VĂN HÓA ONLINE - VĂN HỌC-VĂN CHƯƠNG - THỨ BẨY 15 FEB 2025
Trần Thùy Mai: Tiểu thuyết lịch sử ‘Công Chúa Đồng Xuân’- Chương 50 tới 60
Chương 50
Vạn vạn lần không dám
Cầm được tờ ý chỉ trong tay, Tôn Thất Thuyết rất hài lòng. Có một điều ông đưa ra, mà Thái hậu đã vô tình lập lại trong tờ chỉ này: sẽ không chọn người ít tuổi; vì vậy, vua mới sẽ được chọn trong các hoàng đệ.
Đọc chỉ, Nguyễn Văn Tường không khỏi thoáng cau mày, liếc nhìn Thuyết. Vậy là Thuyết đã chơi khôn cả với mình, ông nghĩ. Thuyết biết thừa, ông đang muốn đưa Hoàng tử Ưng Đăng lên ngôi. Vậy mà giờ đây ý chỉ này đã chận đường ông một cách ngang xương.
Chỉ trong một ngày, cán cân quyền lực đã đổi hẳn. Trần Tiễn Thành hầu như bị xếp xó, tuy vẫn còn chức phụ chính nhưng chỉ là hữu danh vô thực. Nguyễn Văn Tường, trước nay vẫn xem mình là cái đầu, Thuyết là cánh tay, mình là chữ Trí, Thuyết là chữ Dũng. Giờ Tường cảm nhận rõ ràng Thuyết đang vượt lên, khống chế tất cả.
- Chọn trong các hoàng đệ, nghĩa là chọn ai đây? Hiện nay nổi bật lên trong các mệ thì chỉ có hai cái ông đang phụ trách Tôn Nhân phủ, Hồng Hưu và Hồng Dật. Ông nghĩ sao? - Tường gượng gạo đưa ra ý kiến.
Tôn Thất Thuyết nói ngay:
- Hồng Hưu thời thường hay tiếp lão sứ Rheinart, nói chuyện gì thì không rõ, nhưng chừng ấy thôi đủ không tin được! Nay tuy Rheinart đã về nước, Champeaux mới thay chưa thấy rục rịch gì, nhưng ai biết chúng có đi đêm với nhau không? Ta hãy chọn Hồng Dật. Hồng Dật mỗi lần nói chuyện thường tỏ rõ cái ý ghét Tây. Hơn nữa, tính Hồng Dật hiền lành, dễ bề uốn nắn, như vậy mới lợi cho việc nước.
Dạo này giọng nói Thuyết bỗng thay đổi, mỗi lần nói lại gằn giọng ở mấy tiếng cuối. “Lợi cho việc nước!” - mấy từ này được nhấn mạnh, kèm với một cái lừ mắt đầy vẻ trấn áp. Tường tuy khôn khéo, lúc này cũng đành phải theo. Ông thấm thía nhận ra: cái chỗ dựa để cho ông mạnh hơn Thuyết và điều khiển được Thuyết chính là vua Tự Đức, mà nay ngài đã nhắm mắt rồi.
Ngay chiều hôm ấy, lệnh được chuyển tới phủ Văn Lãng. Kiệu áp sát cổng phủ, giục giã thân công mau vào điện Văn Minh có việc, Hội đồng Cơ mật đang chờ.
Tim đập thì thụp chẳng hiểu chuyện gì, Hồng Dật lên kiệu. Trong cuộc họp với Hội đồng Cơ Mật, quá bất ngờ, ông hoàng thảng thốt dậm chân kêu trời:
- Trong các hoàng đệ, ta chỉ là con út, tự xét tư chất tầm thường, việc lớn này thật vạn vạn lần không dám, không dám!
Tôn Thất Thuyết đứng phắt lên, dõng dạc:
- Ngày nay muốn tìm vua trưởng thành cho đất nước, không ai hiền đức cho bằng Văn Lãng công!
Miệng nói, tay Thuyết đập mạnh xuống bàn! Các quan Cơ mật đều im bặt, không một ai dám hó hé. Cả Hồng Dật cũng im bặt!
Vậy là hai hôm sau, tại điện Thái Hòa, một lần nữa lại diễn ra lễ tấn tôn Hoàng đế.
Hồng Dật được phò lên ngôi, lấy niên hiệu là Hiệp Hòa.
“Hoàng thượng vạn tuế... vạn tuế... vạn vạn tuế!”
Ngồi trên ngai, nghe tiếng quần thần phủ phục tung hô, không hiểu sao Hoàng đế Hiệp Hòa lại thấy một cảm giác bơ vơ trơ trọi vô cùng, nhất là khi liếc sang hai bên thấy vẻ mặt lạnh lùng của hai quan phụ chính. Tường và Thuyết không lạy, chỉ cầm hốt đứng uy nghiêm hai bên tả hữu ngai vàng.
Lúc tiếng hô vạn tuế vừa ngớt, chợt từ xa vọng tới một tràng tiếng chim, nghe rõ mồn một. Đó là lúc thị vệ đang dùng gậy xua một con quạ vừa đáp xuống cây mưng trước điện, buông tiếng kêu não nuột.
“Mau xua nó đi, không các ngài lại quở cho. Cái con quạ quái ác xui xẻo, sao lại nhè lúc này mà kêu, có khổ chúng ta không!” Đội trưởng Ngự Lâm than trời.
Phiên đại triều chấm dứt, Hoàng đế hồi cung. Đang đăm chiêu, ngài vui mừng tươi nét mặt khi thấy người anh thân thiết, Hồng Hưu, đang đứng bên lối ra.
- Hoàng huynh! - Ngài kêu lên, như đang ở trên sa mạc chợt thấy bóng cây.
- Hoàng thượng vạn tuế! - Hồng Hưu lật đật quỳ sụp xuống.
Hiệp Hòa khựng lại. Thời anh em rong ruổi vui chơi bên nhau đã hết rồi.
- Hoàng huynh! Đệ... À, trẫm… lên ngôi gặp lúc này, trong lòng thật lo nhiều hơn vui!
- Tâu Hoàng thượng, cốt nhục tình thâm, thần và tôn thất sẽ luôn hết lòng phò tá. - Hồng Hưu tâu khẽ.
Mấy lời vắn tắt làm nhà vua cảm thấy tạm vững lòng. Ngài nhớ lời Hồng Hưu: “Anh em trong nhà dựa vào nhau, chẳng hơn là dựa vào người xa lạ?”.
Mấy hôm sau, Hồng Hưu được thăng từ tước Công lên tước Quận vương, một mình kiêm quản hết hai chức tả hữu tôn chính, cầm đầu mọi việc trong hoàng tộc. Hai vị hoàng thúc là Thọ Xuân công Miên Định và Tuy Lý công Miên Trinh cũng được phong vương, sắc phong được tuyên cấp ngay trong ngày.
- Tại sao Hoàng thượng một mình tự quyết, mà không báo cho phụ chính? - Tôn Thất Thuyết giận dữ trừng mắt.
Ánh mắt uy hiếp ấy làm Hiệp Hòa chùn cả người. Tuy vậy, ngài vẫn gắng cứng cỏi:
- Việc này chỉ can hệ đến nội bộ hoàng gia. Không phải là việc ngoài triều, trẫm nghĩ là các khanh không cần quan tâm!
- Không được! Hoàng thượng muốn hoàng tộc thành một thế lực mạnh, để rồi bắt đầu can thiệp triều chính, phải không?
Tôn Thất Thuyết nói huỵch toẹt trúng ngay tim đen của Hoàng đế. Hiệp Hòa giật nẩy mình, vội tìm lời biện bác:
- Lúc này đất nước đang nguy, thêm người gánh vác thì tốt, sao lại nghi ngờ lẫn nhau. Các khanh đã lập trẫm lên ngôi, thì cũng phải để cho trẫm có cái quyền của một Hoàng đế, được tự mình quyết đoán một số việc!
- Quyết được cái gì hay ho không, mà đòi tự quyết? - Thuyết nạt lớn, giằng mạnh nắm tay xuống án thư. – Hoàng thượng đừng mong cản trở chúng ta, không xong đâu!
- Nếu các khanh một lòng trung quân ái quốc, trẫm có lòng nào cản trở chứ? - Thấy Thuyết lộ rõ vẻ khinh thường, Hiệp Hòa tức giận quên cả e sợ. Ngài nghĩ thầm: “Ta phải cứng từ đầu mới được, nếu chịu mềm thì với cái đà này hắn sẽ vắt ta như vắt cái giẻ lau.”
Nguyễn Văn Tường từ nãy ngồi im để cho Thuyết một mình cự cãi. Giờ nghe đến câu “Nếu các khanh một lòng trung quân ái quốc”, sợ Thuyết không hiểu thấu cái ý tế nhị của vua, Tường liền lên tiếng:
- Vậy là Hoàng thượng vẫn còn lo chúng thần không thật lòng trung nghĩa. Hoàng thượng cứ yên tâm, rồi thời gian sẽ chứng minh: ai trung ai nịnh, ai chính ai tà ở đời này. Thôi, chúng thần xin lui.
Tường cúi đầu làm lễ lui gót, trong khi Thuyết chỉ quay lưng đi thẳng, mặt hầm hầm chưa tan nộ khí.
- Dù gì cũng là chút lễ vua tôi, ông cũng nên giữ phép một chút, chẳng mất chi đâu! - Trên đường ra cổng Hiển Nhơn, Tường khuyên Thuyết.
Thuyết gạt phắt:
- Thuyết lăn lộn chiến trường mười mấy năm, dầm mình trong xương máu, cái chết lúc nào cũng rình rập bên mình. Còn bọn này ăn trắng mặc trơn, ngồi không lãnh lương gấp mười lần chúng ta, làm sao đất nước không tàn mạt. Đất nước là của ta, chứ có phải của bọn họ đâu mà hễ mở miệng là đòi trung nghĩa?
- Ủa? Thì chính ông khăng khăng lập Hiệp Hòa làm vua, chứ còn ai?
Thuyết hừ một tiếng:
- Chẳng qua vì sĩ dân ta vẫn còn quá mê tín dòng máu hoàng tộc, nên ta mới phải lưu lại một cái bị thịt trên ngai. Đâu có phải hễ ngồi trên ngai tức thị đã là vua? Hắn lầm lắm rồi đó! Lại còn muốn Thuyết này vái lạy với nói năng nhỏ nhẹ ư, thôi khỏi!
Nguyễn Văn Tường nghe khẩu khí, biết có khuyên cũng chẳng được, lẳng lặng đi theo Thuyết ra khỏi hoàng cung.
©©©©©
Tri Kiểm từ trại Anh Danh Giáo Dưỡng về thăm mẹ, người rám đen, mặt mũi tươi cười. Hôm nay chàng trai đã xong chương trình huấn luyện dành cho trật thứ nhất của võ quan.
Gia Phúc mừng cuống quýt. Mặc dù trường trại Anh Danh chỉ cách công phủ chừng ba dặm đường, nhưng vì kỷ luật nhà binh, cũng ít khi con trai được về nhà.
Lần này Tri Kiểm về, ngoài việc thăm mẹ còn để lấy thêm tiền và gói ghém đồ dùng để đi xa. “Con đi đâu?” Gia Phúc lo lắng hỏi.
- Cả đội Anh Danh tam trường của con ngày mai được điều xuống cửa Thuận An.
- Trời ơi, con đi trấn ở cửa biển? Con còn nhỏ mà, sao phải tới mấy chỗ nguy hiểm đó?
Tri Kiểm bực tức:
- Con lớn rồi! Còn nhỏ gì nữa? Mẫu thân đừng sợ, ở trường con học đủ hết côn quyền cung kiếm, cả bắn súng nữa.
Gia Phúc thấp thỏm:
- Tiên đế băng hà, còn quàn trong điện Càn Thành, chưa an táng. Con các công chúa cũng phải để tang nửa năm. Sao con không nói với võ quan cấp trên như vậy, để họ khỏi điều con đi.
- Con tình nguyện xin đi, chứ ai điều đâu? Tàu Tây ngày một ngày hai sẽ kéo đến, quan Đề đốc Lê Sĩ trấn thủ đồn Trấn Hải vừa xin viện binh. Cả đội con ai cũng hăng hái xin đi, theo lệnh Quan Tướng đánh giặc.
Quan Tướng là tiếng trong dân gian thường gọi Tôn Thất Thuyết, thượng thư bộ Binh. Lâu nay, chàng thanh niên Nguyễn Tri Kiểm cùng bạn bè vẫn xem Quan Tướng là thần tượng. Dù cũng nghe tiếng đồn về tính hiếu sát, độc đoán của Thuyết, nhưng người dân sẵn sàng bỏ qua hết mọi điều tiếng, chỉ cần một điểm son của ông: hăng hái chống Tây bằng mọi giá.
“Con ơi…” Gia Phúc vốn dễ xúc động, mới nghe con nói đến đó, đã run tay run chân, cổ họng nghẹn lại. Nàng nhớ đến lúc Nguyễn Lâm rời nhà ra đi, cũng hăng hái, nhiệt thành như thế. Cả cái buổi sáng ở thành Hà Nội, khi chàng băng mình chạy ra phòng tuyến, không một chút do dự.
Tri Kiểm thấy mẹ chưa gì đã choáng váng như vậy, liền ghé bên nói nhỏ:
- Mẫu thân đừng có hở tí đã tán loạn lên… Con là dòng dõi ba đời võ tướng, ăn lộc vua phải xả thân vì nước là chuyện tất nhiên. Kìa như công tử Đặng Hữu Phổ, con của Huệ Phố công chúa, chỉ là thư sinh bạch diện mà cũng đứng ra bí mật chiêu mộ quân Đoàn Kiệt, sẵn sàng nổi dậy đó! Vì nước có ai nề hà chi đâu? Cũng chẳng ai chờ đến hết tang tiên đế!
- Thật hả con, sao mẹ không biết?
- Mẫu thân chỉ loay hoay trong phủ, làm sao biết chuyện bên ngoài? Tình hình sục sôi lắm rồi, Tây sắp lấy hết nước ta, cho nên Quan Tướng mới phải cho mật lệnh thành lập quân Đoàn Kiệt. Còn chuyện Quan Tướng phế vua cũ dựng vua mới, không phải là bất trung đâu, mẫu thân đừng có nghe người ta oán trách mà nói theo. Quan Tướng phải làm vậy mới đánh Tây cứu nước được.
Gia Phúc vịn vào áo con:
- Ai làm gì thì làm… Mẹ chỉ còn mình con thôi… Mẹ sợ con có làm sao…
Nói đến đó Gia Phúc lại mếu. Thấy nước mắt, Tri Kiểm vừa bực vừa thương. Chàng vùng đứng dậy, cố ý lộ cái bực mình ra mặt, để giấu cái thương vào sâu trong lòng:
- Chí làm trai dặm nghìn da ngựa, gieo Thái Sơn nhẹ tựa hồng mao. Cùng lắm là chết ở sa trường, sợ cái gì? Mẫu thân đừng có làm nhụt chí khí của con.
Nói rồi, sợ mẹ níu kéo, Kiểm lật đật xách tay nải và kiếm ra sân, nhảy lên ngựa chạy một mạch.
©©©©©
Hoàng đế Hiệp Hòa càng lúc càng chịu không nổi thái độ khinh thường của Tôn Thất Thuyết. Nhân ngày giỗ ở Triệu miếu, ngài triệu Hồng Hưu vào điện Cần Chánh, kể hết mọi nỗi uất ức.
- Hắn nạt trẫm như nạt đứa con nít, ra vào cung cấm nghênh ngang như chỗ không người. Không lạy cũng chẳng vái, vô lễ hỗn hào quá mức. Thật làm vua như trẫm khác chi làm đầy tớ cho hắn. Từ khi trẫm sinh ra đến nay là ba mươi sáu năm, đến lúc ngồi trên ngôi chí tôn mới biết thế nào là đau nhục.
Hiệp Hòa nói đến đó, bất giác lòng uất nghẹn, hai hàng nước mắt ứa ra.
- Tâu Hoàng thượng, tình hình giờ rất khó. Ngoài cửa biển thì Tây đang lăm le. Trong triều thì quyền thần lộng ngược. Một lúc chống hai phía, e rằng khó vô cùng. Nếu Bắc cự Tào Tháo thì Đông phải hòa Tôn Quyền, sách xưa đã nói vậy. Xin Hoàng thượng suy xét, ai là Tào Tháo, ai là Tôn Quyền, rồi tùy đó mà xử sự!
- Nghĩa là...
- Một, nếu xem Tây là kẻ địch chính, thì chỉ còn cách chịu nhẫn nhục với quyền thần, để tập trung chống Tây. Dân mình vốn nhiệt thành yêu nước, nên nghe quyền thần hô một tiếng chống Tây, là người người ủng hộ. Tôn Thất Thuyết lộng ngược, cũng vì y nghĩ sau lưng có sĩ dân tán đồng. Nhưng sĩ dân nhìn y từ xa, chỉ biết y là người khẳng khái mạnh mẽ, mà không biết y là kẻ cuồng ngông độc đoán, xem mình là rốn biển. Y cũng chẳng biết liệu tính sức người sức ta. Việc chống Tây theo kiểu bản năng không tính toán, trước sau sẽ thất bại, mà cái thất bại này, sĩ dân ta chính là người chịu đầu rơi máu chảy, cửa nát nhà tan trước hết!
- Vậy còn cách thứ hai?
- Cách thứ hai, nếu xem quyền thần là mối nguy cho đế quyền, thì đành tạm hòa với Tây, mượn sức Tây để trừ quyền thần. Tiên đế đã lỡ giao quyền cho hắn, nay hắn như con hùm có cánh, Hoàng thượng có muốn trừ cũng không nổi. Sớm muộn thì hắn sẽ là vua còn Hoàng thượng chỉ làm con rối trong tay hắn, mà chịu làm con rối chưa chắc đã yên thân! Chỉ có tạm hòa với Tây, mà theo thần thì trước sau ta cũng không có cách chi hơn là phải hòa với chúng.
- Hòa với Tây? Rồi dư luận của sĩ dân?
- Hạ thần xin nói thực lòng. Sĩ dân lúc nào cũng muốn nước nhà tự chủ, cũng sẵn sàng vì nước quên thân. Nhưng sĩ dân không có điều kiện nhìn hiểu thực lực kinh tế quân sự của ta đến đâu, không thể tính toán được cách xử lý sao cho ít tổn thất nhất. Người làm vua làm quan phải biết tính cho dân, chứ không phải ỷ vào lòng yêu nước của dân để xài mạng dân như cỏ rác!
Hồng Dật cau mày suy nghĩ:
- Hoàng huynh nói cũng có lý. Cái ý này, huynh nên đem nói với các cụ bô lão trong hoàng tộc. Thử xem ý các cụ ra sao?
- Thần xin vâng. Hiện giờ đứng đầu tôn thân là hai cụ Thọ Xuân vương Miên Định và Tuy Lý vương Miên Trinh. Cụ Thọ Xuân thì thần xin nói thật, gió chiều nào xoay chiều đó, chỉ nhắm ai mạnh mà theo, nên chẳng trông mong gì được. Chỉ còn cụ Tuy Lý là người có tâm có đức, cụ đã nói thì tôn thân đều nghe. Thần sẽ đem tình cảnh của Hoàng thượng kể lại với cụ, xem cụ nghĩ thế nào!
Hồng Hưu cáo lui, Hoàng đế Hiệp Hòa cũng đứng dậy rời điện Cần Chánh, trong lòng nhẹ đi mấy phần. Từ trên hành lang, nhà vua thấy quân hầu vẫn còn tiếp tục khiêng một số hòm xiểng, đồ dùng từ phủ cũ vào chỗ ở tạm của ngài trong điện Hoàng Phước.
Hiệp Hòa mới lên ngôi chưa được mấy ngày, lại trong hoàn cảnh rối ren, nên chưa ai kịp nói cho ngài biết những ngóc ngách của hoàng cung. Có một đường thông giấu kín trong vách, cho phép từ điện Càn Thành có thể nghe ngóng động tĩnh từ ngôi điện phía trước.
Câu chuyện trao đổi giữa hai anh em Hoàng đế, cứ tưởng là diễn ra trong chỗ kín như bưng, không ngờ có người đã ghé tai vào khe hở bí mật, từ xa nghe hết từ đầu đến cuối.
Đó là thái giám Trần Đạt, lúc này đang trực điện Càn Thành để hầu nhang đèn bên linh cữu tiên đế.
Đạt vốn là người thân tín của quan Quận Nguyễn Văn Tường.
Chương 51
Tờ mật chiếu
- Ông thấy chưa? Tôi đã tính trước, quả nhiên không sai. Hoàng thượng cùng mấy ông hoàng đã tính chuyện rục rịch rồi. Người trưởng thành đó! Hiền đức chẳng ai bằng đó! - Nguyễn Văn Tường cười bảo Tôn Thất Thuyết. Cái nụ cười nhẹ nhàng như không, mà ngầm ý rất sâu!
Tôn Thất Thuyết không thể không hiểu, ý Tường muốn nhắc khéo: “Vậy mà trước đây chính ông cứ khăng khăng đòi lập vua lớn tuổi, gạt phắt Hoàng tử Ưng Đăng. Biết vậy lập cậu bé ấy lên ngôi, bảo gì nó ngoan ngoãn nghe theo, có phải tiện hơn không.”
- Công việc ở đời, mười chuyện sao khỏi có một chuyện sai. Đã sai, thì ta sửa, vậy thôi! - Tôn Thất Thuyết nói, vẫn giọng nói quen thuộc, mỗi lời thốt ra như một nhát rìu chém xuống đá.
Nguyễn Văn Tường can:
- Chúng ta nhiếp chính, ngồi trên vạn người. Ai cũng nói sai thì sửa, nhưng mỗi lần sửa, là một lần đảo lộn thiên hạ. Vả lại, việc mới đến đó, chưa có gì là bằng cớ. Không lẽ ta lại nói với Hoàng đế là vừa nghe lén được chuyện này, chuyện nọ. Hãy chờ cho hình tích lộ hẳn, tang chứng rõ ràng, lúc ấy hãy tính.
Tường vừa dứt lời, chợt nghe tiếng bùm bụp ì ầm, nghe như tiếng đại bác từ xa.
Cả hai người biến sắc. Nhìn về phía Đông, thấy có dấu khói bụi bốc lên ám đen ở chân trời. Chưa đến nửa canh giờ thì có tin thám mã báo gấp: tàu Tây đã nổ súng vào cửa biển Thuận An!
Đó cũng là lúc chàng thanh niên Nguyễn Tri Kiểm lần đầu ra trận. Từ đầu đêm đến giờ, chàng hồi hộp chờ bên lỗ châu mai, chú mục nhìn ra biển. Mười mấy chiếc tàu Tây đang giăng hàng ngang, trông như một đoàn hải quái đen ngòm. Những cảm giác nôn nóng, lo lắng, thú vị, lẫn lộn trong tâm hồn nhiệt thành của chàng trai trẻ.
Đội trưởng rỉ tai, kể với Tri Kiểm: quân giặc vừa đưa tối hậu thư đến quan trấn thủ Đề đốc Lê Sĩ, bắt phải nộp khí giới đầu hàng trong vòng hai tiếng đồng hồ.
- Vậy quan Đề tính sao?
- Ngài nghe dịch thư xong, chỉ buông ra một câu…
- Câu gì? - Tri Kiểm sốt ruột.
- Ngài chỉ nói mấy tiếng gọn lỏn: “Mẹ kiếp! Hàng cái con c…!” Xong rồi ngài ném thư xuống đất, lập tức ra lệnh điểm binh.
Cả đội phá ra cười tán thưởng. Đội trưởng để cho họ cười thoải mái, rồi nhắc:
- Chú mục vào tàu giặc, chờ lệnh! Trận đánh này vô cùng quan trọng. Hãy nhớ: Trấn Hải đài là pháo đài phòng thủ kinh thành. Kinh thành còn hay mất là do lòng trung nghĩa của chúng ta đây!
Tất cả dạ ran, tập trung quanh các ụ súng thần công, hướng về phía trước.
Hơn chục cơ đội ở hàng đầu đều là võ sinh Anh Danh Giáo Dưỡng mới học xong. Ai nấy đều trẻ tuổi chí hăng, chưa vợ con nên chẳng biết sợ chết. Súng lớn và súng hỏa mai cũng mới được bộ Binh trang bị thêm. Nguồn súng mới này có được là nhờ Cờ Đen mua giúp.
Đầu giờ Thìn, mặt trời lên cao chói lọi trên biển. Cả đoàn quái thú đen ngòm đang im lìm trên biển khơi bỗng chuyển mình, đồng loạt hùng hục tiến tới. Đại bác trên các pháo thuyền khạc lửa dữ dội.
Bên phía quân Nam, một pháo lệnh được bắn lên cao ngay lúc tàu Tây vào đến tầm súng. Quân sĩ đồng loạt khai hỏa.
Quan Trấn thủ Lê Sĩ cùng em ruột là Lê Chuẩn lên đài chỉ huy, đích thân đốc thúc. Hai bên bắn qua lại rền trời, suốt ba hôm khói bụi dày đặc.
Qua đến ngày thứ ba, tiếng đạn quân Nam có vẻ thưa dần. Đại bác Pháp càng lúc càng dập mạnh. Tri Kiểm nghiến răng bám chặt lấy lỗ châu mai, khói súng ám đen cả mặt. Lòng bàn tay đã phồng rộp lên, nhưng lúc này chàng không còn cảm thấy đau rát. Chàng cố trợn mắt nhìn cho rõ qua làn khói, thấy quân Pháp đã hạ thủy vô số ghe nhỏ, sắp trèo lên thành. Một cú kéo cò thật mạnh, chỉ nghe một tiếng cốp, Kiểm giật mình: súng đã hết đạn.
Nhìn quanh, chàng trai không khỏi kinh hoàng: Quanh chàng chẳng còn ai cả. Những anh em cùng cơ đội đã lăn nhào bất động, súng văng khỏi tay. Đội trưởng nằm ngửa cách chàng mấy bước chân, khuôn mặt bị vỡ ra, máu và óc quyện nhau đang còn sủi bọt.
“Ối mẹ ơi!” Chàng kêu thét lên, bất giác co giò chạy. Một quả đạn hú lên ngay trên đầu, Tri Kiểm hụp xuống, lồm cồm bò như điên qua những mảnh thi thể ngổn ngang tan nát. Lúc ấy Kiểm không còn thấy sợ, thấy đau đớn gì nữa, tất cả chỉ còn nổi lên một bản năng: mau mau tránh khỏi bãi xương máu này để tìm đường sống.
Đúng lúc hồn phi phách tán ấy, chợt Tri Kiểm thấy thầy dạy cũ của mình là quan Tham tri Trần Thúc Nhẫn từ trong bản doanh đi ra. Thúc Nhẫn trước kia là thầy đồ dạy học ở Hương Trà, sau thi đậu làm quan đến tham tri bộ Lễ, cách đây mấy hôm vừa được triều đình cử xuống Thuận An để tìm cách đàm phán với tàu Tây.
