Trần Thùy Mai: Công Chúa Đồng Xuân. Từ chương 11 – 20

03 Tháng Mười Hai 20247:24 SA(Xem: 322)

VĂN HÓA ONLINE - VĂN HỌC NGHỆ THUẬT - THỨ BA 03 DEC 2024


Trần Thùy Mai: Công Chúa Đồng Xuân. Từ chương 11 20

image007

Lời tác giả


Thời kỳ tự chủ của triều Nguyễn mở ra và đóng lại với hai vụ án rúng động:  vụ đầu triều với cái án của Hoàng tôn Mỹ Đường và mẹ ruột là Vương phi họ Tống; vụ thứ hai xảy ra vào buổi kết thúc, chính là vụ án của Công chúa Đồng Xuân.


Cả hai án đều là tội  tình dục, và đều dính líu với những mưu đồ chính trị. Cả hai đều được xét xử rất vội dưới lưỡi kiếm quyền lực, không qua quy trình pháp lý đương thời. Tháng năm qua, hình hài xương cốt đã thành tro bụi, nhưng sự thật ở đâu sẽ mãi mãi là ẩn số.


Đáng lưu ý ở chỗ: Vụ án Đồng Xuân, trong mối liên hệ với ba vị phụ chính đầu triều lúc bấy giờ - Hồng Hưu, Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết - là gút thắt cuối cùng của cuộc tương tranh giữa hai phái chủ chiến và chủ hòa, đã tác động sâu sắc đến chính trường triều Nguyễn trong suốt hai mươi bảy năm, từ 1858 đến 1885. Không phải chỉ tương tranh, phải nói rằng đấy là cả một cuộc tương tàn, phá hủy trầm trọng sức đề kháng của dân tộc trước cuộc tấn công xâm lăng của thực dân Pháp.


Vụ án Đồng Xuân cũng chính là đêm trước của biến cố Thất thủ kinh đô, một trong những chấn thương lớn để lại ám ảnh sâu sắc trong đời sống văn hóa Việt. Hằng năm ở Cố đô Huế, cứ vào ngày hai mươi ba tháng năm âm lịch, dân chúng vẫn còn bày những mâm cỗ cúng dọc hai bên đường, tưởng nhớ những người đã chết trong cái ngày lịch sử ấy. Cùng với hồi niệm quá khứ, ta không thể lảng tránh một câu hỏi: Tại sao trong suốt một phần tư thế kỷ, khi đối mặt với ngoại xâm, sĩ phu và dân chúng Việt không thể đoàn kết, mà lại thù hằn nhau, giết chóc nhau, tự làm suy yếu chính mình? Ai là người làm mất nước: vua Tự Đức, triều đình Nguyễn, hay chính là những điều bất cập tiềm tàng trong dân tộc tính Việt? Những bất cập ấy, đến nay có còn không?


Xin  quay lại với cuộc đời công chúa Đồng Xuân. Trong xã hội phương Đông, không có gì hủy hoại sự nghiệp của một người nhanh chóng hơn một vụ tai tiếng về tình dục. Bởi vậy cũng như với vụ Mỹ Đường (đã được nói tới trong tiểu thuyết Từ Dụ Thái hậu), những tội nhân trong án Đồng Xuân rất có thể chỉ là nạn nhân, là những “con dê tế thần” trong một cơn bão quá tàn khốc của lịch sử.


Họ oan hay không oan? Họ đáng tội phải chịu nhục, chịu chết, hay họ chỉ là những người thất thế oan khiên? Thực sự nếu cho họ một phiên tòa “phúc thẩm” vào đời nay, tất phải thừa nhận đã có những yếu tố cưỡng ép và khuất tất trong việc xét xử. Trong hoàn cảnh ấy, nàng công chúa tội nghiệp cũng rất xứng đáng được hưởng một quy chế chính đáng của nền tư pháp: quyền được suy đoán vô tội.


Cựu Kim Sơn, ngày 8 tháng 3 năm 2022


Trần Thùy Mai


MỤC LỤC TẬP THƯỢNG


Chương 1                  


Tráng sĩ trong vườn lựu……………………………………………………...3


Chương 2


Chiến, Hòa, Thủ?............................................................................................13


Chương 3


Hải đường trước thềm cung ………………………………………………….22                  


Chương 4


Cung nữ Ý Nhi………………………………………………………………. 30


Chương 5


Buổi luyện kiếm ở làng Chuồn ……………………………………………….43


Chương 6


Con mắt sắc sảo của Đoàn Tư Trực……………………………………………50


Chương 7


Lá số của Công chúa Phúc Huy…………………………………………………61


Chương 8


Lệnh cấm Đạo………………………………………………………………… 69


Chương 9


Đại đồn Kỳ Hòa ………………………………………………………………………….………79


Chương 10


Hai cánh tay của chàng dũng sĩ ………………………………………………..91


Chương 11


Quan Khâm sai …………………………………………………………….…101


Chương 12


Đạo Chúa và quân Pháp ………………………………………………….….111


Chương 13


Luận về chữ Dũng …………………………………………………………….122


Chương 14


Sự cố đêm tân hôn ………………………………………………………….…131


Chương 15


Thể Cúc …………………………………………….………………………….141                    


Chương 16


Chín người, mười ý …………………………………………….……….………154


Chương 17


Công chúa làm dâu …………………………………………………… ………166


Chương 18


Hội kín ở kinh thành……………………………………………………….……177


Chương 19


Mưu mẹo của Cúc Tần ……………………………………………...… ………187


Chương 20


Giữa đầm Chuồn …………………………………………………………..........195


Chương 21


Nàng Ngọc Sinh………………………………………………………… ..…… 205


Chương 22


Chữ trung, chữ nghĩa……………………………………….……………..……217


Chương 23


Tiếng trẻ khóc trong bụi tre ……………………………………………………229


Chương 24


Học kiếm thuật để làm gì?....................................................................................241


Chương 25


Người học trò già ven biển………………………………………………………255


Chương 26


Bài thuốc cai sữa…………………………………………………………………262


Chương 27


Con chim én trong đền vàng…………………………………………………….282


Chương 28


Bản điều trần thứ 58…………………………………………………. …………293


Chương 29


Một bước lỡ, hận nghìn năm…………………………………………………….305


Chương 30


Đường ra Bắc …………………………………….…………………. …………285


Công Chúa Đồng Xuân từ Chương 11 - 20


Chương 11


Quan khâm sai


Sáng sớm, vú Nhự báo tin: hôm nay Thái hậu cho vời họa sĩ vào cung Gia Thọ để vẽ chân dung cho Gia Phúc.


- Có chuyện ấy nữa hả? - Gia Phúc ngạc nhiên.


- Vâng đúng như vậy! Thái hậu đến thăm phủ Nguyệt Đình, thấy trên vách có treo bức song ảnh rất đẹp. Lệnh bà khen họa sĩ tài hoa hiếm có, nên gọi vào cung vẽ hình các công chúa.


Nguyệt Đình công chúa là em gái cùng mẹ của Tùng Thiện công, được gả cho Phò mã Phạm Đăng Thuật em trai của Thái hậu. Hai vợ chồng rất thương yêu nhau, họ đã cho vẽ bức song ảnh, ý muốn để lại hình ảnh hạnh phúc cho con cháu mai sau. Thái hậu xem tranh, chợt nghĩ ra cái ý cho các công chúa sắp lấy chồng vẽ chân dung để lưu lại trong hoàng cung.


Gia Phúc nghe có trò lạ thì thích lắm. Nàng vội vàng ra ngồi trước gương cho Cúc Tần trang điểm. Thái hậu đích thân ngồi trông coi. Bà ngắm Gia Phúc, mỉm cười mãn nguyện: hoa hải đường khi còn nụ thì trông cục mịch đơn sơ, nhưng khi hé nở thì thật rực rỡ, tràn đầy sức sống.


Mắt Thái hậu vướng phải nét môi dưới hơi trề ra, bà nhíu mày vì cái vẻ khiêu khích hoang dã ấy. “Cúc Tần, con đến sửa cho môi trên đậm hơn một chút, môi dưới con lấy lụa thấm nhẹ cho màu sắc dịu xuống. Xong, vậy tốt rồi, bây giờ con đeo hoa nữ cho công chúa.”


