh em trong một gia đình được nhiều ưu đãi ở miền Nam Việt Nam, cậu bé khi ấy vẫn chưa hiểu hết ý nghĩa của hai chữ “lưu vong.”

Quá mải mê với những trò chơi rượt đuổi, quá đắm chìm trong truyện tranh và tiểu thuyết võ hiệp, cậu bé ấy chẳng hề nhận ra làn da mình đang bị cháy nắng, mặc cho mẹ cậu không ngừng nhắc nhở. Cậu từng sống trọn vẹn trong hiện tại, trong một thế giới nơi phép thuật và ma quỷ là có thật, nơi việc trò chuyện với tổ tiên và chư Phật mỗi tối là điều bình thường. Còn người đàn ông đã vượt qua biết bao biên giới, học cách sống thoải mái trên những miền đất lạ, từng chứng kiến bao đế chế thịnh suy, và viết về nỗi tàn nhẫn cùng những đổ vỡ của kiếp người – thì không thể nào không cảm nhận được sự trôi chảy không ngừng của thời gian qua từng bước chân.

 

Thế nhưng, giờ đây, ông vẫn quay lại nơi này – trở về lại bãi biển xưa, lần theo những bước chân thuở bé thơ. Dọc bờ biển giờ đã có lối đi lát gạch ngay ngắn, ông bước chậm rãi trên đó. Gió mặn thổi lồng lộng, sóng vỗ rì rào, bọn trẻ con cười đùa chạy nhảy trên cát – ông nghĩ đến sự trớ trêu: rằng người Mỹ hóa nhất, trẻ nhất trong gia đình lại là người duy nhất quay trở về sau ngần ấy thập niên và dám tưởng tượng rằng đất nước mà mình từng trốn chạy nay có thể lại thêm một lần là quê hương của mình.

 

Biển gầm lên và sóng rít qua tai. Đứng giữa gió và sóng lúc chạng vạng, ông cảm nhận rõ tuổi tác khi ngón chân cái bắt đầu nhức nhối – ông sợ đó lại là dấu hiệu của một cơn thống phong nữa. Ông nhìn đồng hồ. Trời đã bắt đầu tối. Ông nghĩ đến chuyện bắt taxi quay về khách sạn, uống ít thuốc dạ dày trước bữa tối hải sản mà bạn bè đã hẹn trước.

 

Từ xa, ông thấy hai cậu bé đang chơi đùa trên cát. Mẹ chúng đang mải mê nói chuyện điện thoại gần đó, còn tụi nhỏ thì đang nhập vai đánh võ. Hai cậu bé vung tay múa chân. “Chưởng Long Thăng Thiên!” một đứa hét lớn. “Chỉ Thiên Dương Lôi!” đứa kia đáp trả. Bóng hai đứa lướt đi trong ánh hoàng hôn mờ ảo, tiếng cười vang vọng, niềm vui lan tỏa.

Người đàn ông dõi theo bọn trẻ trong lúc chính ông cũng bắt chước múa may theo chúng, nhưng rồi ông cảm thấy ngượng ngùng, và ông dừng lại. Vô ích thôi: chẳng có phép màu nào hiện ra từ những ngón tay đã nhăn nheo này nữa. Nhưng trong nỗ lực đó, ông bỗng nhìn thấy một điều mà trước giờ ông chưa từng nhận ra: rằng cậu bé năm xưa không chỉ đang cố cứu lấy gia đình và dòng tộc mình bằng trí tưởng tượng.

Sâu tận đáy lòng, theo cách riêng của mình, cậu đang cố gắng gìn giữ thế giới tâm linh và bóng ma của những anh hùng vần vũ trên mây mà cậu từng tin tưởng và sống cùng cho đến giây phút cuối cùng.

Nói cách khác, cậu đang cố cứu lấy tuổi thơ của chính mình. Và điều mà người đàn ông cảm nhận được lúc đó không phải là đắng cay hay hoài niệm, mà là một điều mà trước giờ ông chưa từng cảm thấy: một sự dịu dàng và lòng trắc ẩn dành cho chính bản thân mình thời thơ dại.

Và có lẽ, như vậy là đủ.

 

Proust từng viết rằng: “Hành trình khám phá thực sự không nằm ở việc tìm kiếm những vùng đất mới, mà ở chỗ ta có cái nhìn mới mẻ.” Nhưng để trở về nhà sau ngần ấy năm có lẽ đòi hỏi người ta phải có đủ can đảm để nuốt trọn nỗi buồn bằng mọi giác quan của mình, và phải tìm ra cách để nối liền – qua thơ ca, qua những câu chuyện, những bài hát – những mảnh vỡ rời rạc của chính mình.

 

Đèn đường giờ đã bật sáng, và trên đầu ông bầu trời chuyển từ màu hồng sang sắc xám đậm chất hoài niệm. Phía bên kia đường, một công viên giải trí lớn đã lên đèn; những vòng đu quay và vòng quay ngựa gỗ sáng rực trong thứ ánh sáng lấp lánh, rực rỡ sắc màu. Giờ này lối đi dọc bờ biển lung linh kéo dài ra tận chân trời, lưa thưa những bóng người dạo bước.

 

Gió trở lạnh khi màn đêm buông xuống. Lúc này ngón chân ông nhói buốt. Nhưng rồi, sau một thoáng lưỡng lự, ông quyết định tiếp tục bước đi. “Mình nên thử, ít nhất một lần, đi hết chiều dài bãi biển này trước bữa tối,” ông tự nhủ. “Lần tới có quay lại, nếu như còn có lần tới, chắc mình không còn đủ sức để đi hết quãng đường nữa.”

 

San Francisco

image005

Ở Một Nơi Khác

 

Ta hẹn nhau

chiều

quán nhỏ Coffee La Rumba tây ban cầm da diết 

Ta hẹn nhau

đêm

nhạc tình España thấu. Thấu tâm can. 

 

Hẹn nhau

bốn mùa đi qua 

Em

giọng nói

Em

tiếng hát tiếng cười tiếng khóc

ôi, lòng ta xúc động khôn nguôi.

  

Hẹn nhau

ngày đêm đi qua

lòng ta mãi mãi khát khao

day dứt mối tình

day dứt tình yêu

 

Em 

ở một nơi khác

rất khác

Em 

ở một nơi lạ

rất lạ

Em

ở một nơi xa

rất xa.    

 

Quán nhỏ La Rumba nhạc tình España

 

Em 

mơ một nơi khác

rất khác

Em 

mơ một nơi lạ

rất lạ

Em

mơ một nơi xa

rất xa.  

 

 

* thơ: LKT

* chuyển ngữ: Lưu Diệu Vân

 

In Another Place

We rendezvous

evening

a little Coffee La Rumba shop with tormenting guitar

We rendezvous

night

piercing España love music. Through the heart.

 

Rendezvous

through four seasons

You

the voice

You

the singing the laughing the crying

Oh, the ceaseless emotions of my heart.

 

Rendezvous

through nights and days

my heart forever yearns

agonizing the love

agonizing over love

You

at another place

so different

you

at a strange place

so strange

you

at a distant place

so far.

 

A little La Rumba shop with España love music.

 

You

dream of another place

so different

You

dream of a strange place

so strange

you

dream of a distant place

so far.