Lúc này Trần Thúc Nhẫn mặc nguyên triều phục, bước loạng choạng giữa đám khói lửa, vấp phải thây người suýt ngã. Tri Kiểm thấy thầy, bất giác quên cái nguy của bản thân, vội chạy đến đỡ:
- Thầy chạy ngả này với con, mau lên mới thoát.
Không ngờ Thúc Nhẫn gạt mạnh tay Kiểm, dõng dạc quát lên:
- Còn ngả nào nữa. Đồn mất, nước cũng mất đến nơi. Lê Sĩ, Lê Chuẩn đã chết cả rồi. Ta cũng đi theo hai ông ấy đây!
Nói rồi Thúc Nhẫn lao đến bên hàng lỗ châu mai đã vỡ toang hoác, lao mình xuống biển.
Tri Kiểm định nắm áo thầy lôi lại nhưng không kịp. Chàng hoảng hốt nhìn lui, thấy sau lưng là đài chỉ huy đã bị pháo địch chém đứt lìa, vỡ ra từng mảng. Chợt sau lưng đau nhói lên, Tri Kiểm trúng đạn ngã sấp, nằm vắt vẻo trên trụ cờ gãy gập.
Lính Tây đã vào đồn, gặp đâu bắn đó. Vẫn còn đủ tỉnh táo, Kiểm cố ngã người ra đất, nhắm mắt nằm yên như chết.
Bên tai Kiểm, tiếng giày lính Tây, tiếng quát tháo vang lên, rồi “Đoành… Đoành…”, tiếng chúng bắn tỉa vào những người bị thương còn ngấp ngoải.
Mắt hoa lên, Tri Kiểm trợn tròng, thoáng một giây đã không còn biết gì nữa…
Khi Kiểm bắt đầu tỉnh lại, những xuổng cát đang được hất xuống lòng huyệt. Chàng hoảng hốt cố gắng vùng vẫy, ú ớ:
- Sống! Còn sống!
Trời đang lúc nắng to, nên quân Pháp tiếp quản đồn đã cho gọi dân làng Thuận An đưa bớt xác lính đi chôn. Mấy người dân chài đang lấp huyệt thấy Kiểm nhúc nhích, vội nhìn trước nhìn sau rồi thụp xuống, thì thào:
- Còn sống hả, vậy im đi, không thì chết thật.
Kiểm nằm yên, rồi chốc lát lại nhắm mắt lịm đi.
©©©©©©
Về mặt đường thủy, Thuận An chính là cửa ngõ kinh thành. Thuận An thất thủ, xem như kinh đô đã bỏ ngỏ.
Hoàng đế Hiệp Hòa cho họp hội đồng cơ mật ngay hôm ấy.
Ngài cho đọc bản dịch bức thư của viên toàn quyền Pháp Harmand:
“Các ông đã nằm trong tay chúng tôi. Chúng tôi đủ sức mạnh để chiếm thủ đô của các ông, có thể tàn phá nó, có thể làm cho toàn dân bị chết đói. Các ông có hai con đường: con đường chiến tranh và con đường hòa bình.
Chúng tôi không sáp nhập đất đai của các ông, nhưng các ông phải chấp nhận chế độ bảo hộ. Điều đó bảo đảm cho dân các ông có cuộc sống hòa bình và giàu có. Đó cũng là hy vọng sống còn duy nhất cho triều đình của các ông.”
Một bầu không khí nặng nề ngự trị trong gian điện, khi Hoàng đế lên tiếng hỏi:
- Các vị phụ chính và các quan cơ mật, các khanh có ý kiến gì không?
Vừa nói, ngài vừa đưa mắt nhìn Nguyễn Văn Tường. Mười năm trước, sau biến cố thất thủ Hà Nội 1873, Nguyễn Văn Tường đã được xem như người có phép lạ, thiết kế được cả một giai đoạn hòa bình dài lâu đến gần mười năm.
Nhưng lần này, Tường chỉ im lặng. Bởi biến cố thất thủ Thuận An đánh một đòn rất mạnh vào chủ trương chống cự bằng mọi giá của Tôn Thất Thuyết. Bao nhiêu cố gắng tăng cường nhân lực, vũ khí của Thuyết đã tỏ ra không hiệu quả. Bởi vậy, Thuyết và Tường đều lặng thinh, cả hai đều thống nhất một lời: “Xin Hoàng thượng quyết định.”
Một mình lúng túng, Hoàng đế chỉ biết cử hai vị quan là Trần Đình Túc và Nguyễn Trọng Hợp ra tàu Pháp tìm cách đàm phán. Đây là cuộc đàm phán trong thế thua: năm hôm sau, hòa ước Harmand được ký, thừa nhận quyền bảo hộ của Pháp đối với nước Đại Nam.
Cả kinh thành buồn ủ rũ. Đây đó lác đác những cây phướn nhà tang. Những chiếc xe ngựa, xe bò nối nhau trên đường cái quan, kéo những xác chết chưa kịp chôn từ đồn Trấn Hải về. Trong khung cảnh đau buồn ấy, linh cữu tiên đế Tự Đức được đưa lên quàn trong Khiêm lăng, chờ ngày an táng.
Hoàng đế Hiệp Hòa chính thức dọn vào điện Càn Thành, chỗ ở của vua. Cung phi mỹ nữ tiền triều, một số theo linh cữu lên lăng, một số được cho về quê cũ. Thê thiếp của vua mới lục tục dọn vào trong các cung viện. Từ lúc vào cung đến giờ, hầu như nhà vua không hề gọi thê thiếp lên hầu. Ngài quá căng thẳng và lo âu, nhất là lúc này.
- Hai vị phụ chính cứ một mực trách cứ trẫm vì cái tội ký hòa ước Harmand, mà chẳng đưa ra một kế gì. Thử hỏi còn con đường nào khác? Tây đã đặt súng trước yết hầu chúng ta, dọa trong bốn mươi tám tiếng đồng hồ không chấp nhận bảo hộ thì cả kinh thành tan nát. Nếu họ ngồi ở địa vị trẫm, họ còn cách nào không? - Vua ứa nước mắt, thổ lộ tâm can với Tuy Lý vương Miên Trinh.
Tuy Lý vương đau thắt lòng, thấy thương nhà vua trẻ:
- Tâu Hoàng thượng, Thuyết và Tường động tĩnh thật khó mà lường. Trước đây Thụy Quốc công Ưng Chân mắc lỗi, nếu ngay thẳng ắt tìm lời can gián. Đằng này không can ngăn, lại gài cho vua thất thế để lấy đó làm cớ hãm hại. Triều thần ai cũng xót xa, có điều thế lực quyền thần không ngăn nổi! Nay hình tích cũng tương tự, lòng dạ Vương Mãng, Tào Tháo đã rõ ràng lắm. E rằng sớm muộn sẽ xảy chuyện, chưa biết là chuyện gì!
Hiệp Hòa nắm chặt lấy tay ông chú, nghẹn ngào:
- Giờ trẫm chỉ biết cậy vào thân thích trong hoàng tộc, hoàng thúc hãy tìm xem ai là người trung nghĩa giúp được cho trẫm đây?
- Người trung nghĩa không thiếu, tiếc rằng hiện nay chỉ biết nói lén than thầm. Một số tôn thân đã uất ức lắm rồi từ khi tận mắt thấy cảnh Ưng Chân bị hãm hại ngay trước bá quan văn võ. Các quận công Miên Tăng, Miên Trí, Miên Triện đều một lòng muốn tôn phù chính đạo. Nay xin Hoàng thượng xuống chiếu trừ quyền thần, để ai nấy tin mà quy tụ thì việc mới nên.
- Vậy trẫm sẽ tự tay viết chiếu thư, nội trong ngày mai sẽ cho người thân tín giao tận tay hoàng thúc.
Tuy Lý vương cúi đầu:
- Thần và hai con trai Hồng Tu, Hồng Sâm xin đem hết tim óc phụng sự Hoàng thượng.
Đêm đó Hoàng đế Hiệp Hòa thức tận khuya, đem hết nỗi nhục nhằn oan ức thổ lộ trên trang giấy. Rạng ngày, nhà vua cho chiếu chỉ vào ống đồng niêm kỹ, sai người hầu thân tín đưa đến phủ Tuy Lý.
Chưa đầy nửa canh giờ sau, một tiếng pháo lệnh vang lên, các cửa kinh thành, hoàng thành đều nhanh chóng khép lại, khóa chặt. Quân lính rầm rập kéo đến đóng đông nghịt trước sở Tịch Điền. Bên trong sở, Tường và Thuyết nhóm họp các quan, kể tội vua, yêu cầu tất cả ký vào tờ thỉnh nguyện phế vua, đưa Hoàng tử Ưng Đăng lên ngôi.
Trần Tiễn Thành lâu nay đã lâm vào cảnh ngồi chơi xơi nước, hữu danh vô quyền. Hôm nay thấy chuyện kinh động, ông không đành nín thinh, phải lên tiếng:
- Phế vua dựng vua, sao có thể làm hoài như vậy?
Thuyết đập bàn quát lớn:
- Ông còn lôi thôi cái gì? Hãy biết thân phận mà im đi!
Phe cánh của Thuyết - Trương Văn Để và Ông Ích Khiêm - đã vây vòng trong vòng ngoài, gươm giáo sáng quắc. Trừ Trần Tiễn Thành, các quan đều răm rắp tuân theo, ký vào tờ thỉnh nguyện. Tường và Thuyết lập tức đem giấy vào cung, xin ý chỉ của Thái hậu.
Thái hậu nằm thiêm thiếp trên giường, từ hôm đưa linh cữu con trai lên sơn lăng, bà gần như suy sụp, mỗi ngày chỉ dùng được vài hớp cháo loãng.
Nghe tin dữ, bà loạng choạng gượng dậy. Người hầu đỡ hai bên, dìu ra trước chính sảnh.
- Hoàng đế phạm tội gì, phải trái chưa rõ. Ta biết làm sao mà dám liên can đến việc phế lập?
- Tâu Thái hậu, Hoàng đế ký hòa ước Quý Mùi, thực chất là hàng Tây! Tự tiện tiếp sứ Pháp ở điện Văn Minh mà không cho chúng thần chứng kiến, tức là giao thông với giặc! Nay lại mưu hại công thần, thật chẳng xứng ngôi, nên triều thần chán ghét, tất thảy đều xin trừ bỏ!
Nghe đến mấy tiếng “hãm hại công thần”, Thái hậu hiểu ngay cái thế của nhà vua lúc này. Ngậm ngùi một lúc, bà thở dài:
- Có thật triều thần tất thảy đều xin trừ bỏ? Việc hàng Tây, thông đồng với giặc, có hay không còn chưa tra xét. Hồng Dật là con út đức Hiến Tổ, trên danh nghĩa cũng là con của ta. Là mẹ mà phế con, đạo nghĩa xưa nay khó chấp nhận. Theo nghĩa, ta không nên nhúng tay vào việc này!
Tôn Thất Thuyết lớn tiếng:
- Ý chỉ chúng thần đã soạn sẵn, chỉ xin mượn cái ấn ngọc của Thái hậu mà thôi! Triều thần đang nóng lòng chờ, xin Thái hậu chớ lần chần nữa.
Thái hậu ứa nước mắt:
- Hồng Dật vốn không thích làm vua, từ đầu hắn đã tự biết tư chất không đủ kham việc lớn. Các khanh nói hắn hiền đức, ép hắn lên ngôi, rồi nay lại nói hắn không xứng ngôi. Vậy hãy để Dật an toàn về phủ cũ, trở lại tước công như trước đây. Nếu hứa như vậy thì ta sẽ cho đóng ấn.
Nguyễn Văn Tường lễ phép cúi đầu:
- Tâu xin Thái hậu yên tâm, miễn là yên việc nước, chúng thần sẽ bảo toàn cho Phế đế.
- Được rồi, xin các ngài hãy giữ lấy lời. Tiệp dư Bích, con hãy đóng ấn cho hai vị sớm rời cung.
Lúc ấy Hoàng đế Hiệp Hòa vẫn chưa biết gì. Ngài chỉ ngờ ngợ nhận ra kẻ hầu người hạ lui tới trong điện lộn xộn khác thường. Đến nửa buổi, quay lui quay tới chỉ còn mấy người cung giám. Vua lấy làm lạ, hỏi:
- Cung nga nội thị hôm nay đi đâu cả?
- Tâu Hoàng thượng, các cửa cung hôm nay đều bị khóa chặt, quân Thân Nghĩa từ ngoài kéo vào canh gác rất kỹ. Chuyện như vậy xưa nay chưa từng có, ai cũng sợ nên tìm chỗ tránh né!
- Ủa, thật sao?
Nhà vua thảng thốt, nghĩ đến bức mật thư gửi sang phủ Tuy Lý, tên người hầu thân tín đi mãi chưa thấy về? Trong lòng vua đang hoang mang, chợt cửa điện mở toang đánh rầm một tiếng.
Tôn Thất Thuyết cùng Nguyễn Văn Tường tiến vào, dằn mạnh lên án thư tờ chiếu nhường ngôi đã thảo sẵn.
- Hôn quân vô đạo, mau ký vào chiếu thoái vị, không thì chớ trách chúng ta vô lễ.
- Trẫm có tội gì ?
- Tội gì? Tội hãm hại trung thần, thông đồng với giặc!
Nói rồi Thuyết dí vào mặt Hoàng đế tờ mật thư còn tươi nét mực.
Hoàng đế cứng lưỡi, không nói thêm được lời nào, đành líu ríu ký vào tờ chiếu nhường ngôi.
Hai vị phụ chính đi rồi, Hiệp Hòa đưa đôi mắt thất thần nhìn quanh. Cung vàng điện ngọc nhập nhòa trước mắt…
Đến cập rập vội vàng, bây giờ ra đi cũng vội vàng cập rập. Ngay trong đêm, cung quyến của vua được lệnh thu dọn đồ đạc, lập tức xuất cung quay về phủ.
Đến sáng sớm, một đoàn võng kiệu nối nhau ra cửa Hòa Bình. Ai nấy khóc như ri, nào là thái phi, hoàng phi, hoàng tử, công chúa, vừa được phong tước nhập cung chưa được mấy ngày, nay lại khăn gói về nơi cũ. Tất cả hóa ra là một giấc mơ ngắn ngủi!
Kiệu của Hiệp Hòa được khiêng ra sau cùng, qua cửa Hiển Nhơn. Phế đế ngồi trong kiệu, mặt tái xạm, cả người tê điếng. Ngài tự an ủi: Thôi thế cũng là may, ta về lại phủ xưa, sống cái đời thanh thản. Từ nay chẳng còn ngày ngày phải đối diện với hai ông ngoáo ộp.
Chợt kiệu dừng, rèm bị kéo giật ra hai bên. Hiệp Hòa nhìn ra, biến sắc:
- Đây đâu có phải đường về phủ? Các người đưa ta đi đâu?
Hai vị võ quan thân tín của Tôn Thất Thuyết: Trương Văn Để và Ông Ích Khiêm, đang chờ sẵn. Trương Văn Để chắp tay lễ phép:
- Xin mời Hoàng thượng xuống kiệu!
Hiệp Hòa bước xuống, nhìn quanh:
- Đây là đâu?
- Tâu Hoàng thượng, đây là nhà Hộ Thành.
- Tâu gửi lôi thôi mất thời gian quá, ra tay ngay đi! - Ông Ích Khiêm quát.
Hai người áp vào, xốc hai bên, đưa Hiệp Hòa vào trong. Trên bàn, có sẵn một chén lớn nước trà.
Trương Văn Để dìu vua ngồi xuống ghế, rồi quỳ lạy:
- Lệnh của quan trên khiến chúng thần phải dâng chén nước này lên Hoàng thượng.
- Nước này là nước gì? - Hiệp Hòa thấy màu trà đỏ quạch khác thường, ngài bất giác ớn lạnh từ đầu đến chân. - Trương Văn Để, ông là dòng dõi trung thần, sao lại đang tâm hại vua?
- Đạo vua tôi trong lúc này, thần cũng chẳng biết làm sao, xin Hoàng thượng hiểu cho thần! - Trương Văn Để khóc.
Hiệp Hòa nghẹn ngào, lần chần không chịu uống. Ông Ích Khiêm vốn bản tính thô lỗ, thấy vậy hét lên:
- Lằng nhằng quá, ông Để, ông tránh ra để đó cho tôi! Này này, không uống cũng phải uống!
Nói rồi Ông Ích Khiêm nắm cổ Hiệp Hòa, ghì chặt xuống nền gạch, hai chân đè lên hai cánh tay vua. Một tay Khiêm bóp miệng vua cho há ra, một tay đổ trà độc vào. Hiệp Hòa sao cưỡng nổi cánh tay sắt của võ tướng, thuốc độc cứ thế chảy vào miệng. Lập tức thân mình ông run lên, co giật, giãy giụa đau đớn trên nền gạch.
Trong công đường, Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Văn Tường chờ mãi chưa thấy hai tướng về báo tin, sốt ruột sai Trần Xuân Soạn ra xem.
Soạn vào nhà Hộ Thành, hối thúc:
- Sao lâu vậy?
Ông Ích Khiêm nói:
- Thuốc đã đổ rồi, phải từ từ mới ngấm kỹ!
- Nhanh lên, chậm trễ quá sẽ phải tội đó!
Nói rồi Trần Xuân Soạn cúi xuống, hai tay bóp cổ Hiệp Hòa thật mạnh. Vua lè lưỡi trợn mắt. Một tiếng “cụp” vang lên, xương cổ vua đã gãy.
Kiệu dừng trước cổng phủ Văn Lãng.
Đoàn phi tần vừa mất chức đang còn than thân trách phận trong sân. Nghe kiệu vua về tới, ai nấy vội chạy ra đón…
Nhưng họ hét lên kinh hoàng vì chỉ thấy trong kiệu một thi thể còn nóng, với chỗ bị bóp ở cổ sưng phồng lên như hình cánh cung.
Chương 52
Nỗi ấm ức của Thiện phi
Mi mắt chàng trai khẽ chớp một lần, hai lần rồi mở ra. Những tiếng òa mừng rỡ. Tri Kiểm tỉnh hẳn: những khuôn mặt quen thuộc đang cúi xuống: mẹ chàng, bà nội chàng, và vú Nhự.
“Đã… về nhà ?” Chàng mấp máy môi, trong khi những người đàn bà khóc nức lên vì mừng. Nguyễn Tri phu nhân chưa nói gì với cháu, bà vội chạy lên bàn thờ, thắp nhang vái tạ. “Nhờ có quan lớn, có phò mã phù hộ độ trì, nên phen ni thằng Quắc mới toàn mạng!”
May cho Tri Kiểm, viên đạn bắn trúng vai nhưng không ghim vào phổi, trổ một lỗ hổng và chui ra ngoài. Chàng trai chỉ ngất đi vì mất máu.
Dưỡng thương gần một tháng trời, Tri Kiểm mới gượng dậy, cố gắng cầm lại được thanh gươm. “Mẹ ơi, ai đưa con về đây?”
- Quân Đoàn Kiệt cải trang vào đồn Trấn Hải, may mà con còn thoi thóp!
Ngày nghe tin Thuận An vỡ trận, đội dân quân Đoàn Kiệt của Phò mã Đặng Huy Cát đã giả dạng dân quê, âm thầm chia hai đường luồn lách qua các xóm làng, về tận cửa Thuận. Họ giả làm người địa phương đến xin thu lượm xác chết, tìm cứu những người còn ngắc ngoải, dùng xe trâu chở ngược về phía kinh thành.
Xác người được sắp thành dãy dài bên vệ đường, từ chợ Mai đến tận phủ Ba Cửa. Người Phú Xuân đổ về nhận diện con em, tiếng khóc rền trời.
- Vậy là quân Đoàn Kiệt đã cứu con. Mà Đoàn Kiệt là do Quan Tướng chủ trương, vậy là con đã chịu ơn cứu mạng của ngài.
Gia Phúc nghe vậy, ghé sát gần con trai, hạ giọng nói nhỏ:
- Mẹ nghe nói Quan Tướng thí vua! Các quan tâu lên Thái hậu rằng Hoàng thượng thoái vị, ra khỏi hoàng cung thì uống thuốc độc tự sát. Nhưng thực ra là ngài bị giết!
Gia Phúc nói rồi, nhớ tới tình thân với Hiệp Hòa khi ông còn là hoàng tử, bất giác ứa nước mắt. Tri Kiểm thảng thốt:
- Vậy là Hoàng thượng… vậy là cậu Văn Lãng đã chết rồi sao…?
- Cậu chết rồi! Chết thảm thiết lắm… Tội nghiệp, xưa nay cậu cũng như cậu Gia Hưng của con, rất thương mẹ! Mẹ là út gái, cậu Văn Lãng là út trai, năm nay cũng cùng băm sáu tuổi. Tính cậu hiền lắm, một thời nức tiếng phong lưu ở kinh thành, ai ngờ…
- Buồn cho cậu quá! Nhưng mẫu thân chớ nghe lời người ta đồn nhảm, con nghĩ Quan Tướng không có giết cậu đâu, chắc là cậu buồn vì mất ngôi nên tự sát thật đó.
- Cậu con từ nhỏ đến lớn có ham công danh chức vị chi đâu. Khỏi làm vua e cậu còn mừng nữa! Nhưng mà thôi, con còn đang yếu, đừng nhắc chuyện đau xót…
Cũng lúc ấy, bên phủ Gia Hưng, từ hôm nghe tin Hiệp Hòa chết, Hồng Hưu đã lập tức sai đóng cửa phủ, cho gia binh đóng giữ trước sau.
Ngày hôm sau, được tin quan phụ chính Trần Tiễn Thành bị sát thủ đột nhập đâm chết ngay trong tư dinh, Hồng Hưu càng tăng cường phòng bị cả đêm lẫn ngày. Một người thân tín được cử ra ngoài lấy tin tức, mỗi lần đem tin về cũng phải thông qua nguyên cơ phủ thiếp chứ không được trực tiếp vào gặp Đức ông.
- Theo tin chính thức yết ở Phu Văn Lâu, thì quan phụ chính Trần Tiễn Thành bị kẻ cướp vào dinh sát hại! - Nguyên cơ báo lại tin tức với chồng.
- Hừ, giả dối. Còn cướp nào ngoài thằng giặc Tôn ấy nữa?
- Dạ, thiếp cũng nghĩ vậy! Cướp nào dám đột nhập dinh Phụ chính. Mà cướp sao trong dinh chẳng mất một xu. Theo như người của ta dò được, thì thủ phạm chính là tên Hồng Chuyên, tay sai của Thuyết đó. Ai cũng biết vậy, nhưng không ai dám nói! Tuy Lý vương cũng bị bắt rồi!
- Trời, vậy sao? Thương cho cụ! Cũng chỉ vì lo cho cơ nghiệp nhà Nguyễn, chứ cụ già rồi, đạo cao đức trọng, cần chi nữa đâu? Giờ cụ ra sao?
- Nghe người thân tín trong lục bộ kể lại, khi nghe tin Hoàng thượng bị ép thoái vị, cụ biết thế nguy nên đem cả nhà chạy đến Thương Bạc viện xin trú ẩn. Chẳng may viên tham biện giữ cổng Thương Bạc lúc ấy là tay chân của Thuyết, nhất định không cho cụ vào! Cùng đường cụ phải đem cả nhà chạy về Thuận An, tỵ nạn trên tàu Pháp.
- Chạy lên tàu Pháp là thất cách rồi! Mà cũng thương cho cụ, quyền thần hung ngược như thế, cụ còn biết tránh đi đâu?
- Dạ, cơ khổ, đã vậy tránh cũng không khỏi. Tường - Thuyết cho người đưa thư cho tướng Pháp, nói hòa ước vừa ký chưa hỗ giao, nếu nay súy phủ Tây chứa chấp tội phạm của nước Nam là làm trái tinh thần đã ký kết, xem như hòa ước bãi bỏ! Vì vậy súy Tây trả lời là không can thiệp nội bộ chính phủ Đại Nam, cho giải giao cả nhà cụ lên Huế. Hiện đã bị giam hết trong nhà ngục phủ Thừa Thiên!
Hồng Hưu lắc đầu dậm chân, thốt lên một tiếng kêu não ruột.
Qua hôm sau, lại thêm một tin chấn động: hai con trai của Tuy Lý vương Miên Trinh là Hồng Sâm và Hồng Tu đều đã bị chém! Con trai của Tùng Thiện vương là Hồng Phì thì bị bắt giam rồi chết ngay hôm sau trong ngục, không rõ lý do.
Ba cái mạng hoàng tộc rụng xuống ngay trước mắt dân kinh thành, khiến ai nấy hồn phi phách tán. Miên Trinh bị lột tước vương, bị giải ra chứng kiến cảnh hành hình các con mình trước khi đi đày vào Quảng Ngãi.
Khắp trong kinh đô, ai nấy đi lại vội vàng, nói năng cẩn thận, không dám hớ hênh bất cứ chuyện gì. Dù vậy, không dám nói thẳng thì người ta nói lén lút, nói bóng bẩy. Đây đó, vẫn nghe xì xầm rỉ tai:
“Nhất giang lưỡng quốc nan phân Thuyết
Tứ nguyệt tam vương triệu bất Tường!”
Hai chữ Thuyết và Tường được kín đáo lồng vào trong câu thơ: Bốn tháng, ba vua, điềm quá dữ / Một sông, hai nước, nói gì đây?
©©©©©©
Lúc ấy linh cữu của Hoàng đế Tự Đức đã đặt yên trong Khiêm lăng, phi tần đều đã dời lên đó cư tang. Hoàng tử út Ưng Đăng cũng đang ở cạnh Vụ Khiêm đường, mỗi ngày cùng mẹ nuôi Nguyễn Thị Hương dâng lễ cúng.
Nghe quân Thân Nghĩa đùng đùng đến rước, lại nghe nói về cung làm vua, cả hai mẹ con hoảng hốt, cứng lưỡi run tay. Ưng Đăng không ngớt kêu trời:
- Ta còn nhỏ tuổi, làm vua sao được?
Mặc cho hoàng tử năn nỉ, quân lính cứ sấn tới bồng lên, nhét vào trong kiệu khiêng đi.
Học phi vừa chạy theo, vừa khóc.
“Xin lệnh bà cứ bình tâm, bất tất phải âu lo! Hoàng tử tức vị lên ngôi, là việc rất tốt! Thần xin hứa sẽ chu toàn cho lệnh bà và hoàng tử!”
Nghe tiếng người bên tai, Học phi buông tay ngửng nhìn: thì ra Nguyễn Văn Tường đang ở đó, ngồi trên mình ngựa đốc thúc quân Thân Nghĩa.