Cúc Tần bưng cái hộp cẩn xà cừ từ tay Hà Hoa, mở ra: một chiếc ngọc bội bằng thạch anh tím chạm hình hoa mẫu đơn, đính dưới chiếc dây chuyền bạc. Cúc Tần đeo vào cổ Gia Phúc. Thái hậu lại bảo:


- Khóa dây chuyền có ba nấc, con đeo cho công chúa thì chọn nấc trong cùng. Làm sao cho dây ngắn lại, mặt ngọc cao lên, xa hẳn bộ ngực. Người con gái đeo ngọc, cốt để người nhìn ham ngắm ngọc mà không nhìn xoi móc trên cơ thể mình. Vì vậy đừng để mặt ngọc thấp quá, vô tình dứ cái nhìn của kẻ tà dâm!


Cúc Tần vâng dạ, kéo sợi dây ngắn lại. Gia Phúc đắc ý ngắm mình trong gương. “Sáp thơm của ta đâu?” Nàng hạch sách. Á, Cúc Tần vội chạy đi, cô cứ nghĩ rằng vẽ hình không vẽ được hương thơm nên quên bẵng thứ yêu thích của công chúa.


- Tâu Thái hậu, - vú Nhự hiện ra ở cửa - bên điện Càn Thành hình như có chuyện, Trung Lương đang đến tìm Thái hậu.


Thái hậu giật mình, bảo Gia Phúc:


- Con cứ ra nhà thủy tạ, ngồi cho họa sĩ vẽ. Cúc Tần và Hà Hoa, hai ngươi phải ứng trực hầu công chúa cho đến khi ta quay lại!


Mặc dù cố điềm tĩnh, trong lòng Thái hậu nôn nao lo lắng vì chưa bao giờ Trung Lương lại đến tìm bà tận đây.


Nhà vua vừa về đến điện Càn Thành, ngài đang như điên như dại. Tin đại đồn Kỳ Hòa thất thủ đã đến kinh thành. Chẳng những đại đồn, mà toàn bộ lỵ sở tỉnh Gia Định cũng đã tháo chạy, quân Pháp đang được đà lấy luôn Tây Ninh, thông đường sang Cao Mên.  Thống đốc quân vụ Nguyễn Tri Phương, Tuần phủ Gia Định là Đỗ Quang, mỗi người rút theo mỗi hướng đã hội tụ ở Biên Hòa, tất cả cùng dâng sớ về triều xin chịu tội.


- Chịu tội! Chịu tội! Chịu tội rồi sao nữa? Mất đất, mất quân, bỏ ngỏ cả miền Nam, giờ chỉ còn hai chữ chịu tội thôi sao? - Nhà vua đấm xuống bàn thình thình. Máu giận xung lên đầu, lại thêm chấn động quá mạnh, đột ngột hai dòng máu nhỏ phụt ra, ri rỉ từ mũi nhà vua giọt xuống ngực áo.


Thái giám hốt hoảng xúm lại. Nhà vua phất mạnh tay áo, ra hiệu cho tất cả dang ra. Không muốn tả hữu nhìn thấy mình trong trạng thái bị kích động, nhà vua quay phắt người đi từ điện Cần Chánh thẳng về điện Càn Thành ở ngay phía sau. “Trung Lương, ngươi cũng ra ngoài đi.” Một tay bưng mũi, một tay vua ném cái thẻ bài có hình mặt hổ phù. Trung Lương bắt lấy, vội vã chạy ra, treo hổ phù trước cửa - đó là dấu hiệu cấm không ai được bước vào.


Còn lại một mình, nhà vua để nguyên áo bào nằm ngửa trên giường ngự, đầu óc ong ong vang lên những ý tưởng ngổn ngang. Đại đồn Kỳ Hòa là một công trình lớn quá, tiêu tốn nhiều tiền bạc công sức quá, cả triều đình đã đặt vào đó tất cả hy vọng. Vậy mà nó đã bị nghiền nát trong hai ngày.


“Thái hậu đến!” Bên ngoài cửa có tiếng hô.


“Nhậm con!” Thái hậu tiến vào, bà gọi nhà vua bằng tên, như vẫn gọi hồi ngài còn nhỏ.


“Mẹ!” Nhà vua kêu lên, ngài thấy ánh mắt mẹ thăm thẳm lo âu. Lúc nào cũng vậy, hễ thấy ánh mắt ấy, ngài luôn cố gắng vượt qua sự yếu đuối để mẹ được dựa vào mình. Nhà vua gượng ngồi dậy: “Mẹ, nhất thời con bị bốc hỏa, không sao đâu. Bây giờ đã ổn rồi. Xin mẹ về cung nghỉ ngơi, hiện đang nhiều việc con cần phải lo gấp.”


 Nhà vua vừa nói vừa nhìn tránh đi nơi khác, ngài vừa nhớ ra một việc quá khó nhọc nhưng trước sau sẽ phải làm: báo cho mẹ biết cái tin em trai bà là Phạm Đăng Thuật đã hy sinh.


Ngài gọi:


- Trung Lương, ngươi truyền chỉ gọi Binh bộ thượng thư Trần Tiễn Thành vào cung ngay.


- Tâu Hoàng thượng, Thượng thư Trần Tiễn Thành đã chờ sẵn đây rồi! Hiện đang chờ trong điện Cần Chánh.


Thái hậu vẫn chưa biết việc gì, nhưng bà không hỏi, chỉ vội vàng tự tay cởi chiếc áo bào dính máu cho Hoàng đế. “Gấp gì thì gấp, vẫn phải cho tề chỉnh, đúng phong độ quân vương.” Bà cầm lấy chiếc áo sạch từ tay Trung Lương, khoác lên người vua. “Thôi, ổn rồi đó, con đi đi.”


Vua đi rồi, Thái hậu bước ra khỏi điện, bà ngồi xuống một tấm ghế đá trong vườn ngự, hai tay ôm đầu. Một cảm giác nặng nề choáng ngợp trong tim, linh tính mách cho bà biết: khoảng trời bình yên trên đầu đang từng mảng, từng mảng dần dần sụp xuống.


Ở cung Gia Thọ, Công chúa Gia Phúc vẫn ngồi bên khóm hoa thược dược. Trước mặt nàng, họa sĩ cắm cúi vẽ. Chốc chốc nàng lại nhổm dậy, chạy đến ghé mắt nhìn. Họa sĩ đúng là kỳ tài, trong hơn một canh giờ đã phác họa rất sinh động: một thiếu nữ trẻ trung phơi phới, bờ môi dầy căng nũng nịu và ánh mắt hóm hỉnh như đang cười.


Gia Phúc thích thú đưa tay chỉ vào đôi bươm bướm đang tung tăng quanh vành khăn nhung vấn tóc. “Bẩm, công chúa có biết vì sao vẽ thêm đôi bướm này không? Vì tại hạ muốn diễn tả mùi hương…”


Thật là đúng ý mình, nàng nhủ thầm. Họa sĩ nhúng bút vào mực, viết thêm dòng thơ bên cạnh: “Phù dung như diện, liễu như mi.”


Gia Phúc biết là một lời khen tặng dành cho mình, nàng đỏ ửng hai má vì sung sướng. Họa sĩ cắt nghĩa:


- “Mặt như đóa phù dung, mày như lá liễu”. Đấy là tại hạ mượn câu thơ của Bạch Cư Dị tả sắc đẹp Dương Quý Phi để đề tranh cho công chúa!


Gia Phúc cười, thích chí. Tò mò, nàng hỏi:


- Khi vẽ chân dung cho chị Phúc Huy, túc hạ có đề thơ không? Túc hạ chọn câu thơ nào?


- Bẩm, công chúa Phúc Huy cưới sau, chưa đến phiên được vẽ chân dung. Tại hạ vẫn chưa vẽ cho công chúa Phúc Huy!


- Vậy sau này vẽ cho chị ấy, túc hạ không được dùng câu này để ghi vào lần nữa nha! - Gia Phúc căn dặn.


Họa sĩ cúi đầu tuân lệnh, ông cố giấu một nụ cười. Công chúa thì cũng là con gái,  ích kỷ và đành hanh như vậy đấy.


Cất bút mực vào tráp, họa sĩ lui ra khỏi hoàng cung. Những cảnh, những người ở chốn cung đình còn lưu lại trong ông một dư âm thú vị và choáng ngợp. Ông biết, được bước vào đây là một vinh dự rất đặc biệt.