Đã lâu rồi Nguyễn Văn Tường mới thấy lại Học phi. Dung nhan nàng nay có phần kém tươi, đôi má xanh xao không còn ửng sắc hồng. Vẻ ủ dột ngơ ngác ấy lại khiến lòng người xao xuyến, còn bồi hồi hơn vẻ tươi đẹp ngày xưa! Đúng là “Nét buồn như cúc, điệu gầy như mai”, Tường nghĩ thầm. Lòng ngậm ngùi lưu luyến nhưng không tiện nấn ná, ông quay mình cho ngựa chạy theo đoàn quân, hộ tống hoàng tử về thành.
“Chà, Quan Quận chịu khó lên tận nơi sơn cùng thủy tận này để rước tam hoàng tử. Trịnh trọng quá, đặc biệt quá!” Một giọng chua chua vang lên làm Học phi giật mình. Thì ra Thiện phi Nguyễn Thị Cẩm đang cư tang ở nhà Ôn Khiêm cạnh đó cũng đã tò mò ra xem, ngứa miệng xen vào.
Học phi vờ như không nghe, lủi thủi bước về chỗ ở.
Cùng Thiện phi lên ở sơn lăng, hai nhà sát bên nhau, ngày nào nàng cũng phải nghe những lời cạnh khóe. Hôm nay Ưng Đăng con nuôi của nàng được đón về cung, trước cái nhìn ghen tức của hai mẹ con nhà họ. “Hừm, sao họ lại rước Ưng Đăng mà không rước Ưng Thị con ta. - Thiện phi tức tối nghĩ thầm. - Ưng Thị lớn hơn, lẽ ra phải được kế ngôi mới phải! Vô lý, việc này chắc là do lão Tường thông lưng với con Học phi! Nhìn cái ánh mắt đăm đăm của lão ta, là biết!”
Cảm giác ghen tị lồng lộn trong lòng, khiến cả đêm Thiện phi không sao nhắm mắt. Nàng càng tức bực muốn phát điên khi mấy hôm sau, hoàng cung cho thị vệ, thái giám, nữ quan cầm lọng bưng tráp lên đến tận sơn lăng, long trọng rước Học phi về cung.
Cả sơn lăng xôn xao. Nghe đâu Ưng Đăng đã lên ngôi, lấy niên hiệu là Kiến Phúc. Mẹ nuôi là Học phi cũng theo con, nghiễm nhiên được tôn lên làm Hoàng thái phi. Những người đàn bà còn lại nhìn nhau, thấy cảnh tang tóc ở đây sao mà u ám buồn rầu hơn bao giờ hết.
©©©©©©
Hoàng đế Kiến Phúc mười bốn tuổi lên ngôi, ngồi trên ngai rồng, tay bưng ngọc tỷ truyền quốc, đầu đội mũ bình thiên cửu long. Chỉ riêng bộ áo trên mình vẫn là áo cũ: mãng bào hoàng tử thêu thuồng luồng bốn móng. Ấy là vì long bào quá rộng không thể khoác lên thân thể mảnh dẻ của vị vua thiếu niên, mà áo mới thì thợ may cung đình lật đật quá chưa thêu kịp.
Sau buổi đại triều đăng quang cập rập ở điện Thái Hòa, Hoàng đế nhỏ tuổi được quan Phụ chính Nguyễn Văn Tường đưa đến lạy chào Thái hoàng Thái hậu Từ Dụ.
Hoàng đế quỳ trước tổ mẫu:
- Cháu nhỏ là Ưng Đăng, xin chúc Thái hoàng Thái hậu thiên tuế!
“Ta cầu phúc cho con.” Thái hậu đặt tay lên đầu vua trẻ, mắt rưng lệ. Nhìn Nguyễn Văn Tường đang quỳ sau lưng vua, Thái hoàng Thái hậu hỏi:
- Ông phụ chính! Các ông nói, Hiệp Hòa uống thuốc độc tự sát, điều ấy có đúng không?
- Tâu Đức bà, mọi việc xảy ra giữa thanh thiên bạch nhật, có Trương Văn Để và Ông Ích Khiêm làm chứng. - Tường trả lời một câu tưởng là mộc mạc mà thật ra rất khôn khéo.
Thái hoàng Thái hậu không thể không nhận ra: Tường không phủ nhận cũng không khẳng định, chỉ nói là việc đã xảy ra, mà không nói xảy ra như thế nào.
- Được, ta cũng hiểu, giờ đây có truy cứu cũng không dễ, mà truy cứu cũng không làm người chết sống lại. Vậy còn Thụy Quốc công Ưng Chân, từ khi bị phế, các ông đưa nó đi đâu? Số phận ra sao rồi?
- Tâu Đức bà, xin cứ yên lòng để chúng thần lo toan. - Tường chỉ tay vào Ưng Đăng trước mặt mình - Bây giờ tất cả tâm lực của chúng thần đều dồn vào việc phụng sự Hoàng đế. Một bầu trời không thể có hai vầng nhật, một nước không thể có hai vua! Cái vạ Hồng Bảo, Đinh Đạo trước đây, dây dưa trong cả chục năm trời, chắc Đức bà vẫn còn nhớ! Giữ gìn sự trị an cho xã tắc, nhiều khi không thể không hy sinh. Thần đọc cổ sử nhiều nước ở Nam Á, khi một hoàng tử được nối ngôi, thì các hoàng tử còn lại phải bị giết hết để bảo đảm không có tranh chấp…
- Quan Quận ơi! Chuyện ác như vậy không thể có ở nước ta đâu! Ông hãy nhớ, ngày trước Hồng Bảo ba lần mưu phản, nên bất đắc dĩ tiên đế mới phải hạ lệnh giam cầm. Còn Đinh Đạo là quả tang thông đồng với giặc, theo hình pháp phải chịu tru di. Tuy là việc theo pháp luật, vậy mà con ta bận lòng việc ấy mãi cho đến khi chết! Nay Ưng Chân tuy bị kể ra cho nhiều lỗi lầm, thực sự cũng chưa mắc tội gì gọi là đại nghịch. Giờ ngôi vua đã định, các ông hãy thả cho Ưng Chân trở về, khi nào nó thực có lòng phản rồi hãy trị tội cũng chưa muộn.
Nguyễn Văn Tường mềm mỏng mà rất đanh thép:
- Những lỗi của Ưng Chân mà chúng thần đã kể ra tuy không lớn, nhưng lại có một cái tội rất lớn mà không tiện nói ra! Tâu Đức bà, hai năm vừa qua, bao nhiêu động tĩnh trong triều ta, viên sứ Pháp Rheinart đều biết hết. Ai là người đưa tin cho Tây? Chính Ưng Chân, chứ không ai khác! Tâu, một tội đó đủ giam trọn đời hay chưa?
- Nếu quả Ưng Chân làm việc xấu xa như vậy, tại sao ông không nói thẳng ra với Hội đồng Cơ mật? Có phải vì chính ông cũng chỉ suy diễn chứ không hề có bằng chứng? Bao nhiêu sớ mật đều ở trong Ngự thư phòng, mà trong Ngự thư phòng chỉ có tiên đế với Trung Lương, chính ta cũng không đặt chân tới! Ưng Chân ở Dục Đức đường bên ngoài hoàng cung, làm sao nó vào đó mà trộm lấy tin tức, để mà thông cho sứ Pháp? Ưng Chân có xứng ngôi hay không ta không bàn, nó có làm vua hay không cũng không quan trọng nữa. Nhưng định đoạt số phận một con người, xin các ông thận trọng!
Nghe Thái hoàng Thái hậu nói khẩn thiết như vậy, Nguyễn Văn Tường không tiện cãi lời, đành dịu giọng cúi đầu:
- Xin Đức bà cứ tin ở chúng thần. Việc xếp đặt cho Ưng Chân, chúng thần tất phải lo chu đáo.
Thật ra hai vị quyền thần đã lo chu đáo cho Ưng Chân rồi. Ngay sau khi Hiệp Hòa bị giết, trong mấy ngày chộn rộn lo việc kế vị, Ưng Chân đã bị cố tình bỏ quên trong phòng giam khóa kín.
Luôn bảy ngày không có tí gì vào bụng, ông hoàng trẻ đói lả, kêu gào cũng chẳng có ai nghe. Chàng run run bò quanh trên nền gạch. Một con thằn lằn chạy qua, Ưng Chân trợn mắt, ráng hết hơi sức chụp lấy, hai tay lập cập đưa vào miệng nhai ngấu nghiến.
Nước cũng không có uống, may sao mấy hôm ấy chiều nào trời cũng mưa. Ưng Chân cố lết tới bên cửa, liếm những giọt mưa tạt. Đến ngày thứ năm, thứ sáu thì trời nắng to. Lúc này mắt chàng đã mờ. Chàng nhọc nhằn đưa đầu lưỡi liếm đôi môi khô quánh, lịm đi…
Mấy hôm sau bọn lính canh mới mở cửa. Cái xác nhẹ bỗng. Hai tên cai ngục cuốn vào trong chiếc chiếu cũ, cột lại chờ ban đêm sẽ khiêng đi chôn.
Chúng vừa riết sợi dây mây, vừa tán chuyện:
- Chết đã ngót ba bữa mà không hôi thúi, hay thiệt.
Tên kia cười:
- Có còn cái chi trong da thịt mô, mà khiến hôi.
Chương 53
Thân vương phụ chính
Trong bốn vị đứng đầu Tôn Nhân phủ, vậy là hai người đã không còn: Hồng Dật đã chết, Miên Trinh đã bị đày vào Quảng Ngãi. Chỉ còn lại Thọ Xuân vương Miên Định và Gia Hưng quận vương Hồng Hưu. Sau hai vụ phế vua liên tiếp, hoàng thân quốc thích thảy đều im hơi. Một số vị trước đây từng lỡ lời than phiền bất mãn, như các hoàng thân Miên Tằng, Miên Nghi, sợ quá đã tìm đường trốn biệt.
Một cái Tết ảm đạm trôi qua, từ vua đến dân đều gượng gạo đón xuân.
Ở phủ Gia Hưng, Hồng Hưu vẫn đóng cửa không tiếp khách. Đêm đến, chỉ cần nghe tiếng mèo kêu, cú rúc… gia binh cũng thắp đuốc lùng soát vô cùng cẩn thận.
Đúng buổi sáng Nguyên tiêu, nguyên cơ vào báo tin:
- Đức ông đã được Hoàng thượng phong làm thân vương, lãnh chức Phụ chính thân thần, từ nay sẽ cùng với hai quan phụ chính Tường, Thuyết phò tá Hoàng thượng.
- Ủa, có chuyện đó được sao? Tin có chắc chắn gì không?
Từ tước Quận vương lên tước Thân vương, tuy là tột bậc của vương vị, nhưng vẫn là việc ngôi thứ trong nội bộ Hoàng tộc. Còn chức Phụ chính thân thần, tức là thân vương ra làm phụ chính, tham gia công việc triều đình ở mức cao nhất, thì trước nay chưa hề có. “Nàng có nghe lầm hay không?” - Vương hỏi.
- Dạ, nguồn tin này từ bên phủ Thọ Xuân vương, cụ Thọ Xuân cũng nói rõ là trong vòng hai hôm sẽ có chiếu chỉ.
Hồng Hưu chau mày suy nghĩ. Hoàng thượng còn non nớt, lẽ nào tự mình quyết định việc này mà không qua ý kiến của Tường và Thuyết. Còn Tường, Thuyết, lẽ nào chấp nhận cho hoàng tộc cùng vào ngồi trong hội đồng phụ chính?
Trong việc này, có ẩn tình gì không? Biết đâu đây chỉ là cái bẫy?
Nguyên cơ nãy giờ chăm chăm nhìn theo nét mặt chồng, hồi lâu mới dè dặt lên tiếng:
- Theo thiếp thì triều chính hiện giờ đang rối ren lắm… Vận nước, vận nhà đều đang thế khó. Hay Đức ông cáo bệnh thoái thác đi là hơn!
- Để ta xem, nàng không phải lo. - Hồng Hưu chỉ nói vắn tắt.
Ông suy nghĩ một lúc lâu, rồi bật thành tiếng:
- Thay mặt hoàng tộc dự bàn việc nước là mong ước lâu nay của ta. Nay cơ hội đến, không nắm lấy thì đợi đến bao giờ?
Nguyên cơ nghe vậy hoảng kinh, lật đật nhắc:
- Dạ, thiếp biết hoài bão của Đức ông. Ngặt một điều, lúc này bàn việc nước tức là bàn trước mũi gươm của Thuyết. Ý Đức ông chẳng giống ý gã, thì còn nói gì được? Thiếp nghe ngoài dân gian người ta truyền tụng: “Nước Nam có bốn anh hùng/ Tường gian, Viêm láo, Khiêm khùng, Thuyết ngu.” Tình thế ngày nay đã vậy, Đức ông đưa mình vào đó liệu có xoay chuyển được gì không?
Nghe vợ nhắc câu truyền ngữ ở kinh thành, Hồng Hưu nhếch một nụ cười chua chát:
- Nói Tường gian, nói Thuyết ngu thì quá lời, nhưng cũng không hẳn vô căn cứ! Hai gã này quá sai lầm nên mới nhẫn tâm thí vua, chúng cứ nghĩ thí vua thì xóa bỏ được hòa ước Quý Mùi chắc? Sự thật đã đến lúc này, nhìn tổng quan, tình thế, lực lượng, thì không muốn cũng phải chấp nhận sự thật.
- Dạ, thiếp hiểu. Nhưng cái ý ấy thực khó mà nói ra, thực khó mà thuyết phục dân chúng. Hiện Thuyết và Tường cũng vì nói đúng ý dân nên mới mạnh thế. Họ cứ cho người tuyên truyền, nói là hoàng tộc ta bán rẻ đất nước, đầu hàng quân giặc…
- Nói vậy là không suy xét trước sau! Chấp nhận bảo hộ, người thiệt thòi nhất chính là vua, là hoàng tộc. Vì nhận bảo hộ, thì sẽ mất quyền thu thuế, mất quyền trị dân. Còn thực ra dân vẫn buôn bán, vẫn làm ăn, mà có khi còn bình an, phát đạt hơn xưa. Cứ nhìn vào miền Nam thì biết, hơn hai mươi năm nay, miền Nam ngày càng giàu càng thịnh, nhà cửa xe cộ mọc lên càng nhiều. Trong khi miền Bắc mà ông tướng Thuyết lúc nào cũng khoe đổ máu để giữ gìn đó, thì vẫn đang rách bươm, loạn lạc ly tán đến không biết bao giờ! Hãy nhìn qua Hương Cảng, Mã Cao, càng ngày càng sầm uất! Sau này thiên địa xoay vần, đến thời cơ những đất đai ấy quay lại với nước Tàu, thì Tàu có mất gì không hay là chỉ có lợi thôi?
Nguyên cơ ứa nước mắt:
- Đức ông nói vậy thiếp mới lo. Vì nói vậy trước mặt Thuyết, thì coi như đi theo vua Hiệp Hòa xuống đất. Tính Đức ông lại kiêu dũng không nhường ai, e là cái vạ sát thân ở ngay trước mặt.
Hai vợ chồng vừa bàn bạc đến đó, thì có gia nhân vào báo: Công chúa Đồng Xuân đến thăm.
- Mời vào ngay! - Hồng Hưu nói.
Nguyên cơ ngập ngừng:
- Mấy tháng nay Đức ông phòng xa cẩn thận, khách thân mấy cũng kiếu. Đến thủ hạ ra ngoài lấy tin tức trở về cũng không để chạm mặt. Sao hôm nay lại…
Hồng Hưu khoát tay:
- Hoàng muội là em cưng của ta từ nhỏ. Lâu nay hắn không hề đi đâu, nay lại thân hành đến, ắt là có chuyện cần kíp. Nhất định phải tiếp.
Quả vậy, Gia Phúc vừa vào đến nơi, đã nước mắt ngắn dài.
- Hoàng huynh! Xin hoàng huynh nghĩ cách giúp muội. Con trai muội suýt chết ở Trấn Hải đài, nằm nhà dưỡng thương cả tháng trời mới khỏi. Nay vừa ngo ngoe được đôi chút, lại đòi gia nhập quân Thân Nghĩa, theo Quan Tướng đi đánh Tây!
- Muội hãy nói cho nó biết, quân Thân Nghĩa là quân thủ túc của Tôn Thất Thuyết, dù muốn xin vào cũng rất khó không phải dễ đâu! Vả lại, chưa biết khi nào chúng đi đánh Tây, chứ hiện giờ thì chúng đang làm mấy cái việc thất đức: thí vua, giết người.
- Hu hu, muội có biết gì đâu mà nói. Bởi vậy nhờ hoàng huynh ra uy dạy dỗ giúp. Giờ muội trơ trọi chẳng còn ai, chỉ còn mình cháu Kiểm.
Hồng Hưu lắc đầu:
- Muội là mẹ không khuyên nhủ được nó, ta chỉ là cậu, dạy dỗ làm sao? Thôi được rồi, có một cách.
Gia Phúc đang mặt mày ủ dột, nghe vậy tươi lên ngay:
- Dạ, cách gì?
- Hiện bên Bộ Binh đang có chủ trương thu gom số quân tướng thất tán sau ngày vỡ trận, để phiên chế vào các cơ đội mới. Người phụ trách việc này lại là người quen. Để ta gặp y, dặn triệu hồi Tri Kiểm, rồi sắp xếp cho hắn đi trấn Quảng Ngãi. Tri Kiểm là nhà binh tất nhiên phải nghe lệnh!
- Trời ơi, vậy là con muội lại phải đi xa, thì có ích chi đâu?
- Muội đã lớn mà còn ngốc nghếch lắm! Kinh thành đang là cái thùng thuốc súng. Hòa ước vừa ký xong, Tây muốn ép thi hành ngay, triều đình thì cố trì hoãn, hai bên giằng co, đụng chạm chưa biết nổ ra lúc nào. Hắn ở đây, lại đâm đầu vô mấy cái đội Thân Nghĩa, Đoàn Kiệt, đánh Tây đâu chưa thấy, chỉ thấy người Việt chém giết người Việt.
- Nhưng vô trong Quảng xa lắm, biết khi nào về?
- Từ từ rồi sẽ tính. - Thấy Gia Phúc vẫn nhăn nhó, Hồng Hưu lắc đầu: - Chứ muội còn muốn gì nữa? Được voi lại đòi tiên?
Gia Phúc về rồi, Hồng Hưu gọi gia nhân đưa thiệp đến người quen ở Bộ Binh, hẹn gặp. Chiều hôm ấy, ông thân hành cỡi ngựa ra tửu lầu ngoài cửa Đông Ba. Nguyên cơ can ngăn, ông chỉ lắc đầu:
- Đại tướng Phương và Phò mã Lâm đều đã bỏ mình vì nước. Nay ta nên gắng giữ cho nhà Nguyễn Tri một giọt máu nối dòng. Nàng đừng lo, ta đi không lâu, chập tối sẽ về thôi!
Người quen bên Bộ Binh mà Hồng Hưu hẹn gặp hôm ấy là Hường Hàn, con của Trấn Tĩnh đình hầu Miên Dần. Câu chuyện Gia Hưng vương sắp xếp cho con trai bà chúa Đồng Xuân, vì vậy cũng tình cờ được nhắc đến trong câu chuyện trà nước sáng hôm sau ở phủ Trấn Tĩnh.
- Vương gia can thiệp đến việc của quan chức, chuyện đó trước đây phụ hoàng ta vẫn cấm ngặt! - Miên Dần nói.
- Dạ, bẩm phụ thân, trước đây thì cấm nghiêm, nhưng mấy độ sau này thì cái chuyện gửi gắm đã thành thói thường. Thành thử con cũng không tiện từ chối. Dù sao cũng nể mặt vương gia.
- Hừ, chúng cứ bảo ta bừa bãi phóng túng, làm như chúng có kỷ cương lắm! Mà cớ gì bỗng dưng Hồng Hưu lại vận động cho thằng con của Phò mã Lâm đi trấn tận trong Quảng? Để rồi cái phủ Đồng Xuân ấy chỉ còn bà chúa gái ở một mình? - Miên Dần cười tinh quái - Cái con Gia Phúc hồi nhỏ đẹp nhứt trong cung, bây giờ hắn ba lăm ba sáu tuổi rồi mà còn phây phây ngon mắt lắm! Lại ở góa ngoại mười năm rồi…
Hường Hàn biết tính cha thích gì nói nấy, nên cũng chỉ nghe tai này để lọt tai kia, rồi cáo lui để lên võng đến công đường.
Vốn Miên Dần là tước Trấn Tĩnh quận công, vì chuyện cẩu thả trong lễ tế Thu Hưởng năm xưa mới bị giáng xuống tước đình hầu. Miên Dần lắm vợ nhiều con, tiêu xài lại vô độ, đã vậy bị giáng tước, cắt bổng, lâm vào cảnh thiếu trước hụt sau ngót mươi năm. May sao cuối thời Tự Đức, triều đình cho phép con gái hoàng tộc được vào cung làm nữ quan, con trai thi đậu được nhận chức vụ từ tứ phẩm trở xuống. Từ ngày Hường Hàn ra làm ở Bộ Binh, gia cảnh mới khá lên dần.
Chuyện xích mích ngày xưa lâu rồi, Hồng Hưu đã quên, nhưng Miên Dần vẫn nhớ. Bao giờ cũng vậy, người làm tổn thương thường không nhớ lâu, nhưng người bị tổn thương thì vết hằn rất khó phai.
©©©©©©
Qua tháng hai, Hồng Hưu chính thức nhậm chức Phụ chính thân thần, cùng Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Văn Tường phò tá ngai vàng.
Không phải như Hồng Hưu lo lắng suy diễn, đây chẳng hề là cái bẫy của Tôn Thất Thuyết. Đây là sự nhân nhượng của Nguyễn Văn Tường, người luôn tìm cách xoa dịu tình hình, theo tôn chỉ “hòa mà chiến, chiến mà hòa”. Khác với Tôn Thất Thuyết tin ở sức mạnh của nắm đấm, Tường cho là sự khéo léo có thể đạt mục đích mà lại tiết kiệm được rất nhiều công sức.
Mùa thu năm Quý Mùi tại sở Tịch Điền, trong khi Tôn Thất Thuyết hùng hổ tuyên bố phế vua, Nguyễn Văn Tường đã kịp nhận thấy nhiều ánh mắt uất ức trên những khuôn mặt im lặng. Ông hiểu, sức nén đã căng lắm rồi. Tiếp đó, nội trong một ngày ba vị công tử Hồng Tu, Hồng Sâm, Hồng Phì đều bị giết, hơn hai chục thành viên hoàng tộc liên can nhất loạt bị tống ngục. Từ ấy không chỉ riêng các tôn thất, mà hầu hết quan chức trong lục bộ mỗi lần thấy Thuyết, Tường đều mặt cắt không còn hạt máu.
Trùng hợp vào lúc đó, sét đánh vào tháp Phước Duyên ở chùa Thiên Mụ. Tôn nhân và đình thần nhiều người nhân đó dâng sớ, xin tân Hoàng đế thận trọng nghe ý Trời. “Hiện nay công việc nặng nề khó nhọc, nhà vua tuổi nhỏ lên ngôi, rất cần có bậc tôn thân trong hoàng tộc giúp đỡ, mới mong trọn vẹn.” Tôn Thất Thuyết đọc qua sớ tâu, trừng mắt:
- Dám nói vậy sao? Muốn theo Phan Đình Phùng vào nằm trong khám chắc?
Nhưng Nguyễn Văn Tường thấy rõ giờ đây là lúc cần phải hạ nhiệt, phải làm cho hoàng tộc không bị dồn vào thế cùng đường. Đưa được Kiến Phúc lên ngôi Hoàng đế, Nguyễn Thị Hương lên tước Hoàng thái phi, Tường đang vui trong lòng. Ông mong muốn tái lập quanh mình một không khí hòa dịu hơn.
Tất nhiên Thuyết không dễ dàng ưng chịu:
- Hừ, loại trừ được Trần Tiễn Thành, rồi lại trám Hồng Hưu vào sao? Lôi thôi quá. Đưa vào thì dễ, đưa ra khó!
Tường mỉm cười ung dung:
- Đại phàm, cầm lên được thì đặt xuống được! Đưa vào dễ, mà đưa ra cũng chẳng khó! Quan Tướng chớ lo. Đưa hắn vào, cũng chẳng khác thả một cái neo cho con tàu đang lay lắc. Hắn ngồi đó rồi, hoàng tộc sẽ tự nhiên im miệng hết. Chứ ông biết đó, bên ngoài người ta đang đồn Tôn Thất Thuyết coi vua như cọng rơm, nay mai sắp cướp ngôi!
Thuyết tuy cứng rắn, nghe Tường nói vậy cũng hơi nao. Dù coi vua chẳng ra gì, nhưng ông cũng biết, sĩ dân đương thời xem đạo trung hiếu là trọng. Nếu mà bị vu cho cái tiếng làm phản, cướp ngôi, thì dù có quyền cao chức trọng đến đâu cũng chỉ là một tội nhân, ai cũng bắt được, ai cũng giết được.
Thấy Thuyết nín im chưa nói gì, Tường dấn tới:
- Hồng Hưu có ngồi đó, chẳng qua cũng hư vị thôi. Cứ ta với quan Tướng đồng lòng, thì chẳng có gì phải ngại!
Thuyết vẫn im lặng, không tán thành cũng không phản đối. Ông âm thầm nhận ra, từ lúc đưa Kiến Phúc lên ngôi, Nguyễn Văn Tường trở nên linh hoạt, chủ động trong nhiều việc, không để cho mình thao túng nữa.
Phải chăng y muốn đưa thêm một người vào ban phụ chính để giảm bớt sức mạnh của ta? Hừ, thiên hạ bên ngoài ai cũng nói Thuyết với Tường tuy hai mà một. Có ai biết đâu rằng, thực ra dù một mà vẫn là hai.
- Đưa vào dễ, đưa ra cũng dễ, quan Quận đã nói vậy thì giữ lấy lời đó!
Vừa nói đến đấy, thì viên tham biện vào dâng lên bản dịch bức thư của sứ Pháp.
- Hừm, hắn lại giục giã thi hành hòa ước Quý Mùi. Thi hành cái gì nữa? Người ký hòa ước là vua Hiệp Hòa. Nay Hiệp Hòa không còn, coi như tờ giấy ấy cũng vứt bỏ! - Tôn Thất Thuyết nói.
Câu nói của Thuyết thực sự rất ngang ngược. Mà ngang ngược với kẻ mạnh hơn mình, thì là cách tốt nhất để ăn đấm. Tường từng trải trong ngoại giao, biết rõ như vậy, ông cố làm dịu cơn giận của Thuyết:
- Ông nói rất đúng. Chúng ta tiêu diệt Hiệp Hòa, thực ra cũng chính là để thủ tiêu hòa ước Quý Mùi. Nhưng cái thâm ý của ta, không thể nói thẳng băng ruột ngựa ra vậy được, chúng nó sẽ viện quy ước ngoại giao đủ thứ, không đời nào chịu. Vì vậy phải nghĩ kế hoãn binh, rồi gỡ dần dần!