Lên võng, họa sĩ trở về nhà, lòng vui phơi phới. Ông đâu biết một tin dữ đang chờ ngay ở cổng: đứa con trai đầu lòng, thủ hạ tâm phúc của Phò mã Thuật, đã chết tại Kỳ Hòa. Chỉ một lát nữa thôi, ông sẽ lăn khóc trong đau đớn, cũng như hàng vạn gia đình từ kinh đô vào đến miền Nam, đang khóc rền trời trong một cái tang quá lớn của cả nước.


∞∞∞∞∞


Thượng thư bộ Binh Trần Tiễn Thành hối hả xin yết kiến Hoàng đế vì hai việc khẩn cấp. Trước hết là đối phó với chiến trường miền Nam, hai là xử trí với Nguyễn Tri Phương và các quan vừa thất trận.


- Tâu Hoàng thượng, trước mắt cần cho ngay ít nhất 4000 quân lính vào Biên Hòa, đề phòng Phú Lang Sa thừa thắng tiến về phía kinh đô. - Trần Tiễn Thành tâu vua.


- Phải! Ngay hôm nay, khanh điều động quan Tán Lý là Tôn Thất Đính đem 2000 lính vào Nam. Nói rõ với Đính, trẫm cho phép vừa đi qua các tỉnh vừa đôn quân thêm cho đủ số 4000.


- Việc thứ hai, tàu biển của Lang Sa chạy rất nhanh, chúng gây hấn nơi nào chưa thể đoán trước. Nay cửa biển Thuận An là cửa ngõ kinh thành, thần xin dùng xích sắt lớn giăng ngang cửa sông, để tàu địch nếu có manh tâm cũng không vào được.


- Tốt lắm, khanh trù liệu rất chu đáo. Lệnh ngay cho thợ quân khí ở Phường Đúc dùng thép cực tốt để làm xích chắn.


Ba hôm sau Viện Cơ mật họp bàn việc xử trí với các tướng thua trận. Theo luật “Bất cố thủ” từ xưa, võ tướng ra trận chỉ có thắng hoặc chết, không có quay đầu. Nay các quan tướng bỏ thành rút lui tất phải chịu tội nặng. Nguyễn Tri Phương, Tôn Thất Cáp và Phạm Thế Hiển chiểu theo khung hình phạt đều can tội Trảm giam hậu - bắt giam chờ chém.


Bản án đưa lên. Hoàng đế Tự Đức lúc này đã bình tĩnh lại:


- Những bề tôi này đều đã hết lòng chịu khó nhọc vì nước. Trẫm không phải không biết, nhưng theo lệ vẫn phải xử phạt, để răn các quan về sau không được sơ suất làm hỏng việc lớn.


Nói rồi vua lệnh cho quan Chưởng ấn là Phạm Hữu Thước đem cờ biển vào Nam bắt hết các tướng thất trận cùng các quan tỉnh bỏ lỵ sở, bắt luôn cả Nguyễn Tri Phương.


Cùng lúc, vua mật sai một đội thái y chạy ngựa cấp tốc vào Bình Thuận đem sâm quế ban cho tướng Phương dưỡng thương. Lúc các thái y đến, vết thương của Nguyễn Tri Phương đã làm mủ sưng tấy, ông đang nằm mê man trong nhà công quán. Lệnh vua sai hết sức chữa cho ông, sau khi lành mới giải về Kinh.


Tán Lý là Tôn Thất Đính đã kéo 2000 quân vào Biên Hòa rồi, vua vẫn chưa yên lòng. Vì Đính chỉ là võ quan, tuy hăng hái nhưng lỗ mãng, không thể giải quyết những việc liên quan đến sách lược. Cho triệu Thượng thư bộ Hộ là Nguyễn Bá Nghi, nhà vua dặn dò thật kỹ phương lược đối phó. Nhận cờ tiết làm Khâm sai đại thần, Bá Nghi lên đường đến Biên Hòa, thay mặt vua giải quyết tình hình nguy cấp ngoài biên ải.


Khâm sai Nguyễn Bá Nghi cùng đoàn tùy tùng đi ngựa trạm của triều đình hơn một ngày đêm mới tạm dừng. Tối hôm ấy, Bá Nghi nghỉ chân ở phủ đường Quảng Ngãi.


∞∞∞


Tổng đốc tỉnh Quảng Ngãi vốn là bạn học thuở nhỏ của Nguyễn Bá Nghi. Hôm nay gặp lại, tuy thời gian ngắn ngủi nhưng hai người bạn xưa cũng nhân dịp bữa ăn để trò chuyện tâm tình. Bá Nghi thổ lộ:


- Lệnh vua đã trao, kẻ làm tôi không thể thoái thác. Nói thật tình với huynh, đệ cũng chưa biết phải giải quyết thế nào! Đại đồn vững chãi vậy, ba mươi ngàn quân trấn thủ mà chống đỡ không quá hai ngày. Nay thành Biên Hòa cũ rích cũ rang, quân số tăng cường chưa chắc đủ 4000, mà ý Ngài Ngự còn muốn thừa cơ đánh úp lấy lại Gia Định, Định Tường, quả thật là thiên nan vạn nan.


Quan Tổng đốc ngẫm nghĩ:


- Đệ cũng nghe nói súng Tây bắn xa mấy mươi trượng, mỗi phát nổ toang giết chết hàng chục người. Tàu Tây nó chạy như bay, mạn tàu cao to, ta không hải chiến với chúng được! Đại phàm đánh nhau, từ cái chuyện đấm đá tay đôi giữa hai kẻ lực sĩ, cho đến chuyện chinh chiến giữa hai quốc gia, tưởng là khác nhưng cũng như nhau mà thôi: liệu sức khỏe hơn thì đánh, liệu sức yếu hơn thì tránh, quan trọng là cái chỗ biết lượng sức ấy thôi.


- Khổ một nỗi muốn tránh cũng không tránh được! Trên đầu còn có phép nước, trước mặt còn có danh dự kẻ sĩ. Đấy, Nguyễn Tri Phương xông pha tên đạn đến thế, còn chưa biết có thoát tội trảm không. Thành công thì không nói làm gì, thất bại thì sĩ phu nhao nhao lên chửi, rồi lại làm thơ phú chê bai cho mà mang nhục!


Tổng đốc chẳng biết nói gì hơn, đành ngậm ngùi rót thêm rượu vào chén bạn, rồi kiếm chuyện nói cho khuây:


- Dân mình cũng thật lắm chuyện! Hồi này thiên hạ đến anh phu tải cũng bàn chuyện đánh Tây, cả dân đạo mà cũng nói đánh Tây. Lâu nay đệ cứ nghĩ chúng nó là loại vô quân vô phụ, chỉ biết thờ chúa trời không biết thờ vua. Ai dè vừa rồi bắt được một cố đạo, khám trong người y thấy một bức kế sách đang muốn dâng lên Hoàng thượng!


- Thật hả? Kế sách ra sao?


- Đệ có đọc qua, thấy y cũng có những ý hay! Nhưng dù sao y là tả đạo, mình khó mà tin được. Vì vậy đệ vẫn giữ y trong ngục, đang dụ y bỏ đạo về quy thuận triều đình, rồi khi ấy muốn hiến kế gì thì hiến.


Bá Nghi ngẫm nghĩ một lúc, rồi bảo:


- Các cố đạo thường được ra nước ngoài học, đọc được nhiều sách báo, nên có những cái họ biết mà mình không biết. Vậy phiền túc hạ hãy cho giải cố đạo ấy lên đây cho ta gặp.


Tổng đốc nghe Bá Nghi vô tình thay đổi cách xưng hô, hiểu rằng đây là lệnh của quan Khâm sai. Ông vội cho lính áp giải linh mục Đặng Đức Tuấn vào phủ đường.


Đặng Đức Tuấn đã bị giam hơn một năm nay, người ông lúc này gầy nhom và xanh lướt, duy có đôi mắt là vẫn to và sáng dưới cái trán vồ cao lên, nhìn thấy cả phần trước xương sọ.


Quan Khâm sai nhìn người tù từ đầu đến chân:


- Ta xem nhà ngươi tướng mạo thông sáng, sao lại đi theo con đường mê lầm, đến nỗi thân tàn lực kiệt như vầy?


Linh mục trả lời, giọng tuy yếu nhưng tiếng nói rất rành rọt:


- Đạo Gia Tô truyền vào nước ta đã từ hơn ba trăm năm nay, các đời chúa xưa đã cho phép. Thời chúa Võ Vương, giáo sĩ Gia Tô còn được mời đến chữa bệnh cho hoàng gia, đến hoàng phi, công chúa cũng có nhiều người theo Đạo. Vậy thì đủ biết đạo này không phải xấu xa, nếu xấu thì cha ông ngày trước đã không để cho truyền bá trong dân chúng!


Nguyễn Bá Nghi hỏi vặn:


- Ngày xưa các chúa quả là có khoan dung tôn giáo. Nhưng từ đời Minh Mạng, Thánh tổ đã xuống dụ cấm đạo, vì nhiều cố đạo làm tay trong cho giặc. Từ ấy đến nay Gia Tô là đạo cấm, ngươi làm dân phải biết luật pháp của triều đình. Nếu đã theo cũng phải bỏ, không bỏ là phạm pháp, ngươi có biết không?


Linh mục vẫn điềm đạm:


- Hơn ba trăm năm truyền bá, tôn giáo đã thành đạo của ông bà cha mẹ, truyền từ đời này qua đời khác, đã vào trong máu, đã ngự trong tim. Điều ấy rất thiêng liêng! Kẻ hèn nhát sẵn sàng vứt bỏ đạo của mẹ cha, sẵn sàng chà đạp niềm tin thì há có thể là tôi trung, con hiếu, vì nhà, vì nước được không? Đứa nào theo đạo mà phản quốc, theo giặc, thì triều đình cứ giết nó đi. Nhưng không nên cấm đạo, vì bức bách dân đạo tức là bức dân lành phải chạy theo giặc!


Nguyễn Bá Nghi thấy thần thái người tù thung dung, đĩnh đạc, trong lòng nảy sinh cảm giác quý mến. Bước xuống khỏi ghế cao, ông gọi lính mở gông khóa cho linh mục, dắt tay ngồi xuống sập đàm đạo.


Thật không ngờ. Nghe hỏi đến điều trần, linh mục Tuấn đưa bàn tay xương xẩu vào ngực áo, lôi tập giấy đã nhàu nát ra, đọc từng khoản cho Bá Nghi nghe.


Hôm sau, Bá Nghi lên đường vào Nam. Trước khi đi, ông căn dặn tổng đốc phải cho lính khiêng cáng đưa Đặng Đức Tuấn về kinh đô. Ông lại cẩn thận viết một bức thư, giới thiệu linh mục với đại thần Phan Thanh Giản.


  Thấy quan Khâm sai đối với linh mục trọng vọng như vậy, tổng đốc cũng hết sức ưu ái chăm sóc. Trước khi lên đường đi Huế, Đặng Đức Tuấn được tắm rửa, cạo râu ria, thay đổi y phục tươm tất. Lần đầu tiên sau hơn một năm trời, ông được nếm hương vị thơm ngon của một tô mì Quảng, thứ món ăn mà trước đây bõ già thường nấu. Linh mục bùi ngùi, không biết giờ đây bõ già và Chí ra sao?


Chương 12


Đạo Chúa và quân Pháp


Trong phòng riêng tại nhà thờ Chợ Quán, Giám mục Gautier - mà những giáo dân người Việt thường gọi là Đức cha Ngô Gia Hậu - ngồi trước bàn giấy, trầm ngâm với xấp tài liệu mở ra trước mặt.


Cửa phòng mở. Nguyễn Trường Tộ bước vào.


- Trình Đức cha, con đã đến.


- Vâng, con ngồi đây. - Giám mục ngước lên, vẻ đau buồn hiện rõ trên nét mặt. -  Ta có hai điều muốn báo cho con hay.


- Vâng, thưa Đức cha.


- Pháp súy đang thiết lập bộ máy làm việc. Họ gặp rất nhiều khó khăn. Họ không biết tiếng Việt, không thể hiểu những vấn đề của dân chúng. Những người bu đến với họ, đa số là những kẻ lưu manh vô học. Pháp súy đang cần những người Việt có học thức và đạo đức.


- Thưa Đức cha, vậy là người Pháp đã quyết định ở lại lâu dài? Họ không rút lui, như ở Đà Nẵng?


Giám mục Gautier nhún vai:


- Con biết đó, Pháp hoàng và Bộ Hải quân đã quyết ý chiếm nơi này làm thuộc địa. Rất khó mà thay đổi được điều đó. - Đôi mắt xanh lơ của giám mục nhìn thẳng vào Tộ: - Trước đây ta đã giới thiệu cho họ các ông Pétrus Ký và Paulus Của. Nay ta cũng muốn tiến cử con, vì con là người ta tin tưởng nhất.


Nguyễn Trường Tộ cắn môi:


- Trình Đức cha, quả thật việc này rất khó cho con.


- Con hãy nói rõ, bằng lòng hay không.


- Thưa Đức cha… Không!


Giám mục Gautier hơi chùng nét mặt. Nhưng ông không bất ngờ:


- Không sao cả. Con có tự do lựa chọn. Con biết, khi cùng con trở lại đây, ta đã chọn ở nhà thờ Chợ Quán, chứ không ở nhà thờ Sài Gòn, một phần là vì nghĩ tới tâm trạng của con đó.


- Con tạ ơn Đức cha đã hiểu lòng con.


Nhà thờ Chợ Quán được dựng lên từ năm Canh Tý, đã gần một trăm rưỡi năm nay. Nhà thờ Sài Gòn thì mới xuất hiện vài năm gần đây, cùng với quân đội viễn chinh. Trú tại nhà thờ Chợ Quán, ý của Giám mục Gautier muốn nói với người Việt: Đạo Chúa không có nghĩa là quân Pháp.


- Thưa Đức cha, còn việc thứ hai.


- Việc thứ hai rất đau xót. Máu đồng đạo của chúng ta chưa bao giờ đổ ra nhiều như lúc này. Với khẩn hiệu “Trả thù cho Kỳ Hòa”, các quan đang ra sức ruồng bắt, tàn sát dân đạo. Đức Giám mục Cuénot Thể đã chết trong tù ở Bình Định, Giám mục Ochoa Vinh và Linh mục Almato Bình bị chém đầu ở Hải Dương. Hàng ngàn người bị kết án tử, trong đó nhiều người bị thiêu sống…


“Giêsuma lạy Chúa tôi.” Nguyễn Trường Tộ nhắm mắt, cúi đầu làm dấu thánh. Chàng nghĩ thầm: Đúng là giận cá chém thớt. Thật điên rồ, một sự điên rồ mang tầm vóc lịch sử. Máu dân Đạo có bù được máu quân sĩ đổ ra ở Kỳ Hòa không? Hay chỉ làm cho món nợ càng nặng?


Quay về phòng trong tâm trạng buồn, nên Tộ nhìn cái mặt vui hơn hớn của Nguyễn Chí mà phát cáu:


- Này, có gì mà hí hửng, lượm được vàng hay tán được gái?


- Còn hơn vậy nhiều lắm huynh ơi! Chí vừa được tin cha Tuấn. Người đã khỏi tù, lại còn được dâng biểu lên Hoàng thượng!


- Hả? - Đang ủ rũ, Tộ tỉnh hẳn người - Tin tức từ đâu?


- Khâm sai Nguyễn Bá Nghi vừa cho người đưa thư tới! Trong thư, cha Tuấn có dặn chúng ta phải giúp ông Bá Nghi lo việc hội đàm với Phú Lang Sa.


Đặng Đức Tuấn trước đây được Giám mục Cuénot Thể đưa sang chủng viện Penang dạy Hán văn, gặp lúc Tộ đang học ở đó. Vì vậy, cha Tuấn đối với Tộ vừa là thầy, vừa là đồng đạo. “Đệ nghĩ sao?” Nguyễn Trường Tộ hỏi.


- Còn nghĩ gì nữa! Hồi trước, Chí nằm lì ở kinh thành, đánh liều đón cả kiệu Thái hậu mà cũng chẳng nên cơm cháo gì. Nay mình không đến tìm quan, quan lại đến tìm mình, còn gì hơn!