- Gỡ dần dần! Gỡ cách gì? Cứ một mất một còn với chúng, việc thành thì tốt, việc không thành cũng là lưu danh muôn đời sau.
Tường vẫn thủng thỉnh:
- Lưu danh thì tốt, nhưng xương máu cũng không rẻ. Thôi, ông đừng nóng, để ta tính.
Việc mà Nguyễn Văn Tường tính toán, và đặt hết mong đợi, đó là cuộc chiến Pháp – Trung Hoa đang diễn ra dữ dội ở miền Bắc. Quân nhà Thanh theo lời kêu gọi của Đại tướng Hoàng Tá Viêm đã tràn qua biên giới, đang cố sức giật miền Bắc khỏi tay quân Pháp. Nếu phen này quân Thanh chiến thắng, thì cục diện ở Huế cũng tự nhiên sẽ biến chuyển theo.
Cũng vì chiến trường phía Bắc quan trọng như vậy, nên Thuyết mới chịu xuôi theo ý Tường trong vụ Hồng Hưu. Từ chiến trường, Hoàng Tá Viêm, cũng là một phò mã, đã có thư phàn nàn những việc vừa xảy ra trong triều. Ông hết lời than phiền vì “Chỉ trong mấy tháng mà tờ di chiếu của tiên đế đã xem như bị xé bỏ!”
Chính ý kiến của vị tướng đang cầm vận mệnh miền Bắc đã làm Thuyết phải nhượng bộ, chứ chẳng đức ông đức bà nào ở cái kinh thành này có thể làm ông nao núng.
Chương 54
Cái xác ve trên ngai
“Tây đã tấn công kinh đô! Các quan đã ký hòa ước Quý Mùi, chấp nhận nước Pháp bảo hộ! Triều đình lệnh cho quân dân các nơi đều buông bỏ vũ khí, chờ hỗ giao hòa ước!”
Cái tin loan ra làm chấn động tất thảy sĩ phu miền Bắc.
Lúc này Hà Nội tuy bị Pháp chiếm đóng nhưng thành Bắc Ninh, thành Sơn Tây đang còn chống cự. Trên các phòng tuyến, tướng sĩ quăng gươm, ôm mặt khóc.
Đại tướng Viêm nắm chặt đốc kiếm, quát lớn:
- Việc gì mà khóc? Các ngươi nghe đây, giặc Tây còn, thì chúng ta không bao giờ bỏ khí giới. Ai nhận bảo hộ, chứ ta không bao giờ nhận!
Tướng sĩ nghe vậy, lấy lại khí thế, hô vang rầm trời: “Đánh! Đánh!”
Lúc ấy Hoàng Tá Viêm chỉ còn trong tay khoảng năm ngàn quân, phạm vi đóng quân từ Sơn Tây đến Hải Dương. Nghe tin viện binh của nhà Thanh đã về đến Bắc Ninh, ông lập tức sai người liên lạc.
Lúc bấy giờ Nguyễn Chí và Hữu Ngạo đã đầu quân dưới trướng Hoàng Tá Viêm, đều được nhận vào đội thám báo. Nhận quân lệnh, Chí mặc đồ thường dân, cùng Hữu Ngạo mang thư lên đường. Đến Hà Nội, theo đúng lời dặn, chàng mới xé lớp bao thư bên ngoài. Chàng ngạc nhiên thấy địa chỉ liên lạc: chùa Thanh Đình.
Đoàn Châu thấy Chí quay về, còn gì mừng hơn.
Nguyễn Chí nói riêng với Châu:
- Anh kính nể đại tướng, nhưng thực tình trong lòng rất lo. Đánh Tây, mà phải rước Tàu về, thì thà đừng đánh. Có điều khó là, lúc này nói vậy thật không dễ.
- Thật vậy sao? Em chỉ biết nắm lấy một thứ kim chỉ nam, đó là lòng yêu nước. Ai đụng vào nước ta thì dù chết cũng đánh, thế thôi, không cần nghĩ nhiều!
- Nhưng chúng ta có thể yêu nước mà không cần mù quáng. Chúng ta có thể yêu nước bằng sự hiểu biết. Đáng tiếc là những người hiểu biết không được lắng nghe. Những người nắm quyền, thì không hiểu biết.
- Vậy theo anh, nếu hiểu biết, thì họ sẽ phải làm gì?
- Thì họ sẽ không đánh Tây theo kiểu như ta đánh Tàu, đánh Mông ngày xưa. Ngày xưa Tàu đánh ta là để chiếm đất, đồng hóa, bắt ta bỏ phong tục tập quán biến thành người Tàu. Người Mông đánh ta cốt giết người, đốt làng, cướp của. Cho nên vua cũng như dân phải liều chết chiến đấu.
- Còn người Tây?
- Người Tây hiện nay thực sự chỉ quan tâm đến giao thương, họ nhắm nhía ta bởi xem ta là bàn đạp giao thương với Tàu. Họ đánh miền Nam là để có Sài Gòn, đánh miền Bắc là để mở cửa ngõ thông thương với Hoa Nam. Thay vì tốn xương máu, ta có thể cho thuê Sài Gòn, mở cửa sông Hồng, và thu thuế. Đó là cách người Xiêm đã làm. Thay vì đi con đường gần, ta đã chọn con đường xa, hy sinh rất nhiều mạng người… mà chỉ để được một kết cục bi đát, là khiến bọn Tây dùng vũ lực chiếm cả nước ta, mà thực chất cũng chỉ để giữ chắc Sài Gòn và sông Hồng mà thôi!
Đoàn Châu nhìn Chí đăm đăm:
- Anh đang nói gì biết không? Anh đang khuyên dân ta đầu hàng giặc đó!
Chí nghiêm mặt:
- Không phải vậy đâu. Anh biết, rất ít người hiểu tấm lòng của Phan Thanh Giản, Nguyễn Trường Tộ. Trên đời này có nhiều con đường, không phải chỉ đơn giản hai lối. Cũng như màu sắc trên thế gian, từ đen tới trắng là rất nhiều màu đó em!
Vừa lúc đó, Hữu Ngạo từ ngoài vào:
- Cháu vừa đi thăm dò, từ đây về Bắc Ninh, phải qua sông Hồng, mà tất cả đò ngang đã bị cấm, ai muốn qua phải đi phà của Tây. Chúng nó soát xét rất kỹ, ta khó lòng lọt qua.
Thấy Chí cùng với Đoàn Châu đang cùng nhau nấu bún riêu, Hữu Ngạo nghĩ thầm: “Thầy mình đã ngoài bốn mươi, o Châu ba mươi sáu, không khéo sắp già cả rồi.” Thấy cả hai đang vừa dọn mâm, vừa nói chuyện sôi nổi, chàng nghĩ là điều đáng mừng nên im lặng tủm tỉm cười.
Đoàn Châu đưa mắt nhìn Chí, ra hiệu cho chàng ngừng câu chuyện. Quay sang Hữu Ngạo, nàng nói:
- Vậy hãy để o tính, bằng mọi cách nội trong hôm nay phải đưa thư của đại tướng đến tận tay Từ Diên Húc.
Đoàn Châu không kịp ăn, vội vào phòng riêng. Một lúc, nàng bước ra với áo nâu váy đụp, biến thành một bà già với gánh rau củ trên vai, quày quả ra đi.
Ngày hôm sau Châu trở về, đem thư phúc đáp của Từ Diên Húc giấu kỹ trong ống cơm lam.
Hai thầy trò lập tức nai nịt lên ngựa về thành Sơn Tây. Chí hơi lấy làm lạ: Đoàn Châu đưa bức thư cho Hữu Ngạo đem đi, còn Chí, nàng chỉ đưa một hộp nhỏ:
- Đại tướng Hoàng Tá Viêm có dặn mua cho ngài một hộp cao dán, thuốc này trị bệnh thấp khớp của ngài hay lắm.
Hoàng Tá Viêm nhận thư. Sau khi Chí và Hữu Ngạo đã lui ra, đại tướng đọc thư của Từ Diên Húc, rồi mở gói cao dán của Đoàn Châu.
Ông rắc một thứ bột màu xanh lên tờ giấy gói những lá cao, xoa đều. Trên mặt trong tờ giấy hiện lên một dòng chữ được viết bằng một thứ mực lấp lánh.
Đại tướng nhíu mày, suy nghĩ.
Đêm ấy Nguyễn Chí về chỗ riêng, sau một ngày đi đường vất vả, chàng ngủ rất say nhưng vẫn không quên đặt thanh gươm dưới gối. Đến sáng khi tỉnh dậy, Chí thấy mình nằm trong bốn bức vách gạch thô dơ bẩn. Định thần một lúc, Chí hiểu ra: mình đã bị đánh thuốc mê trong khi ngủ, và đang nằm trong một ngăn cấm cố của nhà ngục thành Sơn Tây.
Chàng bàng hoàng nghĩ mãi, không hiểu vì lý do gì mình bị bắt.
Trong khi đó, ở Hà Nội, Đoàn Châu một mình khóc ướt cả gối.
Bỗng nhiên nàng nhớ đến chị dâu Thể Cúc, nhớ đến ngày anh mình đuổi chị về nhà cha mẹ.
Cuộc đời khắc nghiệt, hay là mình khắc nghiệt? Câu hỏi ấy vật vã hoài trong tâm trí. Cuối cùng nàng nghiến răng, nhắm mắt, đấm mạnh tay xuống gối:
- Đừng nghĩ nữa! Mình đã thề chỉ có một con đường, phải đi, và nhất định không ngoái lui.
©©©©©©
Đại tướng Hoàng Tá Viêm chờ mãi không thấy Từ Diên Húc kéo quân về Sơn Tây tiếp viện như đã hứa trong thư. Ông càng thêm nghi ngờ Chí, nhất là khi biết trên đường đi chàng có ghé nhà thờ chính tòa Hà Nội gặp Giám mục Puginier.
Sự thực là quân nhà Thanh lúc ấy có hơn năm vạn, đã kéo sang đóng từ biên giới cho đến đồng bằng sông Hồng. Khí giới của quân Thanh cũng mới hơn, có cả súng Remington mua từ bên Anh. Nhưng Từ Diên Húc thấy Bắc Ninh gạo trắng nước trong, đóng quân thuận tiện, lại bảo vệ được con đường thông thương qua Lạng Sơn đến Quảng Châu. Thấy vậy đã đủ, nên Từ chần chừ không muốn vượt qua sông Hồng.
Tá Viêm chờ mãi rất sốt ruột. Trong khi đó, triều đình Huế bị Toàn quyền Pháp thúc giục, đã phái Nguyễn Trọng Hợp làm khâm sai ra Bắc truyền lệnh: lập tức đình chiến để chờ hỗ giao hòa ước Quý Mùi.
Tá Viêm tức giận:
- Ta nằm gai nếm mật đã ngoại mười năm ở miền Bắc, đã tâm nguyện thà chết không lui. Nay ông tự tay đặt bút ký hòa ước, lại nói thôi đánh là thôi làm sao? Tội ông to lắm, còn dám xưng là khâm mệnh của triều đình hả?
- Tướng quân có lòng trung dũng, nhiều lần lập công với nước, ai ai gần xa cũng biết. Nhưng thế giặc quá lớn, đồn Thuận An đã mất thì kinh thành thật như con cua gãy càng. Muốn đánh cũng không thể, đành phải tạm ẩn nhẫn để chờ cơ hội khác. Lão phu vâng mệnh ký hòa ước, cũng chỉ là tuân theo lệnh vua. Xin tướng quân hiểu cho.
- Vậy còn hai ông phụ chính Tường Thuyết, ta nghe nói nắm trọng quyền trong tay, trí dũng song toàn, hứ, lúc ấy hai ông ấy ở đâu? Sao chẳng nghe tăm hơi?
- Tướng quân ở xa không rõ việc. Ông Thuyết ra sức bày binh bố trận, phòng thủ kín chặt từ kinh thành đến cửa biển, nên mới chống cự được đến ba ngày. Tướng quân có nhớ ngày trước đại đồn Kỳ Hòa của tướng Nguyễn Tri Phương kiên cố bao nhiêu, mà cũng chỉ cầm cự được hai hôm là tan nát. Nay đồn Trấn Hải Thuận An nhỏ hơn nhiều, mà ráng chống cự được ba ngày, thực sự là đã quá sức con người. Giặc Tây đánh vỡ đồn, đưa tàu nhỏ vào cửa sông, dây xích lớn ta giăng chắn ngang sông Hương bị chúng phá trong nháy mắt. Tình thế như vậy, dẫu Tường Thuyết hay ông Trời thì cũng phải bó tay im tiếng mà thôi!
Hoàng Tá Viêm bặm môi, nghĩ ngợi hồi lâu rồi buột ra:
- Bao năm nay ta làm tướng cõi ngoài, thực sự chưa được triều đình hỗ trợ cái gì ngoại trừ mấy lời khen thưởng, mấy món quà ủy lạo! Mọi việc quân cơ đều một mình ta xoay xở. Nay cứ vậy đi, ai đình chiến cứ đình chiến, ta và thành Sơn Tây vẫn thề không cùng đội trời với giặc. Ông về đi, tâu lại với Hoàng thượng như vậy!
Cuộc đối thoại giữa Tá Viêm và Trọng Hợp lan ra trong dư luận Bắc Kỳ.
Quan chức miền Bắc mỗi người suy tính mỗi đường. Người theo lệnh triều đình, người treo ấn từ quan về ở ẩn. Lại có người trả ấn cho vua, tìm đến Từ Diên Húc xin lãnh ấn của nhà Thanh, tiếp tục đánh Tây.
“Vậy là đánh Tây giữ nước, hay là đánh Tây để nạp nước cho Tàu?” Nguyễn Trọng Hợp buồn rầu than thở trên đường về lại kinh đô.
Vừa về đến nơi, Hợp nghe tin sét đánh: vua Hiệp Hòa đã bị bức tử, Tường và Thuyết sau một thời gian im ắng, nay đã lên tiếng không công nhận hòa ước.
Trọng Hợp chưa kịp vào triều báo cáo tin tức miền Bắc, thì lính đã vây kín phủ, tra gông vào cổ dắt đi.
Hoảng hốt, ông kêu lên:
- Ta có tội gì?
Võ quan chỉ huy trả lời, mặt lạnh như tiền:
- Ông là người ký hòa ước Quý Mùi, giao nước cho Tây!
- Lúc đó triều đình vô phương vô kế, lệnh cho lão phu phải bằng mọi cách giữ yên kinh đô. Lão phu chỉ thừa lệnh triều đình…
- Ông thừa lệnh triều đình đi ký hòa ước, ta cũng thừa lệnh triều đình đi bắt ông!
- Vậy là rốt cuộc có mấy triều đình? - Nguyễn Trọng Hợp uất ức kêu lên.
Võ quan cười khan không nói. Lính giải đến khám đường, xô dúi Nguyễn Trọng Hợp vào nhà giam. Chỉ mấy hôm sau, Bộ Hình được lệnh đem Hợp ra xử, tức thì ghép vào án chém.
Cùng bị ghép tội như vua Hiệp Hòa, nhưng số Hợp chưa chết. Án chưa kịp thi hành thì có thư của Khâm sứ Pháp gửi đến, quyết liệt phản đối việc tử hình Trọng Hợp.
Nguyễn Văn Tường nói trong cuộc họp của hội đồng phụ chính:
- Thật đúng trong nhà chưa tỏ, ngoài ngõ đã hay. Cái án Trọng Hợp, ta chưa công bố với triều thần, sao quan Pháp lại biết?
Nói rồi Tường đưa mắt nhìn Hồng Hưu, nay đang là Phụ chính thân thần.
Hồng Hưu điềm nhiên:
- Theo ta, Bộ Hình xử Trọng Hợp quá nặng, dù quan Pháp có thắc mắc hay không, cũng nên xét lại. Lúc ấy kinh thành sắp nguy, Hợp vâng mệnh cầu hòa để giữ kinh thành. Ấy là mệnh vua, chứ không phải ý riêng. Nay ngôi vua đổi, chính sự tất cũng đổi, nhưng không nên vì lẽ ấy mà ghép tội cho kẻ thừa hành.
Tôn Thất Thuyết lạnh lùng:
- Đến giờ này mà Đức ông phụ chính thân thần còn gọi Hiệp Hòa là vua! Trọng Hợp tuân lệnh Hiệp Hòa, ra Bắc lệnh cho tướng sĩ bỏ vũ khí. Lòng quân rất hoang mang, những đứa ươn hèn mỏi mệt nghe vậy trong bụng rất mừng. Nay nếu không chém Hợp, thì lệnh chiến đấu còn ai nghe? Muốn chính lệnh rõ ràng, nhiều khi không thể không coi thường một mạng!
Nguyễn Văn Tường thấy căng, liền xen vào dàn hòa:
- Thôi, chúng ta bất tất phải tranh cãi. Việc này, theo như ý tôi thì xử tử Trọng Hợp cũng là việc nên làm. Nhưng ta đang trong thế cù cưa với giặc Tây, hai bên đều chỉ đợi sơ suất của nhau để lấn tới. Vậy cái án này thay vì chém ngay, ta đổi thành trảm giam hậu, tức là chém nhưng chưa thi hành, cứ tạm giam lại đó. Rồi từ từ tùy cơ sự mà tính tiếp.
Khi ra khỏi cuộc họp, Nguyễn Văn Tường nói riêng với Tôn Thất Thuyết:
- Sao sứ Pháp lại biết mà can thiệp, ta nghi lắm!
- Còn nghi gì nữa. Champeaux đã về Pháp, Rheinart lại sang thay. Lão này vốn rất thích Hồng Hưu, vừa sang nhậm chức đã tót đến thăm vương phủ. Chắc Hưu đã đem chuyện này ra kể, hòng cứu mạng Trọng Hợp.
- Nếu quả thật vậy thì ta phải thận trọng lắm mới được. Từ nay mỗi lần có mặt hắn chúng ta chỉ bàn việc qua quýt lấy lệ mà thôi.
- Vâng! Đặc biệt tối mật là việc di chuyển tiền và vũ khí ra căn cứ Tân Sở, nhất định chỉ có hai ta biết. Tuyệt đối không ai khác...
Thuyết vừa nói vừa lừ mắt nhìn Tường. Ý ông muốn Tường hiểu: không ai khác, kể cả nhà vua và Thái phi. Ông biết, dạo này vua trẻ đang bệnh, Tường vẫn thường một mình vào cung tự tay trông coi việc thuốc thang.
Nguyễn Văn Tường tự mình trông coi thuốc thang cho vua, bởi ông thực lòng rất mong cho vua khỏe mạnh. Trong lòng người đàn ông luôn suy tính việc đại sự, vẫn có một góc nhỏ êm đềm, trong đó có hình ảnh cậu bé tung tăng chơi đùa bên cạnh người mẹ trẻ trong vườn ngự - cái hình ảnh đã in dấu trong lòng ông từ rất lâu rồi.
Nhưng đối với Hoàng đế trẻ tuổi thì khác. Những bát thuốc do Tường tự tay dâng lên luôn sóng sánh một thứ ánh sáng đầy vẻ dọa dẫm. Kiến Phúc đưa tay nâng bát thuốc, không dám nói không uống, nhưng cứ nuốt vào một ngụm là lại nôn nao muốn nôn ra.
- Hoàng thượng hãy gắng uống đi! Uống hết chén thuốc này, là hết bệnh, khỏe ngay! - Hoàng thái phi Nguyễn Thị Hương nhẹ nhàng dỗ dành.
Kiến Phúc rất yêu quý và nghe lời mẹ nuôi. Ngài nhăn mặt, lại bưng chén thuốc lên.
Thuốc tốt nhất hạng, mà y lý của Nguyễn Văn Tường cũng nhất hạng. Nhưng Hoàng đế lúc này mười lăm tuổi, cái tuổi không còn hồn nhiên vô tư như trẻ con, cũng chưa vững vàng cứng cỏi như người lớn. Ngài đủ nhận thức để biết sợ, mà đã biết sợ thì làm sao quên được số phận hai vị vua đi trước mình: dù nguồn tin bị bưng bít nhưng rồi ai cũng đã biết, vua Dục Đức chết vì đói chứ không phải vì tuyệt thực, và vua Hiệp Hòa chết vì bị bóp cổ chứ không phải tự sát.
“Rồi sẽ đến lượt ta? Họ sẽ dành cho ta cái gì đây?” Câu hỏi đó cứ vang lên, dần dần trở thành ám ảnh, nhất là khi quan phụ chính cứ thường xuyên vào thăm hỏi.
Nguyễn Văn Tường cũng không hiểu vì sao mình càng ân cần chăm sóc thì nhà vua càng gầy mòn xanh xao. Lúc nào Kiến Phúc cũng thấy lo âu, cái lo vô cớ được ngài giấu kín trong lòng.
- Hoàng thượng! Nắng mới đẹp quá, mẹ con ta hãy ra vườn Thiệu Phương nhìn cung nữ hái hoa đi! - Hoàng thái phi nói, giọng vỗ về.
- Con không muốn đi, mẫu phi thích thì cứ đi đi.
Thái phi chững lại, mặt lộ vẻ buồn.
- Ta nuôi nấng ẵm bồng Hoàng thượng từ lúc người mới lên hai, mẹ con sớm tối lúc nào cũng vui vẻ bên nhau. Sao từ lúc lên ngôi đến nay ngài cứ lầm lũi một mình, chẳng nói chẳng cười, không còn thương mẫu phi nữa ư?
“Dạ, con thương mẹ mà.” Kiến Phúc cảm động, gắng gượng đứng lên, vịn tay mẹ nuôi bước ra. Nhưng đến cửa, thấy khoảng trống trước mặt, nhà vua bỗng cảm thấy chơi vơi sợ hãi.
- Con thấy choáng váng lo âu lắm, không muốn đi nữa.
“Có gì đáng lo đâu? Sao kỳ vậy?” - Thái phi thắc mắc không hiểu, mà chính nhà vua cũng không hiểu mình sợ cái gì trong khoảng không trước mặt.
Thực sự ngài đã bị hội chứng sợ khoảng trống. Cả Thái Y viện và Nguyễn Văn Tường làm sao hiểu được chuyện ấy để mà chữa cho ngài.
Dù sao, có vẻ mọi chuyện vẫn ổn trong mắt Tôn Thất Thuyết: bộ hoàng bào đã may xong, thêu hình rồng năm móng rất đẹp. Mỗi khi đến phiên đại triều, dù không khỏe, vị Hoàng đế non trẻ vẫn còn đủ sức ngồi uy nghi trên ngai trong bộ áo vua.
Tôn Thất Thuyết nhếch mép, nghĩ thầm: “Ta cũng chỉ cần ở vương triều một cái xác ve xinh xắn và rỗng tuếch như thế mà thôi.”
Chương 55
Dòng chữ son trên cuốn lịch
Hữu Ngạo không hiểu vì sao thầy mình lại biến mất tăm. Hay thầy nản vì chiến cuộc kéo dài, lòng người bất nhất, nên đã bỏ đi rồi?
Trong khi đó, Nguyễn Chí ngày nào cũng bị trói quặt hai tay, dẫn đến chỗ hỏi cung trong ngục.
- Ngươi về Hà Nội, liên lạc với giám mục Tây, chúng ta đã biết hết. Đầu đuôi thế nào mau khai ra cho rõ.
- Nếu ta theo Tây thì mấy tháng trước đã không có trận Cầu Giấy. Mà nếu không có trận Cầu Giấy thì Henri Rivière đã hạ thành Sơn Tây, cái chỗ ngươi ngồi hỏi ta chưa chắc đã còn.
- Khốn kiếp! Nói như vậy là ngươi xem quân ta kém cỏi, không đủ sức giữ thành hay sao? Rõ là ngươi giả vờ lập công để chui vào quân doanh của chúng ta. Xảo quyệt lắm!
Chí biết nói cũng vô ích, quyết định ngậm miệng cho đỡ tốn hơi. Thấy vậy, quản ngục tức giận hét:
- Bọn bay! Mau đem hình cụ ra đây!
Lính ngục lập tức đưa ra một chậu than hồng, trên lửa than hừng hực đặt sẵn mấy cái kẹp sắt nung đỏ.
- Đã bao giờ thấy người ta nướng chả chưa? - Quản ngục lại nở một nụ cười ghê rợn.
Chí bậm môi, nhìn xuống sợi dây đang quàng quanh, trói chặt mình vào chiếc ghế. Chàng ráng sức gồng lên, cố dứt đứt dây. Nhưng không kịp, hai tên lính ngục đã cầm hai kềm sắt đỏ rực tiến sát hai bên.
Bỗng có tiếng gọi:
- Bác quản! Có lệnh của đại tướng.
Quản ngục đưa tay ra hiệu cho lính dừng lại:
- Lệnh sao, ông đọc ta nghe.
Người đưa tin ghé tai quản ngục, đọc lệnh. Nghe xong, quản ngục lừ mắt, hai tên lính liền bê chậu than đi.
Cũng còn may, dù bận rộn quân cơ nhưng Hoàng Tá Viêm không quên dặn ngục lại phải đối xử tử tế với Chí. “Trong lúc dầu sôi lửa bỏng, an toàn cho quân lữ là hàng đầu, nên thà bắt lầm còn hơn bỏ sót. Nhưng hắn là người có công, không nên vội làm hại. Việc này nguyên ủy ra sao, chờ khi tình hình thư thư rồi ta sẽ xét.”
Chỉ tiếc rằng cái “thư thư” mà Hoàng Tá Viêm mong đợi không thể có. Vì Từ Diên Húc và quân Thanh cứ nằm đám ở Bắc Ninh, chỉ cho chừng một ngàn quân tăng viện lấy lệ cho Sơn Tây. Trong khi đó Pháp đã tăng cường thêm bốn ngàn lính viễn chinh mộ từ châu Phi sang. Tháng Chạp năm ấy, quân Pháp đưa súng lớn vượt sông Hồng, chọc thủng phòng tuyến.
Quân Cờ Đen chặn đánh quyết liệt từ chiều đến tối. Tướng soái Lưu Vĩnh Phúc đích thân đốc thúc trận đánh, dùng hiệu lệnh bằng tiếng mõ để điều chuyển các cánh quân. Nhờ quen thuộc với địa hình, họ dựa vào bóng tối để di chuyển, tiến dần qua các lùm cây, định áp sát quân địch, tận dụng lợi thế đánh cận chiến.
Nhưng vận rủi đã làm đảo ngược dự tính của Lưu Vĩnh Phúc. Đêm ấy đã là cuối đông, ai ngờ trời bỗng dưng quang mây, ánh trăng thượng tuần hiện ra lồ lộ, soi sáng cả một vùng. Quân Pháp thấy rõ mục tiêu, liền lập tức chuyển pháo lớn lên các gò cao, bắn nã dồn dập.
Lúc này tầm súng đã quyết định tất cả. Lưu Vĩnh Phúc biết không cự nổi, cho hiệu mõ rút quân vào thành. Quân Pháp thừa thế chuyển pháo theo bắn rát, cổng thành Sơn Tây sụp đổ.