Nguyễn Trường Tộ suy nghĩ. Giám mục Gautier rất yêu quý mình. Đức cha vừa là người đỡ đầu, vừa là nguồn thông tin: không có ông, mình sẽ như người ngồi trong hũ, làm sao biết chuyện gì đang xảy ra. Mình vừa từ chối sự tiến cử của người, nay lại công khai làm việc cho triều đình, lực lượng đang bách hại tín đồ. Dù sao cũng bất tiện lắm.


- Ta tính thế này, nhất cử lưỡng tiện…


- Huynh tính sao?


- Hai ta chia nhau mỗi người mỗi việc. Chí lên Biên Hòa giúp quân triều đình. Ta quay lại gặp Giám mục Gautier, nói rằng đã đổi ý, nhận lời làm từ dịch cho Pháp súy. Hai anh em ta hỗ trợ tin tức cho nhau, mới hy vọng việc thành. Trước hết, ta sẽ viết một thư dài gửi cho ông Bá Nghi.


- Được, để đệ lên Biên Hòa xem cơ sự ra sao rồi sẽ quyết.


Ròng rã gần một năm, Chí và Tộ ra sức giúp Bá Nghi trong việc nghị hòa. Bá Nghi đọc thư của Trường Tộ, ông cũng cùng ý kiến với hai chàng trai: cố hết sức tránh va chạm quân sự để bảo toàn lực lượng. “Ta cũng nghĩ như các túc hạ, nhất định không để xảy ra một trận Kỳ Hòa thứ hai. Việc nước ta nay chỉ có con đường hòa nghị và canh tân, không còn con đường nào khác.”


Nhưng đối sách của Bá Nghi không được triều đình ủng hộ. Tuy là Toàn quyền đại thần, Bá Nghi vẫn chịu một áp lực ngay bên cạnh: Tôn Thất Đính. Ở kinh đô, Hoàng đế Tự Đức vẫn nôn nóng chờ tin một trận đánh Tây thật lớn, Ngài sốt ruột than phiền: “Bá Nghi không có khí độ làm tướng.” Tháng 8, Tây đi lùng ở Trảng Bàng, bắt được ba nghĩa sĩ, trong người có mang dụ sắc của Hoàng đế Tự Đức kêu gọi quân khởi nghĩa miền Nam nổi dậy. Cuộc nghị hòa đi vào ngõ cụt.


Ngày 16 tháng 12 năm 1861, hạm đội của Tây chạy thẳng vào sông Đồng Nai, đến ngay trước cổng thành Biên Hòa bắn phá. Dù chủ trương tấn công, nhưng đến phút này, Tôn Thất Đính cũng bó tay, lập tức dẫn quân rút lui vào rừng Long Kiến. Biên Hòa mất, Bà Rịa mất. Qua đầu năm sau, Đô đốc Bonard tung quân đánh chiếm luôn tỉnh Vĩnh Long.


Nguyễn Trường Tộ không còn hy vọng, lập tức xin thôi việc ở Pháp súy. Nguyễn Chí quay về xóm cũ Tân Tạo, mở lò luyện võ chờ thời.


 Dự tính chiếm lại Sài Gòn đã hoàn toàn tan vỡ. Chẳng những không lấy lại được đất, còn mất quân, mất tướng, mất thêm một nửa miền Nam. Triều đình Huế bối rối, cả kinh đô nhuộm một màu ảm đạm.


Trong cung, Gia Phúc được tin đám cưới sẽ hoãn lại, phò mã còn phải chịu tang chú ruột. Đến đầu tháng, nàng thấy quần áo, đồ dùng do vú Nhự sắm sửa đưa vào có vẻ ít hẳn đi so với trước đây. Bực nhất là cái khoản mỗi tháng nàng được ba hộp kẹo Tây để ăn vặt, bây giờ chỉ còn một hộp.


“Tổng quản thái giám kê sẵn đơn mua sắm, vú phải nghe theo.” Vú Nhự phân trần.


Gia Phúc ấm ức. Nàng cũng thích kẹo, nhưng cái chính là nàng thích những cái hộp. Hộp kẹo bằng sắt tây, vẽ hình những em bé bụ bẫm có đôi cánh nhỏ, hay những cô gái xinh đẹp tóc vàng, mắt xanh rất lạ mắt. “Sao lại bắt ức ta vậy. Để ta đi hỏi mẫu hậu cho ra lẽ!” Gia Phúc vùng vằng.


Thấy vậy Cúc Tần chạy lại, thì thầm:


- Thái hậu vừa truyền phải bớt chi tiêu lại! Từ quý này, hoàng thân công chúa ở tất cả các phủ đệ đều bị giảm lương cả rồi. Công chúa coi chừng, không khéo bị ngài quở cho, rồi lại khóc!


- Tại sao vậy, nhà ngươi có biết không?


- Nghe Hà Hoa nói, Thái hậu và Hoàng đế muốn giảm hết các khoản chi, để dồn tiền cho quân sĩ đánh Phú Lang Sa!


- Phú Lang Sa là đứa nào, mà dám gây sự với Hoàng thượng ta? - Gia Phúc hỏi.


Cúc Tần tìm lời giải thích. “Phú Lang Sa là... là...”. Chợt nghĩ ra một cách nhanh nhất để cắt nghĩa, Cúc Tần chỉ tay vào cái hộp: “Là cái đứa làm ra hộp kẹo này đây!”


Gia Phúc đang ngậm một viên kẹo dẻo thơm, nghe vậy nàng bụm miệng, tròn mắt nhìn Cúc Tần.


Ả thị nữ che miệng cười hì hì:


- Triều đình đánh Tây nhưng vẫn ghiền dùng hàng của Tây. Kẹo ngọt, rượu bồ đào, xà phòng, diêm, đồng hồ, len dạ... Thế mới khổ.


Gia Phúc ngậm viên kẹo, không biết nên nuốt vào hay nên nhả ra. Vú Nhự thấy vậy quay sang Cúc Tần, gắt:


- Thôi, lo làm việc đi, não mi được mấy mà dám bép xép việc trên đầu trên cổ. Muốn mang gông hả? – Vú hạ giọng: Mà sáng nay đã kẹp cơm nắm chưa? Sao ta thấy hơi hơi có chuyện rồi đó nghe.


Thị nữ Cúc Tần vốn có tật hôi nách, sáng nào vú Nhự cũng bắt kẹp vào nách hai nắm cơm nóng để khử mùi. Nghe vú nhắc, Tần giật mình, chống chế:


- Đời nào con quên? Chỉ vì sáng nay nhà bếp đưa phần ăn trễ, cơm hơi nguội nên mới ra nông nỗi.


∞∞∞∞∞


“Tướng sĩ đêm ngày khó nhọc giữ nước, còn chưa dám kêu đòi gì. Các hoàng thân quốc thích nhàn rỗi ngồi hưởng lộc tổ tiên. Nào đã đến nỗi gì đâu mà phải cầm cố cả sách phong, thử hỏi còn cái thể thống gì nữa?”


Hoàng đế Tự Đức thở dốc. Ngài vẫn có cái chứng, hễ tức giận là nghẹt thở. Thiện phi xanh mặt, vội vuốt lưng, vuốt ngực cho vua.


Lệ triều đình, mỗi lần phong tước cho hoàng phi hay hoàng thân, hoàng tử, công chúa… đều có ban cho một cuốn sách ghi tên họ và phẩm tước. Thường có ba loại: Kim sách - sách bằng vàng, chỉ dùng cho Hoàng quý phi và các tước vương; Ngân sách - sách bạc, dùng cho các phi tần hạng nhất và tước công; Đồng sách - sách đồng, dành cho hoàng tử, công chúa khi được công nhận trưởng thành.


Về mặt hình thức, đó là một tác phẩm nghệ thuật được chế tạo tinh xảo từ tay những người thợ kim hoàn danh tiếng của hoàng cung. Về mặt tinh thần, cuốn sách đó là tượng trưng cho danh giá của thành viên hoàng tộc. Bởi vậy, nghe Thiện phi kể Thiệu Hóa quận công vừa rồi kẹt tiền, dám đem cầm cố cả sách vàng quận vương của cha, Hoàng đế Tự Đức quá thất vọng.


- Con vua cháu chúa mà tệ đến thế hay sao? Trẫm đã bất ngờ vì quá nhiều chuyện quốc gia đại sự. Bây giờ còn thêm bất ngờ vì chuyện trong gia tộc nữa?