Tảng sáng, quân Nam mở cửa sau rút về Hưng Hóa. Quân Cờ Đen và viện quân của nhà Thanh cũng vỡ chạy tán loạn theo sau.
Trong nhà giam, Nguyễn Chí chỉ nghe tiếng gào thét, tiếng súng ầm ầm, rồi một ngọn lửa bùng lên ngay trước song sắt cửa tù. Chết rồi, nhà tù đã bị phóng hỏa. Trong lúc hỗn quân hỗn quan này, đâu có ai nhớ tới thân phận những người bị giam cầm nơi đây.
Chàng lật đật tìm cách thoát ra. Nhảy lên bám chặt vào xà nhà, Chí lấy hết sức bình sinh bẻ một cây rường, tống mạnh vào mái ngói. Ngói rơi loảng xoảng, chàng chui ra qua lỗ hổng, thấy lửa đã liếm vào những gian lân cận, tiếng kêu khóc của tù nhân vang lên thảm thiết. Chàng cố phá cửa thật nhanh, lôi được vài người ra khỏi đám khói mù mịt. Chốc lát, lửa đã bốc cao, nuốt trọn tất cả.
Những người tù sống sót quờ quạng tìm đường chạy. Mùi thịt cháy khét nồng nặc tỏa khắp nơi. Chợt có tiếng quát to cùng với tiếng lách cách lên cò súng:
- Arrête! Arrête ou je tire!
Lính Tây đã ào ào vào kín trong thành. Chúng áp giải tất cả vào một gian nhà bỏ không, khóa lại.
Vậy là thoát khỏi tù Nam, Chí lại rơi vào tù Tây.
Chàng đưa mắt nhìn quanh. Oái oăm thay, đây chính là hổ trướng của Hoàng Tá Viêm. Con hùm Sơn Tây, dù đã thề sống chết với trận địa, cũng phải bỏ rừng mà đi rồi.
©©©©©©
Ở kinh đô, cái tin thành Sơn Tây vỡ làm chấn động triều đình. Tuy vậy, hai quan phụ chính vẫn hy vọng.
Tôn Thất Thuyết nói:
- Nhà Thanh đâu đã cam tâm chịu thua! Tướng Trương Thụ Thanh cách đây ba hôm đã kéo quân qua Lạng Sơn, hiện đang tiến về thành Bắc Ninh, tăng viện cho Từ Diên Húc. Tướng Sầm Dục Anh thì đã vượt qua Lào Cai, về Hưng Hóa hội quân với Cờ Đen. Pháp tuy chiếm đồng bằng, nhưng vẫn chưa dễ ăn cả một vùng từ Bắc Ninh trở lên biên giới!
Hồng Hưu bàn:
- Ta e rằng quân Tàu dù có đông cũng khó thắng! Quan Tướng có kinh nghiệm chiến trường, ắt biết rõ thời nay cái quyết định chiến thắng không phải chỉ ở lòng dũng cảm, mà còn ở tầm tinh xảo của vũ khí. Tây với Tàu ở xứ Bắc bây giờ, một bên đua súng, một bên đua thịt, thử hỏi bên nào hơn? Tàu ỷ số đông, lấy thịt đè người, nhưng làm sao lấy thịt đè được đại bác? Mình cầm vận dân vận nước trong tay, há nên quyết đoán theo cách phi phỏng cầu may?
- Vậy Đức ông phụ chính thân thần có cao kiến gì không? Xin hãy nói ra cho chúng tôi được mở mang tầm mắt. - Nguyễn Văn Tường đưa mắt ra hiệu cho Thuyết hãy kiên nhẫn.
Hồng Hưu nói ngay:
- Ta nghe tin báo, quân Thanh kéo sang, tiếng là giúp nước ta, mà chúng tàn hại ta còn quá giặc Tây. Từ Lạng Sơn cho đến Bắc Ninh, nghe các quan chức của ta đều báo về, chúng cướp của, hãm hiếp, bắt đàn bà con gái đem vào giam giữ trong trại quân. Vậy ta cầu cho chúng thắng, để làm gì?
- Tàu dù cướp của, vẫn còn hơn Tây cướp nước! - Tôn Thất Thuyết ngắt lời.
- Theo ta, Tàu không thắng nổi Tây, mà dù Tàu có thắng thì cũng chỉ khổ cho dân mà thôi! Chi bằng giữa hai cái tai họa, thì ta tạm thời chọn lấy cái nào nhẹ hơn!
Nguyễn Văn Tường thong thả vuốt râu cười:
- Cái ý Đức ông vừa nói, cũng chính là câu trước đây Nguyễn Trọng Hợp đã nói!
Câu nói của Tường rất nhẹ nhàng, nhưng ngầm ý nhắc Hồng Hưu: Nguyễn Trọng Hợp hiện đang nằm chờ chết trong ngục.
Tối đó về phủ, Hồng Hưu phàn nàn với nguyên cơ:
- Bàn việc lúc này rất khó. Nói gì cũng bị hai gã chặn họng. Thuyết thì như người điếc không sợ súng, cứ nghĩ hễ muốn là phải được. Tường thì lúc nào cũng ủng hộ Thuyết. Nói lên sự thật thì bị quy kết là hèn nhát. Thật khó trăm đường.
Nguyên cơ vừa dâng trà, vừa thưa:
- Khi Đức ông vừa ra tham chính, thiếp đã lo rằng khó. Vì sự thật là nước ta yếu, càng ngày càng yếu, cách gì cũng không thể bảo toàn. Nhưng dân mình từ lâu thấm nhuần Nho học, coi trọng sự khí khái, dũng cảm, coi nhẹ sự tính toán thiệt hơn. Cái nhận định trước sau cũng thua, dù là sự thật, sĩ dân không sao chấp nhận được. Cho nên Đức ông nên thận trọng, thẳng quá, thật quá đôi khi lại mang họa! Chỉ cần người ta hô lên rằng Đức ông muốn hàng giặc, thì ở địa vị nào cũng chết, hãy xem tấm gương của Hiệp Hòa đó!
Nghe nhắc tới người em út, Hồng Hưu bất giác rưng rưng:
- Nói chữ hàng là không đúng! Hòa là khác, hàng là khác chứ! Hàng là đánh thua, mất trắng, nên phải quỳ xuống mà dâng nước vô điều kiện. Còn hòa là tính thế không thể thắng, thì tạm nhượng bộ để củng cố sức lực chờ cơ hội về sau. Chính trong hòa ước Quý Mùi người Pháp cũng ghi rõ là tuyệt đối sẽ không làm vương triều mất danh dự. Đến kẻ địch đang ở thế thắng còn muốn giữ mày giữ mặt cho ta, sao giữa ta với ta lại cứ bôi nhọ nhau?
- Vậy trong triều có ai cùng ý nghĩ như Đức ông không?
- Sao lại không? Có điều Thuyết lâu nay giết người như ngóe, các quan Cơ mật mỗi lần họp cũng chỉ đưa mắt nhìn nhau, ngay đến trong lúc nghỉ giải lao cũng nói năng vô cùng dè dặt!
Nguyên cơ cúi mặt một lúc rồi thở dài:
- Theo thiếp Đức ông nên xin thôi việc phụ chính! Vì nói cũng chẳng ai dám nghe, còn thêm nghịch nhĩ người ta, thì có ngồi cũng chẳng làm chi được!
Hồng Hưu ngẫm nghĩ, buồn rầu:
- Bây giờ mà thôi, không còn chút thế lực nào thì càng nguy. Hãy xem tấm gương của Trần Tiễn Thành đó! Dù sao lâu nay ta cũng đã làm được vài việc đáng làm. Gỡ được cho Phan Đình Phùng ra khỏi ngục, cho về quê quán. Cứu được Nguyễn Trọng Hợp tạm thoát án chém đầu. Chỉ buồn vì, tiếng là phụ chính thân thần mà chưa hề được tiếp xúc với Hoàng thượng, chưa giúp gì được cho ngài!
Nguyên cơ nhìn quanh, rồi hạ giọng:
- Thiếp nghe người trong cung xì xào, nói là Hoàng thượng nay đã có Quận Tường chăm sóc cẩn thận!
- Ta cũng nghe nói Quận Tường lâu nay vào ra Đại cung môn như người ta qua cổng chợ Đông Ba vậy! Lẽ nào hắn dám đụng tới…
Nguyên cơ hiểu Hồng Hưu đang định nhắc tới Thái phi. Nàng vội nắm chặt tay chồng:
- Thế gian đồn đại chắc gì đã đúng, thôi, xin Đức ông giữ miệng là hơn.
©©©©©©
“Hoàng thượng! Thuốc này, tự tay mẫu phi sắc lấy đây. Hoàng thượng thương ta, thì hãy gắng uống hết.” Thái phi Nguyễn Thị Hương ân cần dỗ vua. Hoàng đế Kiến Phúc đang ngồi dựa gối, nghe mẹ nuôi vỗ về, ngài gắng gượng bưng chén.
Thái phi quay ra, gọi thị nữ mau dâng yến chưng đường phèn, để vua dùng tiếp cho đỡ đắng miệng. Khi nhìn lại, nàng thấy chén thuốc đã sạch trơn tận đáy. Vui mừng, nàng ghé ngồi bên cạnh, hỏi han. “Hoàng thượng, mấy hôm nay Hoàng thượng chịu uống thuốc, trông sắc mặt tươi hẳn lên, vậy là bệnh sắp khỏi rồi đó!”
- Mẹ thấy con khỏe lên thật sao?
Nhà vua hỏi. Ngài hơi mệt với mấy kiểu cách xưng hô cung đình, nên bất giác lại dùng hai tiếng mẹ con như xưa. “Cầu Trời cho con khỏe lại, để con đền ơn mẹ đã nuôi con!”
Thái phi cười, rơm rớm nước mắt. Hoàng đế thấy vậy càng thương, bảo:
- Khi nào con khỏe, mẹ thích gì, con sẽ chiều ý hết. Mẹ thích gì, mẹ nói đi!
Thái phi nghĩ một lúc, rồi ngần ngừ:
- Hồi tiên đế còn, ngài hay rước Từ Dụ Thái hậu ra hành cung Thuận An ngắm biển. Mẹ chưa bao giờ được theo đi, trong lòng vẫn ao ước lắm. Đời cung phi trong Tử Cấm Thành, chỉ mong một lần thấy biển khơi xem thử ra sao! Sau này con hết bệnh, tự mình cầm quyền, thì mẹ chỉ cầu được một lần ra biển chơi thôi!
Nhà vua tuy mới mười lăm tuổi, nhưng cũng đã biết ít nhiều tin tức bên ngoài. Cái ước mơ của Thái phi, tưởng là dễ mà thật là vô cùng khó. Vì hiện giờ, quân Pháp đã đóng giữ từ cửa Thuận lên đến tận kinh thành, muốn đến hành cung Thuận An thật còn khó hơn bay lên trời. Không muốn làm Thái phi thất vọng, nên ngài chỉ lặng yên không nói.
Thái phi nhìn qua bên kia gối, rồi buột miệng kêu:
- Hoàng thượng! Trời ơi, sao Hoàng thượng lại làm vậy?
Nàng vừa đưa tay đụng vào tấm khăn cạnh gối vua, thấy nó ướt đẫm. Thì ra vua chỉ ngậm thuốc rồi nhả hết vào khăn.
Tại sao? Nghe mẹ nuôi hỏi, nhà vua chỉ im bặt. Nhưng rồi bị hỏi mãi, ngài cũng bật ra một câu:
- Thuốc này do ông Quận Tường kê đơn phải không? Con không muốn uống cái thuốc như Hiệp Hòa đã uống đâu!
Thấy nhà vua đang hòa dịu bỗng trở nên cáu gắt, Thái phi sửng sốt, cứng miệng, lát sau mới nói được.
- Sao Hoàng thượng nghĩ kỳ vậy? Quan Quận có ác với ai không biết, chứ không bao giờ lại ác với Hoàng thượng!
Thái phi quả quyết như vậy, vì nàng hiểu cái công sức, cái tâm tư mà Nguyễn Văn Tường đã dồn vào cho Kiến Phúc từ nhiều năm nay, không phải mới bây giờ.
Nhà vua đang xúc động, quên cả giữ lời:
- Ai cũng biết Quận ấy là kẻ giết người, chỉ có mẹ cho hắn là tốt thôi!
Nói rồi vua đẩy từ bên gối về phía mẹ nuôi một cuốn lịch.
- Mẹ xem cái này chưa? Mà chắc mẹ thừa biết rồi!
“Hở? Cái gì vậy?” Thái phi cầm cuốn lịch lên. Đó là bản thảo cuốn lịch của năm sắp tới, đang được trình lên vua châu phê để chuẩn bị cho lễ Ban Sóc - lễ ban lịch năm mới.
- Mẹ cứ mở ra chỗ ngày sinh của mẹ đi, rồi hãy hỏi! - Kiến Phúc nói với một giọng tức tối.
Theo lệ thì ngày sinh của vua và của Thái hậu đều là những dịp long trọng được đặt tên riêng. Sinh nhật của Thái hoàng thái hậu Từ Dụ từ trước đã được gọi là tiết Thánh Thọ. Sinh nhật vua là tiết Vạn Thọ. Thái phi giở đến ngày sinh của mình, thấy trên lịch ghi là tiết Diên Xuân.
Diên Xuân nghĩa là nối dài mùa xuân, hai chữ gợi nhớ đến tuổi trẻ và sắc đẹp đang từng phút trôi qua. Hai má Thái phi tự nhiên ửng hồng:
- Chắc bao nhiêu chữ Thọ đã dùng đặt tên các tiết của bề trên, nên đến sinh nhật mẹ thì phải dùng chữ Xuân đó thôi! Có gì lạ đâu?
- Vậy còn cái này thì sao? Đặc biệt quá mà! - Vua chỉ tay vào trang lịch. Đúng là đặc biệt, bên cạnh tên tiết còn chua thêm hai câu thơ, mà lại ghi bằng chữ son đỏ thắm:
“Ngọc hải thư cầm
Trung diên xuân các”
Câu thơ nhắc đến ngày xuân êm đềm trong chốn khuê các. Nhìn qua thì chỉ là một câu viết thêm cho đẹp, mà nếu suy diễn thì có thể hiểu là một câu khêu lòng gợi ý. Thái phi không phải không hiểu, nhưng thấy Hoàng đế bực bội quá, nàng tìm cách lảng tránh:
- Tên tiết là do Khâm Thiên giám họ đặt, lịch cũng là do họ soạn ra. Có liên can chi đến ai đâu, sao con lại để trong lòng mà tức giận cho tổn thương sức khỏe. Nếu không thích, thì không duyệt, quyền ở Hoàng thượng mà!
- Quyền ở Hoàng thượng! Quyền ở Hoàng thượng! Không duyệt mà được sao? Mẹ làm như không biết việc lớn việc nhỏ trong triều ngoài nội, có gì mà Quan Quận với Quan Tướng không nắm hết!
Thái phi nghẹn ngào rơm rớm nước mắt. Im lặng một lúc, nàng nói thẳng:
- Hoàng thượng giận dỗi như vậy, chắc là nghi ngờ mẫu phi phải không? Nhiều người họ xầm xì, ta cũng biết. Nhưng phép tắc cung vi nghiêm nhặt lắm. Ta tuy là mẹ vua, nhưng trên còn có Thái hoàng thái hậu, không ai ba đầu sáu tay mà làm việc trái phép được đâu. Hoàng thượng mà cũng nghi ta như vậy, tức là dồn ta vào cái tội chết đó!
Kiến Phúc lúc này đã thấm mệt, mồ hôi lấm tấm rịn trên trán:
- Ai chết thì chết, chứ mẫu phi làm sao mà chết được? Có Quận Tường đó, ai dám động vào mà lo?
Nói rồi vua day mặt vào vách, nhắm mắt không nói nữa, mặc kệ cho Thái phi năn nỉ.
Chương 56
Đâu đã đến lúc phải chết?
Viên thái giám tiến ra bên hữu bệ rồng, mở tờ chiếu chỉ, tuyên đọc:
“Thị giảng Bộ Lễ là Ông Ích Khiêm, nhiều năm phụng sự hoàng triều, một lòng trung quân ái quốc, lập nhiều công lớn. Nay xét công lao, trẫm đặc cách phong lên làm Thị lang Bộ Binh, ngoài ra còn ân phong tước Nam, và thưởng cho huy chương “Long Vân Khế Hội”.
Ông Ích Khiêm hân hoan tiến ra trước bệ, đứng thẳng lưng ưỡn ngực nhìn quanh một lúc, rồi mới quỳ tạ ơn.
Các quan đứng im phắc hai hàng, những khuôn mặt bất động. Những luồng ý nghĩ đi qua, tuyệt mật, trong óc từng người.
Trên ngai vàng, Hoàng đế Kiến Phúc đang nhìn xuống. Ngài nghĩ thầm:
“Công lớn nhất của hắn là giết vua, tự tay đổ thuốc độc vào miệng Hiệp Hòa.”
Bất giác ngài thấy nôn nao, người lạnh buốt, mồ hôi tháo ra đầy trán.
Tôn Thất Thuyết tự mình bước xuống bệ, đến trước Ông Ích Khiêm, đeo tấm huy chương vào cổ y: một đồng tiền lớn bằng vàng ròng có khắc chữ chạm nổi, buộc vào một dải đeo bằng gấm.
Tan buổi chầu, các quan lũ lượt bước ra. Lặng im, một thứ im lặng nặng trĩu bao trùm.
Nguyễn Văn Tường đến gần Hoài Đức quận công Miên Lâm:
- Lúc đang ban phong cho Ông Ích Khiêm, ta thấy Hồng Hưu dường như có vẻ không thuận ý? Hai mệ nói gì với nhau vậy? - Tường hỏi.
Miên Lâm vừa được Tường và Thuyết đưa vào làm Tả tôn nhân của Tôn Nhân phủ, chỉ dưới chức Tả tôn chính của Hồng Hưu một bậc.
- Dạ, Hồng Hưu nói: “Ông Ích Khiêm theo Trần Thúc Nhẫn công cán ở Thuận An. Giặc tấn công, Trần Thúc Nhẫn tử tiết. Còn hắn mặc nguyên đồ lót chạy về. Vậy là công lớn?”
- Vậy ông trả lời sao?
- Dạ, đang cuộc lễ long trọng, mà Đức ông phụ chính thân thần phát ngôn như vậy cũng có phần quá đáng. Bản phủ xưa nay tính tình nghiêm cẩn chừng mực, những câu nói động chạm, bản phủ không bao giờ họa theo.
Nguyễn Văn Tường gật đầu hài lòng:
- Ta thấy ông mới phù hợp làm Phụ chính thân thần đó!
Miên Lâm không nói, chỉ yên lặng cúi đầu. Ông cũng biết, những lời hứa hẹn đôi khi chỉ là công cụ để sai khiến mà thôi. Tường thấy vẻ dè dặt của Miên Lâm, liền tiếp với giọng thân thiện nhất:
- Hiện còn nhiều việc lớn, Tây đang ép ký thêm hòa ước Giáp Thân. Xong hòa ước, rồi ta sẽ tính dần đến “việc trong nhà”.
Lúc ấy, sứ thần Cộng hòa Pháp là Patenotre đã đến Sài Gòn, sẵn sàng đàm phán. Nhưng triều đình Huế lấy cớ vua Kiến Phúc đang bệnh, cứ lần lữa hẹn dần sang tháng sau. Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết cố kéo dài thời gian, hy vọng sẽ có tin chiến thắng từ miền Bắc.
Trong khi đó, liên minh quân Nam, quân Thanh và quân Cờ Đen dàn ra, cố thủ từ Lạng Sơn về đến Bắc Ninh. Quân Pháp cũng điều đến hai lữ đoàn. Hai bên hầm hè, sẵn sàng tấn công.
Cuối tháng ba trời rét như cắt, Nguyễn Chí và mấy người tù sống sót bị Pháp bắt giữ, sung vào đội lao công chiến trường. Người kéo súng, người vác đạn, bị xua lên đi trước hàng quân. Sau lưng họ, một tiểu đội lính Ma Rốc chĩa súng canh chừng.
Trời tối mịt, quá canh hai dân phu mới được nghỉ.
Trong gió đêm lạnh buốt, những người tù co ro ngồi dưới căn lều đóng tạm. Hai tên lính canh mang súng bước đến, lần lượt khóa chân từng người vào cùng một sợi xích sắt.
“Đây là đâu?” Chí vừa nhai miếng bánh mì khô cứng, vừa thì thầm hỏi người bạn tù ngồi cạnh.
- Đây là địa giới huyện Bất Bạt. Bên kia sông là thành Hưng Hóa.
Chí hiểu. Vậy là quân Pháp đang chờ nước xuống để vượt sông Đà. Ngày mai sẽ là một trận chiến khốc liệt, có thể mình sẽ chết, có thể mình sẽ phải tiếp đạn cho những khẩu súng bắn vào quân Việt.
Chàng nhìn quanh. Đêm đã khuya, tù nhân đã bị khóa hết nên chỉ còn một tên lính Tây mang súng đi tới đi lui, thỉnh thoảng liếc mắt canh chừng.
Chí khẽ bấm người bạn tù bên cạnh. “Cả Quýnh, nghe tôi nói đây…”
Chàng quờ tay trên mặt đất. Không khó để tìm ra thứ đang cần: một khúc cây khô chẻ hai nhánh, và một viên sỏi. Cả Quýnh lần tay vào bụng rồi đưa cho chàng một sợi dây thun.
Chưa đầy mười phút, Chí đã làm được cái ná bắn chim. Vụt… Boóc! Viên sỏi trúng ngay sau đầu tên lính Tây. Hắn gục xuống.
Nhanh như cắt, Chí và Cả Quýnh lật tên lính ra, lục lấy chìa khóa. Mở được xích, hai người nín hơi chạy thục mạng về phía bờ sông. Cả Quýnh lật đật định nhảy xuống làn nước chảy xiết.
“Không được đâu, đợi một chút!” Chí nói rồi đưa mé bàn tay chém vào bụi chuối ven bờ. Mỗi người ôm lấy một thân chuối, bơi đi.
“Chết tôi rồi!”
Nghe tiếng Quýnh kêu thất thanh, Chí ngoái nhìn. Quýnh một tay ôm cây chuối, một tay túm vào bụng cố níu. Nhưng vô ích, chiếc quần đùi đã bị nước cuốn tuột trôi đi.
Cuối canh tư, nước chảy chậm lại, thân chuối cũng ngậm nước nặng dần. Chí buông thân chuối, sải tay bơi vào bờ.
- Cái dây thun, bác không trả lại tôi! Giờ mất quần rồi, làm sao vào trong làng? - Cả Quýnh vừa đi vừa lom khom che chắn - Cái quần đùi này là của quân Cờ Đen lột được từ xác lính Tây đem bán. Tôi thích cái dây thun quá nên mới bỏ tiền mua, mất tới mấy xu đấy!
Chí làu bàu:
- Cái mạng không tiếc, tiếc cái dây thun? - Chàng đưa tay tước cho Quýnh một ít lá chuối ven đường, bảo hắn che tạm.
Thân thể ướt đầm, cả hai run cầm cập, răng đánh vào nhau lách cách. “Mau lên, vào làng xin cái gì bỏ bụng rồi sẽ tính.” Hai người bảo nhau.
Vừa lúc ấy, tiếng đại bác vang lên ầm ầm rất gần. Quân Pháp đã qua sông, nổ súng vào thành Hưng Hóa!
Dân trong thôn nhốn nháo, la hét kêu khóc, nhà nhà bồng bế con cái, quơ quào chút ít của nả, kéo nhau chạy đi.
Chí và người bạn tù chạy vào một ngôi nhà trống. Lửa bếp vẫn còn ủ tro nóng. Mấy củ khoai vẫn còn lùi trong than hồng. Đạn nổ chí chát chung quanh, nhưng hai kẻ đang đói khát và lạnh run vẫn lao vào nhai ngấu nghiến, không biết sợ hãi là gì nữa.
Khi cái bụng tạm no, tay chân hết run rét, Chí và Quýnh chạy ra khỏi làng ngược lên phố. Một cảnh tượng hãi hùng, những phố xá của Hưng Hóa đều cháy rừng rực: quân Cờ Đen và quân nhà Thanh đang rút lui. Trước khi rút, chúng phóng hỏa đốt hết nhà cửa, buộc dân phải bỏ nhà chạy theo chúng.
Súng ống của quân Thanh bị chúng vứt rải rác suốt dọc đường. Lính Thanh chỉ khuân khiêng của cải cướp được, nhiều tên lễ mễ vác theo cả đàn bà con gái lâu nay chúng đã bắt. Tiếng kêu khóc rầm rĩ hỗn loạn chưa từng thấy.
Trong thành lúc ấy, Đại tướng Hoàng Tá Viêm biết đã đến lúc cùng đường. Từ Sơn Tây, lên Bắc Ninh, rồi giờ rút đến Hưng Hóa… Con hùm xứ Bắc giờ đây không còn chỗ ẩn thân.
Ông nghiến răng, rút gươm, quyết định kết liễu cuộc đời mình.
“Choang” Hữu Ngạo đã kịp đỡ. Chàng ôm choàng lấy chủ soái, can ngăn. Đại tướng vùng ra:
- Quân Thanh và quân Cờ Đen vỡ trận chạy cả rồi. Chúng là người Tàu, nay lại chạy về Tàu. Ta không muốn chạy theo chúng. Ta là người Đại Nam, sẽ chết trên đất Đại Nam.
- Cần gì phải chạy sang Tàu? Vẫn còn đường kia mà?
- Hàng Tây ư? - Tá Viêm cười chua chát - Đừng nói với ta chuyện đó. Không bao giờ!
- Không bao giờ ta lại hàng Tây. Xin chủ tướng hãy về lại quê, chờ cơ hội mới. Tài sức của chủ tướng vẫn còn, thù nước chưa trả được, việc gì phải chết?
- Giặc đã chẹn hết đường vào Nam, sao về được nữa?
Hữu Ngạo nhanh nhẹn đẩy Tá Viêm xuống đường hầm bí mật dẫn ra ngoài thành:
- Xin chủ tướng cứ theo con.
Hữu Ngạo nhớ đến con đường thượng đạo trên núi, qua đó thầy Hai Chí đã dẫn mình ra Bắc - một mạch ngầm sinh lộ xuyên suốt trên vùng núi non từ Bắc vào Trung.
Tin Hưng Hóa vỡ trận truyền về Kinh. Pháp nhân đó lại ép ký hòa ước Giáp Thân. So với hòa ước Quý Mùi mà Hiệp Hòa đã ký, hòa ước này tuy có vài khoản đỡ nặng nề, nhưng chung quy vẫn phải nhận cho Pháp bảo hộ - được viết cho dễ nghe hơn bằng hai chữ “bảo trợ”.