- Dạ dạ thần thiếp lỡ lời, xin Hoàng thượng tha tội. - Miệng nói là lỡ lời xin tha tội nhưng Thiện phi vẫn nhẹ nhàng dấn tới: - Chẳng qua thiếp nghe Thiệu Hóa phu nhân kêu khổ, vừa qua lại bị cắt bớt lương bổng tiêu pha không đủ, nên động lòng thương muốn xin giùm…


- Cái tính ái khanh hay thương người, Trẫm biết. Nhưng lương của quận công dù có bị cắt chút ít đã đến nỗi gì đâu. Năm kia Trẫm đã xuống dụ cấm tuyệt hoàng thân công chúa không được đánh bạc, không được hút thuốc phiện. Không dính tới mấy cái tứ đổ tường đó, thì đến nỗi chi mà túng thiếu?


- Dạ, dạ…


Nhún nhường đưa đẩy một lúc, rồi Thiện phi cũng đạt được mục đích: Xin cho Thiệu Hóa quận công được tạm ứng một nửa lương bổng năm sau. Phải xin cho bằng được, vì ở ngoài mẹ nàng đã hứa với Thiệu Hóa phu nhân rồi. Thấy nhà vua gật đầu, nàng nhẹ cả người.


Vua nắm tay Thiện phi:


- Trẫm dạo này nhiều việc phải lo, từ nay về sau ái khanh đừng nói mấy chuyện phiền nhiễu nhỏ nhặt ấy nữa.


“Dạ dạ,…” Thiện phi mừng rơn, nằm ép vào người vua, tay vòng qua lưng ngài vuốt ve. Vua dần dần dịu xuống, đi vào giấc ngủ. Thỉnh thoảng ngài lại giật mình…


Thiện phi vẫn thức, nàng vừa nâng giấc cho vua vừa mở mắt trao tráo nhìn lên đình màn. Cũng may, tháng trước nàng đã nhờ Tiệp dư Phu Tử nói khéo với Thái hậu, xin cho em trai út của nàng là Nguyễn Đình Tiếp sớm làm lễ nghênh hôn với công chúa Phúc Huy.


Nàng tủm tỉm cười thầm: cuối cùng, Phúc Huy lại cưới trước Gia Phúc! Không phải khi không mà được vậy đâu! Bởi em trai vừa tử trận, Thái hậu vẫn còn đau buồn; Thái hậu là đích mẫu của các công chúa, nên theo nguyên tắc thì phò mã Thuật là cậu ruột, quan hệ thân thích rất gần. Nhưng Tiệp dư Nguyễn Nhược Thị Bích tâu rằng, theo gia lễ thì tang bên ngoại không nhất thiết phải câu nệ. Hơn nữa, gia tộc Nguyễn Đình thanh thế đang lên, cha là Nguyễn Đình Tân ngồi Tổng đốc Nam Định, con là Nguyễn Đình Long giữ chức Huyện lệnh ở Nghệ An, hai cha con vừa rồi đều được triều đình khen thưởng…


Phúc Huy về nhà chồng. Mẹ nàng mừng chảy nước mắt. Cả nhà Nguyễn Đình cũng mừng: Sở dĩ Thiện phi phải bằng mọi cách thúc cho cưới gấp, là để cho em ruột và em dâu được ra mở phủ sớm. Năm nay theo quy định, nhà rường chính trong phủ công chúa được bộ Công xây cho năm gian bằng gỗ trắc đen. Nghe đâu qua sang năm thì áp dụng lệ mới, chỉ còn được ba gian, mà gỗ lại xuống một cấp, chỉ còn là gỗ lim thôi! Thiện phi tủm tỉm cười: Ăn cỗ đi trước, lội nước đi sau, muôn đời vẫn vậy!


∞∞∞∞


Linh mục Đặng Đức Tuấn từ lúc thoát ngục về kinh đô, được đại thần Phan Thanh Giản giữ lại làm môn khách. Hai người, tuy tuổi tác và địa vị khác nhau, nhưng rất tương đắc.


 Một chiều cuối tháng tư, Phan Thanh Giản từ điện Văn Minh trong cung trở về, cho lính ra nhà khách mời linh mục.


- Đạo trưởng lâu nay vẫn đòi về Nga Mân. Ta cứ nhất định giữ lại, vì sao ông biết không?


- Bẩm, xin đại nhân cho biết tôn ý.


- Ta đã đoán, trước sau rồi cũng có việc lớn phải cần đến ông. Quả nhiên như vậy. Hôm nay tướng Phú Lang Sa tên là Simon đi tàu nhỏ đến Huế, đưa thư của Pháp súy. Hoàng thượng vừa vời ta và Thượng thư bộ Binh Trần Tiễn Thành vào cung bàn bạc.


- Bẩm, ý của Pháp súy ra sao?


Phan Thanh Giản thở dài:


- Đòi tiền. Đã chiếm đất, chúng lại còn đòi trả chiến phí. Hoàng thượng bực bội lắm vì không hiểu sao bên ta lại phải bồi tiền. Bên chúng đến xâm lăng, chứ ta có rước chúng đến bắn đâu? Nay chúng lại đòi ta trả tiền súng đạn! Đạo trưởng có biết cái luật lệ nào sinh ra cái chiến phí quỷ quái này không?


- Bẩm, theo sự hiểu biết của Tuấn về lịch sử thế giới, thì đây chẳng qua là cái luật lấy mạnh hiếp yếu, cá lớn nuốt cá bé mà thôi! Cái nghĩa của chiến phí, là bên gây chiến phải bồi thường cho bên thiệt hại. Nhưng trên thực tế thì ai thua trận phải trả, bất luận mình có gây chiến hay không! Gọi là chiến phí, nhưng thật ra đó là cái “hòa bình phí”, trả tiền để được yên thân!


- Nếu ta gạt phắt đi, không chịu, thì sao?


- Đã nói mạnh hiếp yếu, thì đại nhân hiểu rồi đó. Không nạp tiền, thì chúng đánh tiếp! Nhưng chẳng hay Tây đòi chiến phí bao nhiêu?


- Hai mươi triệu quan tiền Pháp!


Mặc dù đã phỏng đoán số tiền phải lớn, nhưng khi nghe đến con số hai mươi triệu, Đặng Đức Tuấn cũng lặng người đi, ngồi im phắc một lúc. Trong trí ông thoáng hiện hình ảnh những người dân đói khát ở quê nhà. Số tiền này rồi đây sẽ bổ lên đầu họ.


Phan Thanh Giản thở dài, lát sau mới nói:


- Hoàng thượng sai ta và đại thần Lâm Duy Thiếp vào Nam thương lượng với Pháp súy. Ta muốn đạo trưởng cùng đi với ta, vừa làm thông ngôn vừa giúp thêm ý kiến.


- Tuấn sẵn sàng tháp tùng đại nhân.


- Đi với ta chuyến này là đạo trưởng theo ta vào hang cọp đây. - Phan Thanh Giản mỉm cười.


- Bẩm, vào hang cọp hay xuống luyện ngục, Tuấn cũng sẽ đi với đại nhân. Nhưng thú thực, lòng Tuấn vẫn còn canh cánh về tình cảnh dân đạo ở quê nhà.


- Ta biết lắm. Bởi vậy đã đích thân đem mấy bản điều trần của đạo trưởng tâu lên Hoàng thượng. Hoàng thượng đã dành thời giờ đọc, ngài rất quan tâm! Ngặt một nỗi hiện nay cánh chủ trương “Sát Tả” trong triều đang mạnh thế…


- Cánh “Sát Tả” là những ai, đại nhân có thể cho Tuấn biết không?


- Nhiều lắm ta không kể hết. Sau trận Kỳ Hòa, nhân cái giận của Hoàng thượng, thêm cái thù mất cha, mất con của gần ba vạn nhà, quan lại ở các tỉnh đang đua nhau “sát Tả”, giết đạo để lập công.


- Giết người để lập công! Đau xót thay! - Linh mục làm dấu thánh.