Lần này Nguyễn Văn Tường trực tiếp chỉ đạo việc đàm phán phía Đại Nam, nên không thể quy lỗi cho ai được, trừ cái người được cho là đã để mất miền Bắc. Hoàng Tá Viêm đang còn lặn lội trên đường thượng đạo về Phú Xuân, thì tại triều đình, bản án dành cho ông đã được soạn sẵn.
“Các tỉnh Hưng, Tuyên, Thái lần này thất thủ thành trì, chiếu theo quân pháp đều là có tội: Hoàng Tá Viêm, đã được sung làm đại tướng quân, được ủy thác toàn quyền, địa vị xiết bao long trọng. Vậy mà đương sự chẳng biết toan tính, làm hỏng hết đại sự. Nay nên chiếu theo luật xử "Trảm giam hậu" để bầy tỏ phép nước.”
Hoàng Tá Viêm, một thời là chủ tướng của Tôn Thất Thuyết, nay là tội nhân, sẽ phải rủ áo khoanh tay trước quan phụ chính. Đau nhất là bị kết cái tội “làm hỏng đại sự” phải cùng chịu một bản án trảm giam hậu như Nguyễn Trọng Hợp - người mà ông đã chỉ trích nặng nề chưa đầy ba tháng trước đây.
Cảm giác chua xót làm ông thấm thía cái bạc bẽo của đời võ tướng. Ông tiếc đã không chết ở thành Hưng Hóa.
Nhưng muộn rồi, thời điểm để được chết oanh liệt đã qua. Dù sao, trong nỗi buồn vô hạn, trong lòng ông cũng còn văng vẳng lời khuyên của Hữu Ngạo: Việc gì ta phải chết?
©©©©©©
Năm ấy Nguyễn Văn Tường sức khỏe giảm sút, người gầy hẳn đi vì mất ngủ. Nhiều việc phải lo nghĩ dồn lên vai ông.
Đã nghe theo Thuyết, chấp nhận cái tiếng ác nghìn thu, giết Hiệp Hòa để phủ nhận hòa ước Quý Mùi; vậy mà nay chính ông lại phải dự ký hòa ước Giáp Thân, thật là chạy trời không khỏi nắng. Trong cung: dù ông hết lòng hết dạ, tự mình bốc từng thang thuốc, sức khỏe Hoàng đế Kiến Phúc vẫn càng lúc càng tệ. Đôi mắt hầu như lúc nào cũng đẫm lệ của Thái phi làm ông thấy mình thực sự đau xót và bất lực. Trong triều: sức ép của Tôn Thất Thuyết luôn đè nặng, ông cảm thấy như phải liên tục kéo ghì dây cương một con ngựa bất kham.
“Đúng, liên tục kéo ghì dây cương. Nhưng ta không cỡi ngựa, mà đang bị ngựa lôi xểnh đi.” Nguyễn Văn Tường nghĩ thầm.
Thuyết đã một lần nữa, đặt súng thần công chĩa thẳng sang tòa Khâm sứ, như một lời thách thức, phớt lờ các yêu cầu giải thể bố phòng đã ghi trong hòa ước.
“Sĩ khả sát bất khả nhục”, kẻ sĩ thà chết còn hơn chịu nhục nhã. Đã không sợ chết, thì sợ gì mấy thằng mắt xanh mũi lõ ấy.” Tôn Thất Thuyết nói.
Những việc làm của Thuyết như đâm vào cặp mắt theo dõi của Khâm sứ Rheinart. Mong muốn nhanh chóng thiết lập nền bảo hộ, ông ta nghĩ đến việc làm sao loại trừ vị thượng thư Bộ Binh này - một con người mà theo ông, là “một kẻ khùng tàn ác và ngang ngược.”
Một sớm tháng bảy, Hồng Hưu được thiệp báo đến dự cuộc họp Hội đồng Phụ chính.
- Rheinart đưa thư ngỏ ý muốn lập Đức ông làm vua! Chắc là Đức ông đã biết? - Tôn Thất Thuyết gằn giọng.
Hồng Hưu giật mình:
- Hoàng thượng đang tại vị, sao dám nghĩ điều bất kính như vậy?
- Đức ông chớ làm như không biết. Hoàng thượng bệnh nặng lắm rồi, thuốc thang không công hiệu. Ngày một ngày hai tất sẽ băng hà. Sứ Tây nắm rõ việc ấy, từ đâu mà hắn biết?
- Bộ Binh của ông lo việc tuần phòng bảo mật, từ đâu thì ông phải biết, sao lại hỏi ta? Tám tháng nay từ lúc nhậm chức Phụ chính thân thần, ta chưa một lần được vời vào cung! Còn với Rheinart, khi trước tuy tiên đế có cho phép thăm viếng, nhưng từ lúc lên làm phụ chính ta cũng đã giữ gìn, chưa bao giờ có liên lạc!
- Thôi được, thực hư việc ấy sẽ nói sau. Bây giờ, yêu cầu Đức ông viết ngay thư cho Rheinart, nói rằng bản thân mình tự xét tài hèn đức mỏng, không dám nhận làm vua!
Hồng Hưu không nén được tức giận:
- Ông ra lệnh cho ta sao? Việc lập Hoàng đế, xưa nay là theo di chiếu. Ta không tranh giành, mà cũng không việc gì phải khước từ.
Tôn Thất Thuyết trừng mắt:
- Di chiếu? Di chiếu nào nữa? Bọn Tây ỷ vào việc ta đã ký nhận bảo hộ, chúng đòi ngôi vua Đại Nam phải được chúng duyệt qua. Đó là việc vô cùng xúc phạm, biến Hoàng đế Đại Nam thành công chức của Tây! Đức ông chấp nhận được hòa ước Giáp Thân sao? Chấp nhận mất nước sao?
- Ông nên nhớ, hòa ước Giáp Thân là chính ông Tường đã tham dự, đã chỉ đạo việc ký kết. Đừng có đổ lên đầu hoàng tộc tất cả những hậu quả do các ông làm ra. Cứ nói rằng hoàng tộc chẳng có cách gì cứu nước, vậy các ông có cách gì không? - Hồng Hưu không nén được, đứng dậy nói lớn.
Nãy giờ Nguyễn Văn Tường chỉ lẳng lặng nghe. Một cảm giác cay đắng dâng lên trong miệng. Ông không muốn nói gì về việc lập vua mới, vì tự đáy lòng, ông vẫn tin ở y lý của mình, vẫn hy vọng Kiến Phúc khỏi bệnh.
Đang lựa lời để can ngăn, thì một nội thị từ trong cung ra, truyền chỉ của Thái phi triệu gấp Quan Quận vào cung. Tường lật đật đứng lên, để lại sau lưng hai vị phụ chính đang hầm hè nhìn nhau nẩy lửa.
Trong tẩm điện, trên long sàng chạm trổ vàng son, dưới lớp chăn gấm thêu dệt lộng lẫy, vị Hoàng đế mười lăm tuổi trông bé nhỏ và mỏng manh hơn bao giờ hết. Gương mặt khả ái ngày nào đã héo hắt và trắng bệch như sáp.
Mắt Hoàng đế nhắm nghiền. Thái phi đầu tóc rũ rượi, khóc òa khi thấy Nguyễn Văn Tường:
- Quan Quận! Xin ngài cứu Hoàng thượng!
Nguyễn Văn Tường hối hả chạy thốc đến gần, quỳ xuống, bắt mạch.
Cổ tay nhà vua lạnh ngắt. Tường buông ra, gục đầu.
Hoàng đế đã băng hà. Không có di chiếu, không lời trối trăn, không còn gì ngoài tấm thân mỏng tanh và nhẹ như một xác chim khô.
Linh hồn của người thiếu niên trong trắng đã bay đi, trút bỏ mọi khổ ải.
Chương 57
Đuốc thanh trà
Cái tin Hoàng đế băng hà được giữ kín. Chưa ai được báo tin, kể cả đích mẫu của vua, Hoàng quý phi Vũ Thị Duyên - nay đã được gọi là Khiêm Thái hậu. Từ lúc con nuôi là Dục Đức Ưng Chân bị phế, Khiêm Thái hậu biết mình chẳng còn gì ngoài cái danh vị vợ cả của một ông vua đã chết. Vì vậy dù được phép ở lại hoàng cung, nhưng bà vẫn tự nguyện lên Khiêm lăng cư tang, tránh xa chốn vàng son đầy sóng gió.
Thiện phi thì ngược lại, tuy bắt buộc phải ở sơn lăng theo di chiếu của tiên đế, nhưng vẫn luôn ấp ủ giấc mơ trở lại cung vàng điện ngọc. Bởi vậy, nhất cử nhất động ở kinh thành, nàng đều theo dõi. Mỗi lần cùng Khiêm Thái hậu dâng cúng cho tiên đế là một dịp để nàng xúi bẩy, eo xèo.
- Hoàng thái hậu là đích mẫu của vua, rõ là địa vị cao hơn Thái phi. Vậy mà sinh nhật Thái hậu họ đặt là tiết Thiên Thu, còn sinh nhật Thái phi là tiết Diên Xuân. Vậy có phải là bất kính lắm không, xưa nay thì Xuân vẫn ở trước Thu!
Khiêm Thái hậu cười buồn:
- Đời ta từ giờ tới chết chỉ còn biết trông vào nấm mộ của tiên đế, thì họ cho ta hai chữ Thiên Thu cũng phải!
Thiện phi thoáng bĩu môi, thầm nghĩ: “Đã biết ngay mà, lúc nào chẳng vậy, đặt đâu ngồi đấy chẳng khác gì một bịch gạo.” Nghĩ vậy nhưng nàng vẫn không thôi đâm thọc:
- Thái hậu thử nghĩ xem, Dục Đức có tội gì mà đến nỗi chết thảm. Nếu không vì cái gã đa mưu ấy cứ rắp tâm đẩy con của ả kia lên…
Khiêm Thái hậu, tuy đã lánh lên tận miền xa xôi này, nhưng nghe Thiện phi nói bóng gió vậy bà vẫn sợ hết hồn, vội vàng nhìn quanh rồi dang xa, bước ngay vào chiếu lạy trước bàn thờ.
Cái tin Hoàng đế Kiến Phúc băng hà chẳng mấy chốc đã đến tai Thiện phi. Nàng vội vã tìm con nuôi Ưng Thị, lúc ấy cũng đang cư tang tại lăng:
- Hoàng nhị tử! Tin này mẫu phi chỉ nói riêng cho hoàng tử biết! Tiên đế nuôi ba người con, Dục Đức Ưng Chân nghe nói chết rồi, nay Kiến Phúc cũng chết luôn. Chỉ còn mình hoàng tử, lần này ngôi báu không về tay hoàng tử thì còn ai nữa?
Ưng Thị hồi hộp nhìn quanh:
- Xin mẫu phi nói nhỏ thôi! Tin đồn có chắc chắn không?
- Không phải tin đồn, mà là tin riêng, có người biết rõ cung cấp tin cho mẫu phi. Hà, chỉ cần ta không điếc không đui, còn mở mắt lắng nghe, thì dù ai kia có giấu giếm kỹ đến đâu cũng không qua mắt mình được!
- Mẫu phi thật tài tình. Lâu nay con nghe lời mẫu phi, những hôm được rời lăng con đều theo thuyền lên tận điện Huệ Nam dâng lễ lên Thiên Y Thánh Mẫu. Mẫu đã thác lời cô đồng, báo rằng con sẽ lên làm vua. Vậy là lời phán của Mẫu đã linh ứng!
Thiện phi và Ưng Thị nhìn nhau, không giấu được hân hoan. Từ lúc thành mẹ con đến giờ, chưa khi nào hai người cảm thấy tương đắc đến thế. Sức hút của địa vị quả là ghê gớm: Trong khi ai cũng sợ phải lên ngôi bên cạnh lưỡi gươm sắc của Tôn Thất Thuyết, thì hai mẹ con nhà này lại hí hửng phập phồng mong đợi.
- Em Thiện, em vào lạy đi, đến phiên em rồi đó!
Thấy mình lạy xong đã lâu mà Thiện phi vẫn đứng ngây người không bước vào chiếu, Khiêm Thái hậu nhắc.
Thiện phi giật mình, vội tiến vào làm lễ, trong đầu vẫn ngổn ngang bao nhiêu mơ tưởng.
Trong lúc ấy, tại kinh thành, trong phủ Kiên Quốc công, công tử thứ năm là Ưng Lịch đang trèo lên chân tường, cố rón rén đưa tay bắt lấy con bướm nhung đậu trên lớp rêu xanh.
Cậu vừa sắp tóm được đôi cánh đen huyền lấm tấm màu sắc, bỗng có tiếng kêu to sau lưng:
- Công tử! Công tử!
Con bướm nghe động vụt bay lên. Ưng Lịch tiếc quá, quay lại, bặm môi tức giận. Nhưng không phải gia nhân nào trong phủ, mà cả đội lính đang kéo vào. Một võ quan chạy đến, quỳ dập đầu sát đất, khiến cậu trợn tròn kinh ngạc.
Kiên Quốc công đã qua đời mấy năm trước, các công tử đều còn nhỏ. Các phủ thiếp thấy quan lính kéo tới, sợ hãi lúng túng chẳng biết đối phó ra sao. Vậy là tốp lính cứ việc bế thốc Ưng Lịch lên kiệu chạy thẳng vào cung. Cậu đã được Tường và Thuyết chọn làm vua kế vị!
Một hoàng đế nhỏ tuổi và mạnh khỏe, đấy là tất cả những gì hai vị phụ chính đang cần. Phải lập lên thật nhanh, để đặt khâm sứ Pháp trước sự đã rồi. Chính vì vậy mà cậu bé Ưng Lịch bị bứt ra khỏi gia đình một cách đột ngột, thậm chí không kịp từ biệt mẹ.
Lễ công bố di chiếu diễn ra vội vã tại điện Thái Hòa. Từ buổi lễ ra về, Hồng Hưu vào phòng, nói riêng với nguyên cơ:
- Thường thì di chiếu phải được tuyên đọc khi vua sắp băng, có đại thần và tôn thân chứng kiến. Vậy mà vua băng hà chẳng ai biết, rồi đùng một cái đưa ra một tờ giấy, nói rằng Hoàng thượng truyền ngôi cho Ưng Lịch. Hừ, di chiếu há phải tờ giấy lộn muốn vẽ gì thì vẽ hay sao? Ngang nhiên đến như vậy là cùng.
Nguyên cơ thở dài:
- Thuyết - Tường lập vua mới vội vàng như thế, tất là vì ngại có người không chịu nghe theo. Mà người hai gã nghi ngại nhất chính là Đức ông!
- Nghe theo Thuyết thì thực sự chỉ có những kẻ yêu nước mù quáng chẳng biết trước biết sau. Mấy hôm trước không dằn được, ta đã cãi nhau với Thuyết một trận to, từ đó đến nay y vẫn hằm hằm chưa thôi!
- Xin Đức ông thận trọng! Giờ binh quyền trong tay gã, nghe nói Quan Quận là người tiến cử gã mà cũng phải nhường nhịn vài phần.
- Nhịn làm sao? Tường - Thuyết làm chuyện ngang trái, sớm muộn sẽ gây lôi thôi to, cơ nghiệp tổ tiên nhà Nguyễn không khéo mà sụp đổ. Thế nước thật như trứng để đầu đẳng, lẽ nào không lo?
Nguyên cơ thở dài:
- Cái đáng lo nhất bây giờ, thiếp e… là tính mạng của Đức ông đó!
Hồng Hưu nín lặng một giây, rồi trấn an vợ:
- Sau hai vụ phế vua, phần lớn hoàng tộc đều uất ức, ai cũng ủng hộ ta. Hai gã chẳng dám làm căng thêm nữa đâu!
Nguyên cơ gật đầu:
- Dạ, nhưng vẫn nên cẩn thận! Lâu nay thiếp đãi đằng các gia tướng rất hậu, để họ hết lòng ngày đêm bảo vệ Đức ông. Nhưng thiếp xem ra tài của họ cũng chỉ có hạn, nên vẫn cố tìm thêm người giỏi! Thiếp nhớ lúc trước ở kinh thành có một võ sĩ quê quán trong Nam, nghe đâu đã từng cứu Phan Thanh Giản khỏi bị phái Hồng Tập ám sát. Người ấy về sau làm gia tướng ở dinh Đại tướng Nguyễn Tri Phương, không biết nay có còn ở đó không?
Hồng Hưu cau mày:
- Gã đó nghe nói về sau làm võ sư bên phủ Đồng Xuân, không biết nay còn ở đó không? Cái này phải hỏi hoàng muội mới rõ.
©©©©©
Năm ấy tình hình lại rối ren, thuế má thất bát, lương bổng của hoàng tộc đều bị cắt giảm. Các ông hoàng bà chúa xưa nay vốn quen thói xài sang, nay càng lúc càng lúng túng khó khăn. Dương Xuân, Kim Long, Vĩ Dạ vốn là miền phủ đệ, đêm về đèn đuốc hắt sáng một vùng. Nhưng giờ đây tiền bạc đã eo hẹp, giá dầu lạc thắp đèn lại tăng cao. Phủ nào cũng giảm ánh sáng, chưa hết canh hai đã chìm trong bóng tối âm u.
Chỉ riêng phủ Đồng Xuân là vẫn vậy. Thấy ánh đèn rực lên xa xa, Trấn Tĩnh đình hầu Miên Dần cười nhạt:
- Ai chứ con Mệ Út thì thiếu chi tiền. Hắn thân thiết với Hồng Hưu, mà Hồng Hưu thì đang làm phụ chính, quyền to!
Thật ra phủ Đồng Xuân không thắp đèn dầu lạc. Trong phủ có vườn thanh trà. Vào mùa trái chín, vú Nhự bắt người hầu gom hết vỏ và hạt phơi khô, tích lại để dành, có đến mấy chum. Ai nấy đều kêu mất công. Vú chỉ cười:
- Rồi sẽ có lúc cần, cứ chờ mà xem!
Mùa này, dầu lạc khan hiếm, phủ Đồng Xuân vẫn thắp đuốc không lo hao tốn. Nhựa thanh trà rất đượm, cháy lung linh thâu đêm.
Đêm về tịch mịch buồn! Gia Phúc không ngủ, xỏ chân vào đôi hài vải mộc, bước xuống vườn. Nàng lững thững đi trong vườn thanh trà. Mùa này, cây bắt đầu đơm nụ, mùi nhựa cây tỏa thơm trong đêm.
Chồng đã mất, con đã đi xa, thời buổi này gia nhân cũng giảm bớt hầu hết. Phủ đệ ngày mới lập ra huyên náo tiếng vui cười, giờ im vắng cô quạnh, chỗ nào cũng cũ đi, hao mòn đi. Riêng những cây thanh trà là càng ngày càng sum suê xanh tốt.
Thấm thoắt mình đã ba mươi bảy tuổi rồi! Cây càng lúc càng xanh, người thì không thể trẻ mãi. Nàng thấy lòng mình đang cằn đi, như một mảnh đất bỏ hoang.
Chợt có tiếng động từ phía cổng vườn. Gia Phúc giật mình nhìn ra. Lâu nay, từ lúc trong triều xung đột, ngoài dân gian cũng sinh lắm việc bất an. Lương, giáo gây gổ đánh giết nhau, trộm cướp cũng nhân đó duồn theo, đêm đến chẳng nhà ai dám hé cửa. Phủ Đồng Xuân lâu nay giảm người phục dịch, nên đêm không cắt người canh cổng, chỉ khóa chặt từ lúc chập tối.
Gia Phúc lắng nghe, hình như có tiếng người. Đêm vắng, âm thanh hòa trong gió lá xì xào, khiến nàng nghĩ mình nghe lầm? Vốn sợ ma, Gia Phúc vội vã chạy vào nhà, đóng chặt cửa, lên giường nhắm mắt cố dỗ giấc ngủ.
Đêm khuya vắng lặng. Gia Phúc nằm hoài không ngủ được, thao thức day trở mãi trên giường. Mùi nhựa cây thơm tho đậm đặc trong không gian, mùi của mạch sống. Nàng cảm thấy nhựa cơ thể cũng dâng trào từ trong chỗ sâu kín nhất của tấm thân sung mãn.
Nhắm mắt, Gia Phúc quờ lấy chiếc gối ôm, siết chặt vào lòng. Nỗi khát âm dương cồn cào như xé toạc da thịt. Gắng gượng ngồi dậy, nàng nhè nhẹ đến bên cửa sổ, hé nhìn về chỗ vú Nhự đang ngủ dưới nhà ngang. Chắc vú đã ngủ say từ lâu?
Hai tay mở phanh áo lụa, trút bỏ xiêm y, nàng nằm trần truồng úp mông lên gối ôm, đè xiết cửa mình vào đó... Chiếc vỏ gối lụa thêu bắt đầu thấm ướt, một mùi thơm nồng gây gây phảng phất trên chăn nệm.
Bỗng có tiếng động ở cửa, tiếng chân người. Gia Phúc hé mắt, hoảng hồn. Chết rồi, lại bị một trận roi là chắc.
Nhưng không phải vú Nhự! Một bóng đen thoắt đến bên giường, ôm chặt lấy nàng. Miệng nàng bị ép vào lồng ngực kẻ lạ, tiếng thét bị ghìm lại.
- Đừng kêu! Tôi đây! Tôi nhớ công chúa, nhớ vô cùng, vô tận!
- Trời ơi, chàng?
Chính là Nguyễn Chí. Rời Hưng Hóa về Nam, ngang qua Huế, Chí ở lại nhà thờ Kim Long chỉ cách chỗ Gia Phúc một đoạn đường.
Chàng đã nhất định không gặp nàng nữa. Nhưng đêm đến, nhìn về phía phủ Đồng Xuân, một vầng lửa đuốc hắt lên giữa đêm đen. Ngọn lửa rất đượm, cứ bập bùng sáng mãi. Chàng không tài nào cưỡng lại cái vầng sáng ám ảnh ấy.
Giờ đây, cả hai cố mở mắt nhìn nhau trong bóng tối, run bần bật vì vui sướng.
Họ hối hả ôm chặt, ôm chặt... Chí vùi đầu vào giữa ngực Gia Phúc, mơn man hai quả bòng thơm ngát mùi hoắc hương - cái mùi thơm ám ảnh cả đời chàng.
“Công chúa vẫn đẹp lắm.” Chí thì thầm.
Gia Phúc nghẹn ngào:
- Không, thiếp sắp già rồi. - Nói rồi nước mắt nàng tràn ra ướt mặt. - Cả chàng nữa, chàng gầy đi, toàn cả xương xóc trên người… - Gia Phúc vừa nói, vừa vuốt ve những vết sẹo mới trên người Chí.
Chí thấy môi mình mặn. Nước mắt của Gia Phúc nhắc chàng nhớ lại chiến tranh, tù đày, lưu lạc. Nhưng giờ đây, dường như tất cả những điều ấy không còn nữa. Chỉ khoảnh khắc này là có thực, đáng sống và đáng nhớ.
Chàng lùa tay tìm nụ hồng trong chỗ sâu kín của nàng. Cái nụ hồng làm chàng nhớ không nguôi. Nghiến răng, chàng cố giữ mình.
Nhưng Gia Phúc nhổm dậy, chồm lên người chàng, tức tưởi:
- Thiếp không sợ. Biết còn sống được bao lâu mà khổ mãi.
Chí không giữ nổi nữa. Chàng cắm ngập vào trong nụ hoa, cảm thấy sự mượt mà bên trong cơ thể nàng đang bó thít lấy mình.
Nỗi sung sướng cực độ làm chàng phải nén hết sức cho khỏi kêu rống lên giữa đêm thâu.
©©©©©©
Gà đã gáy. Chí khoác lại áo cho Gia Phúc, vuốt lại tóc cho nàng:
- Trời sắp sáng rồi, tôi đi đây.
Gia Phúc níu lại:
- Sao chàng phải đi. Chúng ta cứ mãi bên nhau thế này, không được sao?
Chí ngậm ngùi:
- Nàng cũng biết thừa là không thể được.
- Sao chúng ta lại không được như vợ chồng dân dã, sớm cùng gánh hàng ra chợ, chiều cùng về nhà tranh, tối nằm gác chân lên nhau?
- Nàng là quý tộc, quen sống trong lầu son gác tía, sao có thể sống đời dân dã được?
- Lầu son gác tía để làm gì? So ra thiếp còn khổ hơn con mèo con chó. Con chó con mèo còn có đực cái, có âm dương… - Gia Phúc thổn thức.
Chí thấy xót.
- Hay là nàng về Nước Nhỉ với tôi? Ở Nước Nhỉ tôi có nhà, có vườn trại. Ở đó không có chiến tranh, không ai ăn trộm, nói dối, không ai oán thù chém giết nhau. Mình sẽ nuôi ong, sẽ bán cho người đời một thứ ngọt lành. Mình kiếm đủ tiền để ăn cơm với cá, mặc áo vải bông, mùa xuân rảnh rang sẽ đi hát bài chòi…
Gia Phúc lắng nghe, mơ màng:
- Rồi mình trồng nhiều hoa trong vườn nữa…
- Đúng rồi, mình sẽ trồng hoa vạn thọ, hoa mào gà… Đến Tết mình chở ra chợ bán, lấy tiền mua áo mới...
- Hoa tường vi nữa, thiếp thích hoa tường vi…
Gia Phúc lim dim, vẽ vời. Nhưng chỉ một chốc, nàng dần dần trở nên lặng lẽ.
Chí nhận ra, chàng cũng dừng lại. Gia Phúc cười buồn, thở dài:
- Thôi… Chàng đi đi.
Chí hiểu. Nàng đã nhớ lại thực tại. Chàng bùi ngùi ôm siết nàng một lần nữa, thật chặt:
- Khi nào tôi cũng thương cũng nhớ nàng, cứ biết vậy là đủ.
Gia Phúc không nói, nhắm mắt, cắn chặt môi, nằm day mặt vào vách.
Khi nàng quay lại, Chí đã đi rồi.
Chương 58
Án loạn dâm
Cậu bé Ưng Lịch bị tóm vào cung, đã mấy tháng trời vẫn chưa lại hồn. Đang sống êm đềm trong vương phủ, bỗng đùng một cái, lọt vào một nơi xa lạ, vây quanh toàn là những người lạ hoắc.
Cung nga, thái giám đua nhau cưng chiều âu yếm, nhưng cậu bé vẫn buồn hiu, ngơ ngác. Ngoài năm bảy người phục dịch, chưa thấy ai dòm ngó hỏi han gì đến cậu. Việc chính trị bên ngoài đang căng như dây đàn, khiến ngay cả Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Văn Tường cũng không còn tâm trí nào mà để ý xem ông vua bé nhỏ đang cảm thấy gì, sống ra sao trong hoàng cung.
- Hừm, Rheinart cứ khăng khăng không chấp nhận đưa Ưng Lịch lên ngôi. Hắn nói chúng ta lập vua mà không bàn bạc gì với hắn, như vậy là không đúng với tinh thần mấy chữ “Nhận nước Pháp bảo trợ” trong hòa ước. - Nguyễn Văn Tường vừa sang họp ở tòa Khâm sứ về, kể lại với Tôn Thất Thuyết.
- Tên khốn ấy muốn ép ta sao? Nước của ta, vua của ta. Hà cớ gì phải hỏi ý hắn? - Tôn Thất Thuyết tức giận.
- Thì ta cũng đã biện bác, nói rõ là hòa ước không có khoản nào quy định lập vua phải hỏi ý phía Pháp. Nhưng hắn cứ khăng khăng bảo rằng nên lập người đang đứng đầu hoàng tộc, là một người trưởng thành có khả năng, chứ tại sao lại lập một đứa trẻ.
- Ý hắn muốn lập Hồng Hưu? - Tôn Thất Thuyết cười gằn - Đâu dễ vậy. Vậy ông có đưa di chiếu của Kiến Phúc Hoàng đế cho hắn xem?
- Tất nhiên rồi! Nhưng hắn vẫn trơ ra, nói rằng Kiến Phúc đang ở tuổi vị thành niên, không có quyền ký những văn kiện quan trọng!
- Mẹ kiếp! Hắn tưởng đây cũng theo kiểu hành chính ở bên Tây hả? Di chiếu của Hoàng đế có thể xem như tờ giấy chuyển nhượng miếng đất cái nhà hay sao?
Nguyễn Văn Tường thấy Thuyết càng lúc càng kéo căng sợi dây, ông liền lái câu chuyện trở lại mấu chốt của nó:
- Vấn đề là làm sao vẫn lập được Ưng Lịch, mà súng Tây không nổ vào kinh thành.
- Thì chỉ còn cách làm sao để Rheinart chẳng còn lựa chọn nào khác! - Thuyết nói.
Hai vị phụ chính nhìn nhau, trao đổi những điều không tiện thành lời. Một giây sau, cả hai gật đầu. Trong ánh mắt, họ biết ý nghĩ của mình đã gặp nhau.
Trong khoảng mười hôm sau, Tường và Thuyết mấy lần mời họp Hội đồng Phụ chính ba người, nhưng Gia Hưng vương Hồng Hưu không đến dự.
Nguyễn Văn Tường cười nhạt:
- Hắn lại cáo bệnh không đến!
- Bệnh gì mà bệnh lâu vậy? Để coi hắn bệnh được bao lâu cho biết.
Trong phủ Gia Hưng, chưa bao giờ số võ sĩ được tăng cường nhiều như vậy. Từ cổng vào đến nội đường, gần trăm người trang bị cung tên khí giới, ngày đêm canh gác.
Vương phủ treo bảng kiếu khách, không ai được vào, cho dù địa vị sang quý đến đâu.
Vậy nhưng chặt chẽ bao nhiêu cũng vẫn có ngoại lệ: một dân thường lại được Hồng Hưu cho gọi vào ngay khi vừa đến. Một người đàn bà ngoài sáu mươi, nhỏ thó, rầu rĩ.
Người đó là vú Nhự.
∞∞∞∞∞
- Mụ nói sao, có thật không? - Hồng Hưu quắc mắt.
- Bẩm Đức ông, con không dám nói sai. Vì việc quá gay, lẽ ra phải trình lên Thái hoàng thái hậu. Nhưng Đức bà nay đã tuổi cao, sức yếu, sợ không chịu đựng nổi. Bởi vậy con chỉ dám trình lên Đức ông.
- Khốn nạn! Sao nó ngu vậy! Lúc này đang khó trăm bề, lại để sinh cái chuyện trời đày!
Vú Nhự gục đầu, hai vai rũ xuống:
- Thực tình con không biết tính sao, nên đành phải kêu với Đức ông. Xin Đức ông có cách gì cứu bà chúa.
- Con ranh ngu ngốc, làm nhục cả hoàng tộc, xưa nay chưa từng công chúa nào lại như vậy! Con gái dân gian không chồng mà chửa đã đủ để người ta úp mo cau vào mặt, gọt đầu bôi vôi dẫn đi riễu khắp làng. Nay hắn là bà chúa mà không biết quý tấm thân, Tôn Nhân phủ biết xử sao cho phải đây!
Đã mấy tháng nay, Gia Phúc nôn ọe, bỏ cơm, nằm ngồi đi đứng đều thấy vô cùng khó chịu. Nàng vật vã với cái thai đang hành trong bụng, trong khi vú Nhự tìm đủ cách thoát nguy.
Vú bắt Gia Phúc thác bệnh đóng cửa ở kín trong phòng, không cho gia nhân nào biết. Vú quất roi vào bụng nàng, bắt nàng ăn mướp hương, ăn mực sống, uống cả tô nước muối đậm đặc. Gia Phúc lê lết, nôn ọe, cơ thể bầm dập.
Cuối cùng, vú phải tìm cách nguy hiểm nhất, tìm mua trà lục thần sắc cho nàng uống.
“Uống đi con, uống cái này, nhất định cái thai phải tuốt ra.” Bưng chén thuốc kề miệng công chúa, vú vừa khóc vừa dỗ dành.
Gia Phúc run rẩy. Vừa lúc đó, cái thai chợt đạp mạnh. Nàng thấy đứa trẻ đang nằm trong đó, thấy nó đang mỉm cười, đang nhoài ra giang hai tay ôm lấy nàng.
Vừa ráng hớp được một ngụm, bất giác thuốc phì ra, nàng sặc nghẹn:
- Tội… Tội quá, trời ơi!
Vú Nhự chốc lát cạn hết can đảm, gục đầu nín lặng.
Chén thuốc đổ nghiêng trên chăn nệm. Vú ôm mặt, lao ra ngoài, lật đật chạy đến phủ Gia Hưng cầu cứu.
Đến chiều, vú quay về trên chiếc xe song mã của vương phủ.
- Công chúa, mau mau lên xe, để vú dọn chút ít tư trang đem theo.
- Đi đâu?
Vú Nhự kề tai:
- Phủ ta thảy là đàn bà con gái, gặp việc đều ngu ngơ chẳng biết làm sao. May nhờ có Đức ông cứu giúp! Đức ông nói có trang trại ở làng Nam Phổ, ở đó đã có tên người hầu thân tín. Giờ công chúa phải về đó ở, tên hầu sẽ lo cho công chúa, giữ kín bí mật. Sinh nở xong, sẽ về lại phủ, mọi việc tính sau. Vậy là ổn lắm rồi!
Gia Phúc nghe nói, trong lòng như chết đi sống lại, mừng rỡ theo vú Nhự khăn gói lên xe. Trời chập choạng tối, xe khởi hành băng băng chạy ngược về phía sông Bạch Yến.
Chợt hai con ngựa kéo dừng lại, hí vang. Tên xà ích xuống xe, đến trước cửa thưa:
- Có rào tre ai mới đặt chắn đường, ngựa không qua được! Xin bà chúa chờ cho một chút, để con dẹp rào chắn.
Bỗng chốc từ trong kéo ra một tốp gia nhân cầm gậy gộc, cùng nhau quát:
- Tên kia, thời buổi nhiễu nhương, ban đêm phủ ta phải đặt rào canh phòng. Sao ngươi dám tự tiện phá? Có ý thông đồng với quân trộm cướp hay sao?
- Ta là gia nhân ở phủ Gia Hưng vương, có việc gấp nên phải đi qua đây!
- Đừng có láo. Ngươi tự xưng đầy tớ vương phủ, mà có bằng chứng gì không?
- Trên đầu xe có huy hiệu vương phủ, không thấy sao?
Đang còn vặc nhau thì Trấn Tĩnh đình hầu Miên Dần nghe bẩm báo, thân hành bước ra. Ông tò mò tự tay giở rèm. Gia Phúc đang nằm oặt oẹo bên trong, gắng gượng ngồi dậy. Thấy vậy Miên Dần buông rèm xuống:
- Chúng bay, mau giở rào cho xe đi.
Quay vào phủ, Miên Dần suy nghĩ, băn khoăn mãi. Cái xe là của Gia Hưng phủ, mà người nằm bên trong lại là bà chúa Đồng Xuân. “Mà con Mệ Út ấy đi đâu? Thấy bộ dạng hắn rất kỳ lạ, coi bộ như là… coi bộ như là con đàn bà cấn thai mấy tháng? Chuyện này cũng quái thật!”
Miên Dần quay ra, gọi tên người hầu lúc nãy. “Mi bí mật bám theo cái xe, coi đêm hôm hắn đi đâu cho biết!”
Trở vào bên dĩa thuốc lào, Miên Dần kéo một hơi, lim dim rung đùi: “Dạ hành phi đạo tắc dâm. Đi đêm, nếu chẳng phải đi ăn trộm, thì ắt là việc dâm loạn. Ta đã nghi từ lâu, quả không sai!”
∞∞∞∞∞
Trong cung Gia Thọ, Từ Dụ Thái hoàng thái hậu đang bệnh chưa khỏi. Được tin dữ, bà rụng rời tay chân.
- Hà Hoa, ta có nghe lầm không?
Hà Hoa, người thị nữ từ những năm xưa, nay đã ngoài năm mươi tuổi, run lẩy bẩy:
- Dạ tâu, đúng vậy không sai. Phủ Gia Hưng đã bị vây từ lúc giờ Tỵ. Nghe nói gia binh chống chọi rất gắt, dằng dai từ sáng đến giờ chưa chịu mở cổng. Lính Bộ Hình đang dọa, nếu không mở cổng cho họ vào bắt sẽ phóng hỏa đốt hết.
- Việc anh em chúng nó loạn dâm với nhau, thực hư ra sao, nếu quả có thì Tôn Nhân phủ phải xét trước, sao Bộ Hình lại bắt?
- Dạ, vụ việc phát ra chính từ Tôn Nhân phủ! Nghe nói Trấn Tĩnh đình hầu Miên Dần bắt gặp quả tang, nên lập tức tố giác. Quan Quận xét là việc nhơ nhuốc hại đến luân thường nên lệnh cho Bộ Hình trị ngay, chiểu theo lệ từ đời Thánh Tổ: Hoàng tử phạm tội, xử như thứ dân. Công chúa hiện đã bị bắt giam, còn Gia Hưng vương đang huy động gia binh chống cự kịch liệt!
Thái hậu chết điếng, ráng ngồi dậy, gọi Tiệp dư Nguyễn Nhược Thị Bích.
- Việc như vầy từ đầu triều đến nay mới lại thấy! Con mau cho người mời hai vị phụ chính vào cho ta gặp.
Tiệp dư bươn bả đi. Đức Từ Dụ lẩm bẩm:
- Việc dữ thế này, hình tích cũng hao hao giống vụ án loạn dâm gán cho Hoàng tôn Mỹ Đường ngày trước. Hai vụ khác nhau nhưng lại có chỗ rất giống nhau! Bởi vậy phải tìm hiểu cho rõ trước khi quá muộn.
Hà Hoa nhớ lại:
- Dạ, tâu Đức bà, con cũng nhớ việc xưa có người tố giác vương phi Tống Thị Quyên ngủ với con trai là Mỹ Đường. Chỉ dựa vào một lời tố cáo mà trong một đêm bắt giết vương phi, rồi cũng nhân đó mà đuổi hết các con trai ra khỏi hoàng tộc. Phải chi để xét xử cho rõ ràng minh bạch ngay gian, thì đâu đến nỗi.
- Cái khổ nhất là để tiếng oan nhục nhã cho cả một dòng trưởng về sau! Một khi án đã kết, thật khó gỡ vô cùng. Bởi tâm lý con người, dễ tin nghe điều độc dữ, ít ai bình tĩnh soi xét cho chỗ oan tình! Cha ta, rồi đến Ngự sử Vũ Xuân Cẩn về sau nhiều lần khẩn tấu, mới khôi phục được tôn tịch cho con cháu ba đời của Hoàng tử Cảnh!
- Dạ, xin Đức bà uống thuốc, con sẽ cho người ra xem chừng, có tin tức gì sẽ báo ngay.
Trong lúc ấy Gia Phúc đã bị nhốt vào nhà Đồ ngoại. Ngục lại thừa lệnh, tức thì hỏi cung:
- Chúa Đồng Xuân, bà có thừa nhận tội dâm bôn hay không?
Gia Phúc tâm trí bấn loạn, cảm thấy như mình đang ở tận đáy vực.
- Ta làm, ta chịu, đã đến nước này chỉ có chết là cùng, đừng hỏi nữa. - Nói rồi nàng cắn chặt môi đến bật máu, nhất định không hé răng.
Lúc ấy, Gia Phúc cứ sợ khai ra sự thật sẽ liên lụy đến Chí, chàng sẽ bị tróc nã, sẽ bị buộc vào giá treo cổ. Nàng có ngờ đâu những người tra án đã cố tình mặc định: Tội phạm chính là anh ruột của nàng.
Trong phủ của Hồng Hưu, gia binh, gia tướng hết sức cầm cự, liên tục bắn tên, ném đá ra ngoài. Lính Bộ Hình không vào được, liền bắt loa chĩa vào trong, kể tội trạng Gia Hưng vương loạn dâm với em gái Gia Phúc.
“Trời ơi, thật vậy sao?” Các gia tướng, gia binh rụng rời nhìn nhau, thảng thốt ghê tởm. Các công tử con của Hồng Hưu cũng khựng lại, hoang mang.
“Đừng tin chúng nó! Đừng tin! Đồ khốn nạn, gắp lửa bỏ tay người!” Nguyên cơ hét to, lăn xả ra, đốc thúc mọi người giữ chặt cổng. Nghe tiếng hét quyết liệt của nguyên cơ, mọi người như tỉnh lại, tiếp tục chiến đấu.
Nhưng cổng đã đổ. Hai cánh lim to dày đã bị dây xích kéo văng.
Giáp sĩ xông vào quật ngã Gia Hưng vương, trói nghiến lại. Các công tử cũng đều bị đóng gông hết.
Nguyên cơ gào thét vật vã kêu oan. Gia Hưng vương cùng các con bị lôi đi. Mắt long lên đỏ ngầu, ông ngoái lại kêu to:
- Đừng khóc vô ích! Phu nhân hãy nhớ lời ta, đừng chạy vạy cầu xin ai cả. Trên đầu còn có Trời, chúng nó hại ta, trước sau rồi Trời sẽ hại nó!
Nguyên cơ chạy theo, đến cổng thì ngã quỵ xuống, ngất lịm.
Chương 59
De Courcy đến Huế
Bên tòa Khâm sứ, Rheinart sắp hết nhiệm kỳ, đang đón người kế nhiệm là Lemairre. Việc bàn giao diễn ra suốt mấy hôm chưa xong.
Vụ việc về ngôi vua Đại Nam tất nhiên đã được đề cập. Rheinart bảo:
- Hồng Hưu là một lựa chọn tốt. Nếu phương án của tôi thành công, thì nước Nam sẽ đi vào chế độ bảo hộ mà không tốn súng đạn và máu.
- Nếu không?
Rheinart cười lạnh lùng:
- Thì vẫn có nền bảo hộ thôi! Nhưng sẽ tốn kém và vất vả, cho cả hai.
Lemairre nhướng đôi mắt xanh lơ:
- Tôi đã xem tờ tường trình của hai ông phụ chính Tường và Thuyết. Tôi nghĩ rằng, rất tiếc, phương án của ngài đã hỏng rồi.
- Ngài Lemairre, ngài tin việc anh em ngủ với nhau là có thật sao? Đúng là một chuyện kinh dị sặc mùi bịa đặt. - Rheinart cười thành tiếng.
- Tất nhiên, tôi không tin những gì không có bằng chứng. Chỉ có điều, một nhà chính trị không được phép để cho mình vướng vào scandale - chuyện tai tiếng. Bất luận có thật hay không, một scandale hủy hoại sự nghiệp một người còn hơn những tội ác có thật. Nhất là một scandale liên quan đến tình dục.
- Thật tiếc. Trong mắt tôi, đó là một ông hoàng thông minh, một người đàn ông xứng đáng. Bên cạnh những dự định chính trị, tôi còn có thiện cảm dành cho một con người, và một tình thương đối với kẻ đang mắc nạn.
- Biết làm sao được? Hắn là người An Nam, số phận của hắn do người Nam phân xử. Đối với chúng ta, hắn chỉ còn là một quân bài bị hỏng. - Lemairre nhún vai.
Rheinart hiểu. Phương án thiết lập nền bảo hộ trong hòa bình đã hoàn toàn phá sản.
- Vậy là phải chọn cách khó khăn hơn, cách ấy là…
Lemairre cười trong một tiếng thở hắt ra:
- Ông biết rồi. Trong tất cả những vụ việc này, cốt lõi nằm ở viên thượng thư Bộ Binh. Chỉ còn một cách để có nền bảo hộ, đó là…
- Loại trừ Tôn Thất Thuyết. - Rheinart nói.
- Bằng tất cả những cách cứng rắn nhất. Tuy vậy, trước hết hãy bày tỏ thiện chí của ta lần nữa. - Lemairre đứng lên, kết thúc cuộc trao đổi.
Mấy hôm sau, tòa sứ đưa công văn sang Viện Cơ mật, đồng ý tấn phong Ưng Lịch lên ngôi Hoàng đế.
Trong cung, Đức Từ Dụ nóng lòng gặp hai vị phụ chính, nhưng cả hai ông Tường Thuyết đều biệt tăm.
Tôn Thất Thuyết một mình viết biểu dâng lên, kể tội đại ác của Hồng Hưu.
Đức Từ Dụ đọc biểu, trong lòng càng lo lắng:
- Việc loạn dâm can hệ đến thanh danh hoàng tộc, ta phải đích thân xem xét cho rõ ngay gian. Đã đành việc đời chuyện gì cũng có thể xảy ra, nhưng xưa nay Hồng Hưu là một hoàng tử có học có hạnh, cả hai tiên đế Thiệu Trị và Tự Đức đều yêu quý. Trong khi đó Miên Dần có tiếng bừa bãi, nông cạn, uy tín lời nói không có nhiều. Chưa vội kết luận đúng sai, nhưng việc này quả thật rất khả nghi! Vậy hãy cho gọi Hồng Hưu, Gia Phúc và Miên Dần vào đối chất trước mặt ta, để ta xét hỏi.
Tiệp dư Nguyễn Nhược Thị Bích đi một lúc rồi trở lại:
- Tâu Đức bà, con đã sai người đi truyền ý bà. Nhưng tin báo về, Hồng Hưu đã bị giải gấp đi đày ra Quảng Trị. Gia Phúc thì đang bị giam trong ngục. Còn Trấn Tĩnh đình hầu Miên Dần…
- Còn Miên Dần thì sao? Ta hãy hỏi Miên Dần trước, đó là người làm chứng quan trọng nhất.
- Tâu Đức bà, Miên Dần… đã chết rồi!
- Chết? Vừa mới đó, sao mà đã chết?
- Dạ, nghe nói thái giám truyền lệnh vừa đến phủ, gia nhân vào mời Đình hầu ra nhận chỉ, thì phát hiện chủ nhân nằm trên giường, đã chết không biết tự lúc nào! Miệng thì rỉ máu, nhưng cả thân lành lặn, không rõ bị ai đả thương, hay là tuổi già tự ngưng tim hết thở!
Đức Từ Dụ ngồi lặng, trong lòng tan nát. Bà cúi đầu, than thầm:
- Từ lúc ta vào cung mười ba tuổi, cho đến nay hơn sáu mươi năm, chưa bao giờ thấy mạng người rẻ còn hơn giun dế như lúc này!
Trong lúc đó Gia Hưng nguyên cơ đang khăn gói trên đường ra Quảng Trị tìm chồng con. Ngày đi, đêm dừng nhưng cũng không dám nghỉ, vì thời buổi nhiễu nhương trộm cướp nhan nhản. Nguyên cơ cùng hai người hầu chỉ dám chợp mắt mỗi ngày một canh giờ vào lúc trời vừa sáng.
Vừa đi vừa hỏi đường, mới đến chỗ Hồng Hưu và hai con bị an trí: một ngôi nhà nhỏ cũ kỹ nằm trên đồi hoang. Đến gần, nguyên cơ vội vàng lính quýnh, bước đi vấp lên vấp xuống, vì đã nghe tiếng con trai nhỏ mới lên chín là Ưng Huy khóc từ trong vọng ra.
“Mẹ đây! Mẹ đây!”
Nguyên cơ lật đật xô cửa bước vào. Đứa trẻ chín tuổi đang nấp trong một góc, thấy mẹ mới dám bò ra, mắt thao láo vì đói khát và sợ hãi.
Giữa nhà, Hồng Hưu nằm ngửa, mắt trợn trừng, xác đã cứng.
Con trai lớn là Ưng Diễn nằm sấp ngay cạnh, tay còn sải về phía cha, cũng đã cứng đờ. Thân thể vẫn nguyên lành, nhưng khóe miệng cả hai đều rỉ máu.
Bên ngoài, lũ quạ bén mùi đang kéo về, kêu váng lên từng chập. Những con háu ăn bay sát vào đầu tường, tiếng quạt cánh nghe sàn sạt trên rìa mái ngói.
∞∞∞∞∞∞
Ở trong triều, đang diễn ra lễ đăng quang vua mới.
Cậu bé Ưng Lịch hôm ấy bị đánh thức sớm, được chăm sóc tỉ mỉ, chải đầu, đội khăn, mặc chiếc áo chẽn đỏ thắm bằng lụa Tô Châu hảo hạng. Những đồ xa xỉ và sang trọng cực điểm ấy cũng không làm gương mặt cậu đỡ u sầu: như một cành lá non bị ngắt khỏi cội cây, cậu vẫn không sao làm quen được với cung đình xa lạ này.
Dù vậy, có sẵn phong thái của một hoàng tôn, nên Ưng Lịch tỏ ra khá ung dung khi được dìu dắt vào buổi đại triều. Hai vị phụ chính Tường, Thuyết đứng túc trực hai bên ngai. Hoài Đức Quận công Miên Lâm, vừa được phong Phụ chính thân thần, khoác long bào và đội mũ triều thiên cho vua mới. Long bào và triều thiên này đã được chế lại cho vừa với kích cỡ của vua Kiến Phúc trước đây. Ưng Lịch tuy nhỏ hơn anh mình mấy tuổi, nhưng to khỏe hơn, nên vẫn vừa vặn.
Vừa xong nghi thức khoác áo mũ, bỗng một hồi kèn Tây trỗi lên trước Ngọ Môn. Ba vị quan Pháp: Đại tá Guerrier đại diện chính phủ Cộng hòa Pháp đi giữa, hai bên là Khâm sứ Rheinart và Thuyền trưởng Wallarmé, dàn hàng ngang qua cửa giữa Ngọ Môn, tiến vào điện Thái Hòa. Mười sáu sĩ quan và sáu mươi lính tùy tùng đi cửa hai bên, kéo vào đóng chật sân điện. Guerrier tay bưng một cái hộp đỏ, bước đến trước bệ rồng. Một quan Bộ Lễ tiến đến, giúp ông lấy bức thư chúc mừng trong đó ra.
Trong khi Đại tá Guerrier đọc chúc từ của chính phủ Pháp công nhận Ưng Lịch, - tức là vua Hàm Nghi - làm vua An Nam, Rheinart kín đáo đảo mắt nhìn. Ông gặp ánh mắt của Tôn Thất Thuyết đang đứng bên tả ngai vàng.
Thuyết đang vừa nghe vừa bặm môi, cố kiềm chế sự căm tức.
Đây là lần đầu tiên lễ đăng quang của vua nước Việt lại phải chấp nhận để người Pháp xen vào. Điều đó làm ông cảm thấy nhục. Ông lầm bầm một mình: nhất định phải thoát ra cái tình trạng chết tiệt này, bằng mọi giá.
Trong lòng Tôn Thất Thuyết càng uất hận, khi nội trong ngày hôm đó, đã thấy cờ Tam Tài của Pháp bay trên địa phận đồn Mang Cá. Từ buổi đại triều ra về, Đại tá Guerrier đã tức thì đến treo cờ Pháp ở đó, vốn trước đây là Trấn Bình đài, đồn lớn nhất bảo vệ kinh thành. Đồn này đã phải triệt thoái để nhường cho quân Pháp vào đóng, theo khoản thứ năm trong hòa ước Giáp Thân. Trong mắt nhìn của một vị tướng cầm quân, lá cờ Pháp bay trên Trấn Bình đài chẳng khác gì một chiếc đinh nhọn xuyên ngay vào giữa yết hầu, làm ông thấy nghẹt thở.
- Ông tưởng chỉ mình ông nghẹt thở sao? Ông tưởng tôi thích như vậy hay sao? Có vào cuộc mới biết, nói thì dễ, làm thì khó! - Nguyễn Văn Tường bảo Thuyết.
Vì hòa ước Giáp Thân là do Nguyễn Văn Tường trực tiếp đàm phán và ký kết, ông đã bị Thuyết nhiều lần cự nự. “Ông có biết vì sao dân gian gọi Trấn Bình đài là đồn Mang Cá không? Ông hãy xem, con cá bị móc mang thì còn cựa quậy được không? Ít nhất cũng phải giữ được một căn cứ cuối cùng đó chớ!”
Tường thở dài:
- Ông hiểu vậy thì chúng nó cũng hiểu vậy. Nếu giữ được, thì ta đã hết sức giữ lấy rồi! Ông hãy hiểu cho, những chuyện như vậy không phải giành được bằng lời nói, mà phải giữ bằng súng đạn! Súng đạn của ta thua, làm sao mà khăng khăng đòi thủ thắng trên bàn thương thuyết?
- Ông nói vậy, thì có khác chi Nguyễn Trọng Hợp đã nói khi ký hòa ước Quý Mùi?
Nguyễn Văn Tường cảm thấy tổn thương nặng nề, nhưng ông không muốn tranh cãi gay gắt. Ông hiểu Tôn Thất Thuyết là người sống và hành động theo một thứ bản năng mạnh mẽ, một thứ ám ảnh cưỡng chế, đến mức gần như cuồng bạo. Biết vậy, Tường luôn cố gắng sử dụng sự mạnh mẽ thiên bẩm của Thuyết, trong khi vẫn hết sức khéo léo để tránh phải đối đầu.
Và, phía bên kia, Rheinart cũng hiểu như vậy. Chỉ có điều, cách ứng xử thì hoàn toàn khác.
Trước khi về Pháp, ông đã không bàn gì với Lemairre, mà trực tiếp điện đàm với Bộ Thuộc địa ở Paris, đề đạt kế hoạch bẻ gãy sức mạnh đầy bản năng của Tôn Thất Thuyết. “Để bẻ gãy sự ngang tàng bất chấp, phải có một con người cũng bất chấp ngang tàng y như vậy.” – Rheinart nhấn mạnh.
Con người ấy đã được Bộ Thuộc địa Pháp chọn: Trung tướng Roussel de Courcy.
∞∞∞∞∞
- Tôi đã ghi rõ trong thư mời: Tôi muốn gặp viên thượng thư Bộ Binh. Tại sao ông ta không đến? - De Courcy gằn giọng hỏi.