- Đúng vậy! Giết đạo thì rõ ràng dễ hơn giết Tây, nên nhiều người ham lắm! Đấy, Nguyễn Tri Phương đánh Tây gian khổ thế, mà nay còn lơ lửng cái tội trảm trên đầu. Trong khi đó Nguyễn Đình Tân chém hơn bốn ngàn dân đạo, dễ còn hơn chém chuối, mà uy thế lại tăng lên vùn vụt. Phe cánh của y trong triều mạnh đến nỗi vừa rồi có vị dâng sớ xin vua nâng y lên chức chính khanh! 


- Nguyễn Đình Tân mới làm tổng đốc, mà đã chém và thiêu sống đến 4800 dân đạo ở Nam Định. Nếu mà làm chính khanh nữa, thì e là không một mống nào sống sót. Đau lòng quá, 4800 sinh mạng, đã thừa đủ để tổ chức mấy cơ lính đi đánh Tây rồi!


- Đạo trưởng à, trời kia đã tính hết, nên trời không cho hùm có cánh. Hoàng thượng vẫn sáng suốt, ngài đã gạt phắt cái sớ tâu xằng ấy rồi. Lý do hả? Nguyễn Đình Tân là cha của Thiện phi, mà lệ triều Nguyễn không cho phép cha anh của hậu phi nắm hết quyền trong triều.


- Vậy còn việc cấm đạo hiện nay, ý Hoàng thượng ra sao?


- Phải nói thật với đạo trưởng là, đạo Gia Tô không cho thắp nhang ông bà, điều đó vấp phải sự phản đối rất lớn ở xứ này. Hoàng thượng cũng lo đạo Chúa sẽ làm ảnh hưởng đến phong hóa. Ý ngài là, hiện thời, Tây tặc hung hăng như thế, cản trở việc bắt đạo chẳng khác gì chọc vào cái giận đang cực điểm của quan lại, sĩ dân. Chờ khi nào hòa nghị thanh thỏa, bình an lập lại, rồi mới tính đến việc khoan tha được!


- Nếu vậy Tuấn xin hết lòng hết sức lo giúp việc hòa nghị, báo đáp tấm lòng của đại nhân. Đàn chiên của Tuấn từng ngày ở trong lửa bỏng, dù phải nhảy vô dầu sôi để cứu họ, Tuấn cũng không từ.


Chương 13


Luận về chữ Dũng


 Cuối tháng tư năm Nhâm Tuất, Phan Thanh Giản và Lâm Duy Thiếp cùng phái đoàn đáp tàu vào Gia Định. Hai vị trọng thần được vua trao cho toàn quyền, dựa theo tình thế mà quyết định thế nào cho lợi việc nước.


Hoàng đế Tự Đức dẫn đình thần tiễn chân tận cửa Ngọ Môn. Hai bàn tay vua nắm chặt lấy tay hai sứ thần, như muốn truyền cả tim cả máu mình vào đó.


Theo thỏa thuận, Pháp súy cử Trung tá Simon từ Sài Gòn chạy tàu Forbin ra đón. Các sứ thần lên tàu buồm Loan Thoại từ sông Hương ra biển Thuận An. Từ bên tàu Forbin, thủy quân Pháp đã chờ sẵn, cho dây xích móc vào đầu mũi tàu Loan Thoại, kéo đi.


Phan Thanh Giản, Lâm Duy Thiếp đứng trên sàn tàu ta, nhìn ra phía trước thấy tàu Tây nổ máy chạy vo vo, khói đen phun mù mịt.


- Tuấn có biết cái tàu đó là loại tàu gì không?


Phan Thanh Giản hỏi. Bây giờ đã gắn bó trong sứ mệnh này, ông thấy gần gũi hơn nên đã gọi linh mục bằng tên, thay vì gọi “đạo trưởng”.


- Bẩm đại nhân, cái tàu ấy gọi là tàu hơi nước. Trong hầm tàu có một nồi nước rất lớn mà người ta gọi là nồi súp de, dùng than đá nấu sôi lên. Hơi nước nóng tạo thành sức chuyển động đưa tàu chạy.


Lâm Duy Thiếp gật gù:


- Ra thế. Như chiếc Loan Thoại của mình đây, nếu đi một mình, gặp gió thuận thì mất khoảng mười hai ngày vào tới Cần Giờ. Còn chiếc tàu Tây ấy thì mất bao lâu?


- Bẩm, chỉ mất ba ngày thôi! Trừ khi bão tố không nói, còn gió ngược bình thường cũng không ảnh hưởng tốc độ của tàu.


Hai vị đại thần im lặng. Ngày xưa, quân Nguyên từ sa mạc đến, thì đánh sông nước là thế mạnh của ta. Bây giờ, thế mạnh ấy đã thuộc về người Pháp.


Đặng Đức Tuấn nói tiếp, khỏa lấp sự im lặng:


- Cái máy hơi nước ấy không phải chỉ dùng cho tàu thủy. Hiện giờ, nó được sử dụng cho tàu hỏa, máy dệt, guồng quay… ngành nào cũng dùng đến nó.


- Người Phú Lang Sa đã chế ra máy hơi nước? Họ dùng nó được bao nhiêu năm rồi?


- Bẩm, người Phú không phải tác giả cái máy này. Nó vốn đã bắt nguồn từ thời cổ đại ở bên Ai Cập, cải tiến qua hàng chục thế kỷ, đến thế kỷ 17 người Anh mới hoàn thiện, rồi đưa vào sử dụng trong kỹ nghệ khai mỏ, kỹ nghệ dệt. Bây giờ thì nước Phú, nước Hoa Kỳ đều theo nhau sử dụng, nhờ nó mà sản xuất hàng hóa dồi dào, trở nên giàu có. Cái máy này chính là linh hồn của nền kỹ nghệ hiện nay ở phương Tây!


Phan Thanh Giản gật đầu, dàu dàu nét mặt. Giữa chiếc tàu buồm đang chở ta đây, với chiếc tàu hơi nước đang chạy băng băng phía trước, không phải chỉ có khoảng cách dài bằng sợi xích kéo. Giữa hai chiếc tàu này, là khoảng cách hai thế kỷ phát triển công nghệ mà ta đã chậm chân. Ta thua giặc, đâu phải thua súng đạn hay lòng dũng cảm!


Một canh giờ sau khi tàu cập cảng, Nguyễn Chí phi ngựa đến ngã ba Xóm Chiếu. Chàng thấy Nguyễn Trường Tộ đầu trần đứng dưới nắng, đang coi cánh thợ xây làm việc.


- Trời, huynh bữa nay đi làm cai thầu sao?


- Đâu phải làm cai thầu. Ta biết về kiến trúc, nên vẽ thiết kế cho Giám mục Lefèbre Ngãi xây chủng viện này. Thấy ta được việc nên giám mục giao hết cho ta luôn.


Hai anh em ngồi xổm bên mé tả công trường, nói chuyện.


- Đệ nói sao? Linh mục Tuấn đi cùng sứ thần Nam triều đến?


- Đúng vậy. Cha bảo, Hoàng thượng đặt hết hy vọng vào cuộc nghị hòa này. Vừa rồi liên tiếp mất mấy tỉnh, triều đình rúng động, đang lo chưa biết lửa còn lan đến đâu!


- Hoàng thượng có thực sự muốn nghị hòa không? Nếu nghị hòa để có thời gian hoãn binh mà canh tân, thì nên nghị hòa. Còn nghị hòa chỉ để nghị hòa thì thật vô ích, chẳng để làm gì cả. Vì nếu ta cứ mãi yếu, thì địch còn đánh, có hòa rồi nó cũng lại đánh!


- Việc trước mắt là chận đứng ngọn lửa chiến tranh đã huynh ôi! Vĩnh Long thất thủ, Cao Miên trước kia triều cống cho ta mà nay đã ngả về phía quân Phú, hai bên kẹp lại, thế của ta giờ khó lắm rồi!


Tộ cúi đầu nghĩ ngợi một lúc, rồi ngửng lên, cương quyết:


- Sứ đoàn đang ở đâu? Ta muốn gặp họ!


- Thì Cha Tuấn cũng sai đệ đi tìm huynh đây! Huynh cặm cụi viết bao nhiêu bản điều trần để làm gì, có ai chịu đọc đâu? Đây mới chính là lúc phải lên tiếng!