Đến Huế với mục đích thị uy, nên trung tướng đem theo một binh đoàn 800 lính lê dương, tức là lính mộ từ các thuộc địa Algérie, Morocco sang. Vừa vào kinh đô, Courcy lập tức cho mời hai vị phụ chính đến tòa sứ.
Thấy không có Tôn Thất Thuyết, Courcy nhất định không chịu. Bất đắc dĩ, Nguyễn Văn Tường phải sai người chạy về nhắn Thuyết sang.
- Huynh trưởng chớ nên đi! Quan Pháp làm dữ, ắt là có dụng tâm. Huynh trưởng qua đó, khác nào con hùm mất vuốt, chắc chắn lành ít, dữ nhiều. - Tôn Thất Liệt, em trai Thuyết can ngăn.
Thuyết cười nhạt:
- Ta há phải trẻ nít sao? Thằng Tây đó sang đây cốt ý bắt ta. Ngu gì chui đầu vào miệng cọp.
Sứ giả quay lại tòa sứ, báo tin rằng quan phụ chính đang bệnh, không thể sang họp được.
De Courcy tức giận, nạt nộ om sòm:
- Bệnh gì? Lại là căn bệnh cảm chính trị, cúm ngoại giao? Mau sang truyền lại, - De Courcy gằn giọng: - có bệnh cũng phải võng sang!
Phái đoàn Nam triều không tiện chế dầu vào lửa, nên chỉ trả lời bằng sự im lặng. Thấy vậy, De Courcy cũng nhận ra mình thô lỗ quá đáng, quay lại gọi thầy thuốc riêng là bác sĩ Mangin:
- Ông hãy đích thân sang dinh quan phụ chính, xem bệnh và chữa cho ông ấy!
Bác sĩ đi rồi, De Courcy bỏ mặc Nguyễn Văn Tường và Phạm Thận Duật ngồi đó, một mình đi đi lại lại, vẻ mặt cau có đáng sợ.
Bác sĩ Mangin quay về, báo rằng Tôn Thất Thuyết không tiếp, chỉ cho người ra nói rằng mình không dùng thuốc Tây.
De Courcy lúc này tức tối đến cực độ, gằm ghè nói với Tường và Duật:
- Được, vậy tôi sẽ gặp Thuyết ở phiên triều yết sắp tới. Các ông hãy nghe đây, tôi sẽ vào hoàng cung bằng cửa giữa Ngọ Môn, các sĩ quan và binh lính của tôi cũng vậy. Khi tôi tiến vào điện, vua của các ông phải xuống ngai, ra đón tôi, vì tôi là hình ảnh của nước mẹ Pháp quốc.
Đòi hỏi của De Courcy làm Nguyễn Văn Tường nghẹn đắng:
- Tôi mong muốn trung tướng hiểu rõ, đối với nước Đại Nam, đức vua là một biểu tượng rất thiêng liêng. Hoàng cung cũng vậy, chẳng khác một ngôi đền thiêng trong tâm tưởng người Việt. Từ trước đến nay chỉ có vua đi vào cửa giữa, hộ vệ đều phải đi hai bên. Như lời hứa của ngài Lemairre, người Pháp sẽ không làm tổn thương những giá trị tinh thần của người Nam chúng tôi… Rất mong trung tướng nhớ cho.
De Courcy nhún vai, cứng rắn:
- Rất tiếc, tôi không cùng quan điểm với ông Lemairre, và - Ha ha, ông ấy biết vậy nên đã từ chức ngay khi tôi vừa đến. - De Courcy qyay ngoắt đi, không thèm nói lời tiễn khách - Thôi được, tôi chờ Tôn Thất Thuyết lành bệnh, sang đây, lúc đó ta sẽ lại tiếp tục đàm phán.
“Đàm phán à? Còn gì nữa mà đàm phán?” Tôn Thất Thuyết đanh mặt khi nghe Tường thuật lại.
Nguyễn Văn Tường cũng đang uất ức. Từ lúc bang giao với người Pháp đến nay, chưa có quan chức nào của Tây lại hống hách phũ phàng như tên trung tướng này. Đồng thời, ông cũng bực mình với Thuyết:
- Ông không hiểu cái khổ tâm của tôi. Ông càng làm căng, được cái tiếng dũng cảm, tôi càng bị dồn vào thế kẹt. Làm đại diện một nước nhỏ, thế nguy, lực yếu, nó khổ tâm lắm ông ạ.
- Ông cứ tin tôi. Cứ choảng cho chúng một trận. Ta mà quyết đánh, các nhà Nho và trai tráng trong cả nước sẽ nổi lên hưởng ứng. Cùng lắm mà thất thế, thì căn cứ Tân Sở đã sẵn sàng, ta rút về đó trường kỳ kháng chiến.
- Ông Thuyết ơi! Tân Sở, Thành Hóa chính là do tay tôi gây dựng, tôi biết rõ lắm. Việc rút lên đó, trước đây tiên đế Tự Đức cũng đã nghĩ đến, không phải ông là người đầu tiên. Nhưng ông nên biết, từ khi người Pháp kiểm soát được đất Lào, thì Thành Hóa không còn là nơi an toàn cho ta nữa!
Thuyết im lặng, nhưng vẫn quyết lòng theo ý mình.
Đêm hôm đó đại gia đình Tôn Thất Thuyết họp nhau trong chính đường. Các em trai, con trai, tất cả đều có mặt, sẵn sàng nghe lệnh.
“Ai đồng tình hay không cũng mặc, chỉ cần toàn gia chúng ta một lòng, đánh Tây tới cùng! Ai ươn hèn nhút nhát, hãy xem gươm này đây!” Tôn Thất Thuyết vung gươm chém bay một góc chiếc đoản kỷ trước mặt.
Huynh đệ, phụ tử cùng dạ ran, thề cùng sống chết diệt giặc.
Lúc ấy là đầu giờ Tuất, đêm tháng năm khí nóng trời quang. Trăng vẫn chưa lên, trời đầy sao sáng rực.
Lúc trăng vừa mọc, bỗng nghe tiếng súng, càng lúc càng dồn dập.
Nguyễn Văn Tường thức dậy trong dinh, hốt hoảng nhìn ra: từ trên thượng thành, súng thần công của Nam triều đang chĩa về hai phía, nhắm vào đồn Mang Cá và tòa Khâm sứ mà rót.
Trong đồn Mang Cá, các sĩ quan Pháp vừa dự xong buổi chiêu đãi của Trung tướng De Courcy. Ai nấy say sưa vui vẻ, bắt đầu lẻ tẻ chia tay về phòng nghỉ.
Chợt lửa bùng lên bốn phía, tên lửa vèo vèo cắm phập vào các doanh trại ngoài rìa đồn. Rồi những viên đạn to như cái nồi đồng lao vụt tới tận tổng hành dinh. Hai đại úy cận vệ của De Courcy trúng đạn ngay trước mặt ông, một người gục chết tại chỗ, một người ngã quỵ, chân phải dập nát.
Cả đồn náo loạn, quan lính hối hả quơ tìm vũ khí, không kịp nghĩ tới trang phục.
Bên kia sông Hương, cánh quân thứ hai do Tôn Thất Liệt chỉ huy cũng đang rót đạn vào tòa Khâm sứ. Thấy bên địch im lìm, quân Nam càng lúc càng bắn hăng. Từ công đường bộ Binh, tiếng trống thúc quân vang lên cấp tập, cấp tập, kích động tinh thần quân sĩ.
Trong cung, vị Hoàng đế bé nhỏ giật mình thức giấc.
Nghe tiếng nổ ầm ầm, vua chẳng hiểu chuyện gì xảy ra. Từ nhỏ không hề ở trong hoàng cung, ngài thấy nơi này toàn những chuyện khó hiểu. Hay đây cũng là một trò kỳ lạ ở cung đình?
Chương 60
Thất thủ kinh đô
Ở công đường Bộ Binh, các tướng chỉ huy thấy phía Tây cứ im lìm, không có động tĩnh gì đáp trả. Thấy tình thế thuận lợi, quân Nam càng ra sức bắn, khí thế vô cùng hăng hái.
Nguyễn Văn Tường xô cửa bước vào. Thuyết quay nhìn, cười ngạo nghễ khi nhận ra dưới ánh đuốc, khuôn mặt Tường tái xanh vì mất ngủ, vì căng thẳng.
- Tôi suýt chết, nhưng không sao! - Nguyễn Văn Tường nói.
Trên đường từ tư dinh đến đây, một quả đạn rơi ngay trước mặt ông.
- Đạn bắn vào đồn Mang Cá, chứ đạn nào lại rơi ở đường Lục Bộ? - Tôn Thất Thuyết bác lại. Ông không biết rằng súng quân Nam không chính xác, nhiều quả không đi đúng đường đạn, một số quả rơi ngay nhà dân trong kinh thành.
Nguyễn Văn Tường thì biết, nhưng không còn thời gian để nói thêm điều gì. Ông vội vã đi ngay vào việc:
- Ông Thuyết, ông ở đây lo việc, còn tôi phải vào cung sắp xếp ngay mới kịp. Ông cho Trương Văn Để theo giúp tôi.
- Được, nhưng ông định sắp xếp gì? Quân ta đang thắng, chỉ một canh giờ nữa tôi sẽ cho tiến quân vào Trấn Bình đài.
Tường không trả lời, thúc ngựa đi ngay.
Vừa lúc đó, phía đồn Mang Cá nãy giờ im ắng, bỗng bắt đầu khai hỏa đáp lại.
Tường rủa thầm: “Đã biết ngay mà, chúng chờ cho ta bắn gần hết đạn mới phản công!”
Âm thanh tiếng đại bác Tây khác hẳn súng thần công của quân Nam. Khoảng cách giữa hai quả đạn Tây ngắn hơn hẳn. Cứ thế, đạn cấp tập rót vào không ngớt.
Tường bỏ ngựa chạy bộ, quay lại bảo tùy tùng:
- Cứ nghe tiếng hú trên cao, tức là đạn đang lao tới, phải hụp đầu xuống núp. Nghe tiếng ầm, là quả đạn vừa nổ, phải vụt lên chạy tiếp ngay.
Cái kinh nghiệm đi dưới lằn đại bác ấy vốn do Philastre bày cho ông từ hơn mười năm trước. Vừa tránh đạn vừa di chuyển, cuối cùng cũng đến được hoàng cung. “Nhanh lên, không còn nhiều thời gian nữa!”
Khắp nơi trong cung, tiếng khóc vang lên như ri, hãi hùng nhốn nháo. Một thái giám trèo lên lầu Ngũ Phụng nhìn xuống, đã thấy công đường Bộ Binh bị trúng đạn, bốc cháy rừng rực. Quân Nam lớp chết, lớp bỏ chạy, đạn Tây ầm òa rớt khắp nơi, khói bụi mù mịt. Nguyễn Văn Tường chạy tìm đội thượng xa, giục đưa xe vào đón vua:
- Xin Hoàng thượng mau lên xe. Gấp lắm rồi!
Cậu bé vua ngẩn người:
- Ta có làm gì đâu mà phải chạy?
Tường chẳng nói chẳng rằng, bồng thốc vua lên bỏ vào xe, hô quân cứ thế đưa đi. Long bào, mũ miện, đồ ngự dụng bỏ lại hết, chỉ kịp gói theo thanh kiếm truyền quốc và cái ấn Hoàng đế chi bửu.
Giao cho Trương Văn Để hộ giá, Nguyễn Văn Tường chạy vội sang cung Gia Thọ.
Khiêm Thái hậu Vũ Thị Duyên từ trên lăng vừa về chầu hôm qua, đang ở trong cung cùng Từ Dụ Thái hoàng thái hậu. Thái giám theo lệnh, ập vào kẻ kéo, người dìu, đưa cả hai bà lên xe.
“Thái phi! Thái phi!” Nghe tiếng gọi, Hoàng thái phi Nguyễn Thị Hương từ bên cung Khôn Thái vịn tay thị nữ chạy ra, tóc chưa kịp vấn khăn. Thấy đã đủ mặt tam cung, Tường hô lính lập tức đẩy xe đi. Phi tần cung nữ hoảng hốt vừa khóc vừa lếch thếch chạy theo, trâm cài lược giắt rơi rớt khắp đường ra cửa Chương Đức.
Lúc này trời mới tảng sáng. Nghe tin vua đã bỏ hoàng thành, bao nhiêu hoàng tử, công chúa, hoàng thân quốc thích, đại thần, phú hộ, cũng lật đật gói ghém của nả kéo đi. Một vệt dài xe, kiệu, võng, cáng… rồng rắn chạy dọc theo bờ sông, nhao nhác di chuyển về phía Bắc.
Sau cùng là đám dân nghèo trong phố: tiền không sẵn, sự cố lại đột ngột, họ chỉ biết nhấp nhổm nhìn nhau, cố gắng tìm chỗ núp đạn. Ai nấy khóc lóc than thầm: súng đạn không có mắt, thôi thì trời kêu ai nấy dạ. Nhưng đến sáng bảnh, súng im, lại có tin từ ngả Cầu Kho: lính Tây đang mở cửa đồn Mang Cá, chuẩn bị ruồng ra kinh thành. Không ai bảo ai, hồn vía đều lên mây, rùng rùng bồng bế dắt díu nhau chạy hết.
Vú Nhự chiều hôm trước ra ngoài mua thức ăn cho Gia Phúc, đến đêm súng nổ dữ quá, không có cách gì trở vào được. Sáng sớm, thấy dân chạy, vú hoảng kinh. “Chết tôi rồi, công chúa bụng mang dạ chửa, có chạy nổi với người ta không?”
Vú bươn bả chạy ngược dòng người, vào cửa Chánh Tây. “Già kia, chạy ngược ra đi, Tây sắp ruồng rồi đó!” Đám người đang chạy la to. Vú mặc kệ, cứ cắm đầu chạy thục mạng.
Phía trong cửa, lớp lớp người đổ ra, cửa thành như cái lòng phễu thắt lại, người ta chen lấn, đạp giẫm lên chân nhau. Vú lại chen ngược dòng, chốc lát kẹt cứng vào giữa những thân người, cứ như một cọng rơm bị cuốn chặt vào trong cái nùi giẻ.
Vú Nhự chới với, bị chèn ngã ngửa ra.
“Ối trời ơi… Con ơi…”
Vú ráng chỗi dậy nhưng không nổi. Lớp lớp bàn chân dẫm lên, dẫm lên, dẫm lên…
Lúc trời sáng hẳn, cờ Tam Tài của Pháp đã kéo cao trên kỳ đài Huế. Kinh thành trống rỗng. Lính lê dương tràn vào, mặc sức cướp phá.
Trên mặt đường hàng trăm xác người. Người trúng đạn của Tây, người trúng đạn của ta, người thì bị đám đông hoảng loạn giẫm đạp mà chết.
Rách bươm, tan nát, nhiều xác chỉ còn là khối thịt nhầy nhụa máu, không nhìn rõ mặt.
∞∞∞∞∞
Suốt đêm trong ngục, Gia Phúc thấp thỏm nhìn ra chấn song. Bên ngoài, súng nổ chát chúa, càng về sáng càng dữ dội. Nỗi lo sợ làm bụng nàng đau quặn.
- Bác quyền ơi, có chuyện chi vậy?
Nàng bám song cửa, cố kêu lên khi những người cai ngục chạy qua. Không ai trả lời nàng. Bọn lính đã chạy hết, bỏ mặc những người đang bị nhốt.
Tiếng kêu khóc, tiếng xiềng khua loảng xoảng, tiếng các ổ khóa va đập từ trong các buồng giam: tù nhân đang giãy giụa một cách tuyệt vọng, cố tìm cách thoát thân.
Gia Phúc không bị xiềng, nàng bặm môi cố hết sức day mạnh hai cánh cửa lim dày. Cửa không hề suy suyển, mà ngược lại, cái thai trong bụng nàng quằn lên như muốn bong ra.
Cảm giác đau nhói dồn dập thúc tới dữ dội, Gia Phúc loạng quạng ngã quỳ xuống nền gạch:
- Á...
Hoảng hốt, nàng đưa tay bụm, một dòng máu chảy tóe ra dọc theo ống chân.
Chới với như người bị rơi xuống nước sâu, Gia Phúc lăn lộn, vật vã, thở hổn hển. Mồ hôi túa ra, nàng oằn người, cắn môi đến tứa máu.
Một tiếng hét dài rụng rời, cơ mặt nàng bị kéo giật đến dị dạng. Cái thai đã tuốt ra qua cửa mình. Nước nhờn, máu tươi ứa ra theo, bê bết. Gia Phúc hổn hển nấc ngược lên, lịm đi…
Một canh giờ sau, lính Tây tràn vào khắp kinh thành. Dinh thự nào cũng bị lục tan hoang. Mấy tay du thủ liều mạng ở lại để tính chuyện hôi của đều bị lính lê dương vớ được, xuyên lưỡi lê lòi ruột.
Nhà tù không có gì để cướp bóc, nên không ai để ý. Nhưng đến gần trưa, một tốp quân viễn chinh đã phát hiện thứ đáng giá ở đây: một dãy nhà giam toàn tù nhân nữ.
Bọn chúng hét lên từng tràng xí xồ, mừng rỡ muốn phát điên.
Mấy hôm nay vào Huế, lính lê dương chịu không tìm được đàn bà, chúng đang bức bối. Nháy mắt, nhà ngục bị phá cửa, những người đàn bà bị lôi ra, bị đè xuống; bọn lính vừa rú lên cười, vừa xé toang đũng quần họ ngay giữa lối đi. Có người bị hiếp trong khi chân vẫn còn bị khóa vào xiềng xích. Tên này chưa xong việc, đã bị tên kia cầm chân kéo ra, giành mồi.
Một tốp lính phá cửa phòng giam Gia Phúc. Chẳng có gì ngoài một người đàn bà nằm giữa máu me tanh tưởi. Dù đang hăng mà chúng cũng phát ghê, phát ra một câu chửi: “Merde salut!” rồi kéo nhau sục lùng sang chỗ khác. Gia Phúc lúc này quá sợ hãi, tuy mở mắt nhưng chẳng còn hiểu gì nữa. Bánh nhau vừa thoát ra, nằm giữa hai chân nàng. Bên cạnh là đứa trẻ nhỏ xíu như con mèo, bụng còn lòng thòng cuống rốn.
Một tên lính lê dương đi sau ghé nhìn, bước vào. Hắn cúi xuống, đưa tay nhấc đứa bé sơ sinh. Cái nhấc mạnh làm đứa trẻ bắt đầu khóc.
Tiếng khóc sơ sinh bỗng làm thức dậy chút từ tâm nơi người lính đã quen với hung tàn. Hắn khẽ vỗ vỗ vào đứa bé trước khi đặt nó trở lại bên mẹ. Ngần ngừ một chút, hắn đặt bình nước cạnh bên, rồi cầm súng bước đi.
Tiếng chân người lính xa dần. Một âm giai lạ văng vẳng vọng lại: Hắn đang vừa đi vừa lầm bầm một bài hát ru châu Phi. Đứa bé tội nghiệp ra đời giữa cảnh tang thương, làm hắn nhớ rất nhiều đến tuổi thơ nơi xứ Morocco xa lắc.
Gia Phúc hoàn hồn, nàng ráng nhấp ngụm nước cho đỡ khô khát. Có chút nước, hai vú nàng bắt đầu xuống sữa.
Cả đời không quen đi bộ, bây giờ nàng run run, bồng con tấp tểnh bước đi.
Đi đâu? Gia Phúc chợt nhớ phủ cũ đã bị tịch thu. Mình cũng không còn là công chúa. Theo lệnh Tôn Nhân phủ, nàng đã bị đổi theo họ mẹ, đổi cả tên gọi.
Bây giờ nàng phải mang tên xấu là Hồ Thị Gia Đốc, và phải làm đầy tớ cho nhà Nguyễn Tri. Nay nàng chỉ còn thuộc về một nơi ấy thôi!
∞∞∞∞
Chỉ một giờ sau khi Tây khai hỏa, Tôn Thất Thuyết đành phải thừa nhận sự thật: kế hoạch một - đánh chiếm Trấn Bình đài và tòa Khâm sứ - đã tan thành mây khói.
Bên cạnh chủ soái, Trần Xuân Soạn đang cảm thấy đau đớn như muốn vỡ lồng ngực:
- Mẹ kiếp! Chúng đã lật ngược tình thế. Vậy là…
Tôn Thất Thuyết đanh giọng, nói to át tiếng súng:
- Nghe đây! Ta lập tức triển khai kế hoạch hai: rút về Tân Sở, tiếp tục chiến đấu!
Hai cánh quân tả hữu sông Hương được lệnh rút lên ngả Kim Long, đón xe vua và tam cung rồi sẽ lên đường ra Bắc.
Đạo Ngự hối hả trẩy đi không ngừng, Tôn Thất Thuyết cho quân Phấn Nghĩa quây kín xe vua và xe tam cung, dặn Trần Xuân Soạn và Trương Văn Để bảo vệ hết sức nghiêm nhặt. Riêng ông tự mình thúc ngựa đi trước dẫn đường. Cả nhà Thuyết, từ cha mẹ, vợ con đến cháu chắt đều khăn gói theo quân đi, không sót một ai.
Quá nửa trưa đến Văn Xá, Thuyết cho người lui tìm, nhưng chẳng thấy Nguyễn Văn Tường đâu cả. Ai nấy nhìn nhau, chẳng biết Tường đã đi đâu?
Không ai biết, sau khi phò vua và tam cung đến Kim Long, Nguyễn Văn Tường đã giục ngựa tách rời đám đông, đi thẳng vào một tòa trang viện gần đó.
Lúc này, ông đang ngồi đối diện với Giám mục Gaspar.
Linh mục Hoàng làm thông ngôn, ngồi giữa hai người. Hết sức chăm chú, ông cố dịch thật chính xác cuộc đối thoại mà ông biết rất quan trọng.
- Vậy là ngài không còn muốn đi một đường với vị thượng thư Bộ Binh? Ngài thực sự tin chắc như vậy chứ? - Giám mục Gaspar hỏi với vẻ dè chừng.
- Vâng, chắc chắn như vậy. Tôi lấy danh dự một nho sĩ ra bảo đảm với ngài.
- Tại sao? Bao năm nay, ông biết đấy, người ta vẫn bảo ông và ông Thuyết tuy hai mà một.
- Không hẳn vậy. Tôn chỉ của ông Thuyết là chống Tây vô điều kiện. Còn tôn chỉ của tôi là sự trị an. Năm 1874, tôi và ông Philastre đã đạt được điều đó, chắc ngài cũng biết.
- Tôi biết. Philastre và ông đã đem lại mười năm hòa bình. Nhưng bây giờ, cùng với ông Thuyết, chính ông lại nổ súng vào người Pháp.
- Thưa ngài Giám mục, chính người Pháp, mà cụ thể là ông De Courcy, đã dồn chúng tôi đến đường cùng. - Thấy Giám mục khẽ nhướng đôi mắt xanh lơ, Tường hiểu ý - Vâng, tất nhiên tôi cũng biết, De Courcy được phái đến là để đáp trả những sự khiêu khích của Tôn Thất Thuyết.
- Ông quả thực rất hiểu chuyện. Có lẽ ông cũng biết những gì ông Thuyết làm trong thời gian gần đây đã khiến chúng tôi hết sức quan ngại. Những sự thù hận mà ông ấy gieo rắc đang làm dấy lên những phong trào đề kháng ở nhiều nơi. Cái mà những phong trào ấy nhắm đến, hỡi ôi, không phải người Pháp, mà là dân Đạo. Ông hiểu tình hình ở Bình Định đó: những sự giết chóc nhân danh yêu nước đã vượt quá sức tưởng tượng của một con người văn minh.
Đáp lời Giám mục, Nguyễn Văn Tường im lặng. Ông cũng có thể thanh minh rằng mình chưa hề tán thành sự quá khích của Thuyết, nhưng lúc này, ông nghĩ nói như thế có vẻ hèn. Vì vậy ông đi tắt ngay đến mục đích chính của mình:
- Theo tôi, đã có những sai lầm lớn, từ cả đôi bên. Tôi đến đây tìm ngài, chính là để tìm cách sửa lại những sai lầm đó.
Giám mục cười chua chát:
- Sự sai lầm đã đi quá xa, và bắt rễ từ sâu lắm rồi. Ước gì nước Đại Nam có thể làm được như Xiêm La? Ở Xiêm La, vua Mongkut được tôn xưng là vua Phật, nhưng không cấm Đạo, không bế quan tỏa cảng. Vua Xiêm cũng không bị khống chế bởi những quý tộc tranh quyền và tầng lớp văn thân nho sĩ. Xin lỗi ông nếu tôi nói thẳng, nho sĩ ở Việt Nam rất yêu nước, trọng danh dự; nhưng họ không thức thời, không biết cái gì đang xảy ra trên thế giới hết. Khi cần bảo vệ những niềm tin hẹp hòi của mình, họ trở nên rất độc đoán và tàn bạo!
- Ở một khía cạnh nào đó, ngài nói rất đúng. - Nguyễn Văn Tường thừa nhận.
Giám mục nói tiếp, như trút cho hết sự tức bực:
- Tại sao vua Mongkut, một tín đồ Phật giáo, rất trọng cốt cách truyền thống dân tộc, lại chịu học với các giáo sĩ người Anh, thậm chí bắt các phi tần phải học tiếng Anh với các ma xơ? Vì hoàng tộc Xiêm thấy rõ, trong tình hình hiện nay, các giáo sĩ và giáo dân ưu tú có điều kiện để tiếp cận được tri thức hiện đại. Họ chọn tri thức, còn các ông chọn đổ máu…
- Ngài nói đúng. Tôi đến đây chính vì vậy. Chúng ta hiện giờ đã rơi xuống tận đáy vực, phải tìm cách đi lên thôi. - Nguyễn Văn Tường cắt ngang - Tôi nghĩ nếu ngài chịu giúp tôi, tôi có thể làm cho máu dừng đổ, sự rối loạn ngừng lại.
- Ông tự tin như vậy?
- Tôi tin ở uy tín của ngài trước các quan chức Pháp. Giữa chúng ta, có một điểm chung. Tôi là người đặt lý tưởng trị an lên hàng đầu. Ngài thì mong muốn hòa bình cho giáo dân. Và chắc ngài hiểu: giáo dân không thể bình an nếu toàn dân không bình an.
Giám mục Gaspar nghe nói vậy, ông im lặng nhìn Tường một lúc rồi mỉm cười:
- Ông lập luận rất giỏi. Được, tôi sẽ đứng ra bảo lãnh cho ông trước các ông De Courcy và Champeaux. Nhưng xin ông nhớ nhé, ông phải làm được điều này: dừng sự rối loạn, sự chém giết ở tất cả mọi miền của An Nam.
- Tôi sẽ làm điều đó. - Nguyễn Văn Tường nói.
Giám mục quay sang gọi người đánh xe, chuẩn bị cùng Nguyễn Văn Tường đến tòa Khâm sứ.
(Xem tiếp số báo tới)