Đêm ấy, Phan Thanh Giản và Lâm Duy Hiệp tiếp Nguyễn Trường Tộ trên tàu Loan Thoại đang bỏ neo trên cảng. Trường Tộ đem đến cho hai vị đại thần một tin quan trọng: Giặc biển Tạ Văn Phụng đang tiến vào bờ biển miền Bắc, hắn đã cho người đến gặp Pháp súy ở Sài Gòn, xin được hỗ trợ tàu và súng.


- Tộ biết triều đình rất đau tiếc về những tỉnh miền Nam đã mất. Nhưng cái nên làm chính là phải lo giữ những phần đất đang còn. Điều tồi tệ nhất vẫn còn chưa đến!


Cả đêm bàn bạc, mọi người đều thấy rõ: không lùi một bước thì vĩnh viễn sẽ không còn đường đi tới.


- Bẩm đại nhân, hòa nghị để dưỡng dân, dưỡng quân, rồi lập tức canh tân, ấy mới là con đường ngắn nhất và tiết kiệm xương máu nhất! Canh tân khi sức chưa tàn, lực chưa kiệt! Chứ cứ đeo bám cái đã mất cho đến khi tay trắng, thì sẽ đến lúc muốn đuổi con ruồi cũng không thể nào nhấc tay được nữa!


Phan Thanh Giản cân nhắc:


- Chiến, thì trước mắt đã có bài học xương máu của Nguyễn Tri Phương đó! Ta lập đại đồn Kỳ Hòa, định là giành lại Sài Gòn, ai hay lại mất thêm ba tỉnh. Nhưng hòa, thì nói thật cũng chưa cam lòng! Hoàng thượng vẫn còn hy vọng ở lòng dân. Trương Định, Nguyễn Trung Trực, Võ Duy Dương, các thủ lĩnh nghĩa quân đang nổi lên từ bưng biền miền Nam, họ đều đang liều chết đánh Tây!


- Tộ biết, lòng yêu nước của các nghĩa sĩ là vô cùng đáng trân trọng. Nhưng chiến tranh du kích chỉ thành công khi có một lực lượng đủ mạnh từ bên ngoài hậu thuẫn. Hiện giờ, ta không có. Tộ rất đau lòng phải nói: trước sau các nghĩa sĩ sẽ bỏ mình vì nước, mà không giành lại được một tấc đất nào cả. Điều đó nói ra lúc này rất khó nghe. Nhưng đó là sự thật, rồi thời gian sẽ chứng minh điều Tộ nói!


  - Ngươi dựa vào đâu mà nói chắc như đinh đóng cột? - Lâm Duy Thiếp gườm gườm nhìn Tộ, cảnh giác.


  - Như cổ nhân đã dạy, làm việc gì cũng phải có thế, có cơ, có thời. Ba chữ ấy, thời điểm này chưa thuộc về ta! Hiện nước Anh, nước Phú đang bành trướng đế quốc thuộc địa, cái thế ấy đang như vũ bão. Nước Đại Nam ta không phải nạn nhân đầu tiên của chúng, vậy hãy rút kinh nghiệm từ các xứ Tunisie, Sénégal, Pondichéry đã bị người Phú chiếm trước đây. Hoặc là, Algérie ở Bắc Phi châu chẳng hạn…


- Có phải thầy đang nói đến xứ A Nhĩ Cập Lợi Á? Ta nghe nói ở xứ ấy có một vị vua anh hùng lắm! - Phan Thanh Giản hỏi.


- Bẩm đại nhân, đúng vậy. Vua Abdel Kader của nước này là một chiến tướng xuất sắc, mà cũng đồng thời là một nhà hiền triết. Cách đây ba mươi năm, khi quân Phú Lang Sa đến đánh, ông vua này đã thân chinh cỡi ngựa ra trận, bỏ hoàng cung rút vào sa mạc, đánh trả rất quyết liệt. Nhưng dân Algérie đã chết hết một phần ba qua các trận đánh đẫm máu, rồi cuối cùng, kiệt quệ, vua Kader  bắt buộc phải đầu hàng. Trong lễ nhận hàng, người dân Algérie phải đau đớn nhìn thấy tướng Phú bắt vua mình dắt con ngựa chiến của y…


Nguyễn Trường Tộ nói đến đó, ai nấy ngồi lặng đi. Trường Tộ đứng lên, tha thiết:


- Bởi vậy, Tộ thiết tha xin các đại nhân nghĩ kỹ. Giờ là lúc còn có thể hòa, để dưỡng sức, canh tân. Tộ xin nhấn mạnh, hòa không phải là hàng. Hòa, là trong tay vẫn còn cái để thương lượng. Chiến, mà không đánh nổi, để mất trắng, mới chính là kết cục thê thảm nhất!


Vẫn là lặng im. Trong đêm khuya, chỉ nghe tiếng sóng vỗ mạn tàu rào rạt.


Bỗng Lâm Duy Thiếp quắc mắt, chỉ tay vào Trường Tộ:


- Phải chăng nhà ngươi là dân đạo làm tay sai cho Tây, được Tây cử đến đây để làm thuyết khách, dụ hàng? Ngươi đem chuyện ấy ra để dọa chúng ta ư?


Nói rồi Thiếp đặt tay lên đốc kiếm, đứng dậy.


Đặng Đức Tuấn cả kinh, vội tiến lên một bước, dùng thân mình chắn ngang giữa hai người. Nguyễn Chí đang canh cửa cũng xuống tấn, sẵn sàng can thiệp.


Phan Thanh Giản phác một cử chỉ can ngăn:


- Hãy cứ bình tĩnh. Tộ nói là ý của Tộ. Nghe hay không là quyền của ta. Chớ nên nóng!


Thấy không khí căng thẳng, Nguyễn Trường Tộ đứng dậy cáo từ.


-  Tộ vẫn biết, hiện nay ai cũng nghĩ chiến là dũng cảm, hòa là hèn nhát. Thực ra muốn hoà cho được cũng rất cần một chữ Dũng, một chữ Dũng còn lớn hơn chuyện cầm gươm mặc giáp ra trận nữa. Có cái Dũng để đi ngược lại với nếp nghĩ thông thường hay không? Có cái Dũng để nhìn thẳng vào sự thật trần trụi hay không?


Ngày kế tiếp, trước thềm cuộc đàm phán, Phan Thanh Giản và Lâm Duy Thiếp cùng nhau bàn bạc đến trắng đêm.


∞∞∞∞∞


Hoàng đế Tự Đức đăm đăm trông tin đoàn đi sứ, đến ngày mồng chín tháng năm, chợt trong lòng nóng lên như có lửa. Sáng sớm vua bước ra sân điện, ngửa mặt khấn trời, bỗng thấy sao Thái Bạch hiện lồ lộ giữa ban ngày. Ngài lấy làm lạ, cho gọi quan Khâm Thiên Giám đến hỏi.


Quan Khâm Thiên giám tâu:


- Thái Bạch kim tinh mọc ban ngày, chính là điềm binh đao không dứt.


Sang ngày mười bốn, nghe tin tàu Forbin đã lai dắt tàu Loan Thoại trở về Thuận An, vua lập tức cho vời ngay.


Phan Thanh Giản, Lâm Duy Thiếp đem hòa ước Nhâm Tuất vừa ký cùng với bản dịch dâng lên. Đọc đến đâu, nhà vua điếng người đến đó.


- Trời, hỡi Trời! Các ngươi chấp nhận nhường ba tỉnh miền đông Nam kỳ! Ôi, con dân mấy triệu, nay phải đau lòng dứt bỏ? Tội hai ngươi lớn lắm! Không phải chỉ là tội nhân của triều đình, hai ngươi còn là tội nhân của muôn đời!


Lời cáo buộc của Hoàng đế lập tức được sử quan ghi lại: “Tội nhân của muôn đời…”


Dưới thềm, thấy vua thịnh nộ, Phan Thanh Giản và Lâm Duy Thiếp phủ phục, im hơi.


- Lại còn cho dân được phép tự do theo đạo Gia Tô! - Hoàng đế càng nói, mồ hôi càng tứa ra trên trán - Rồi sẽ nói làm sao trước bách quan và sĩ dân trong nước?


Phan Thanh Giản cất tiếng, giọng nghẹn lại khàn khàn, nhưng rất điềm tĩnh:


- Tâu Hoàng thượng, chúng thần đã biết rõ, một khi đặt bút ký là chấp nhận về triều có thể đối mặt với tội chém. Nhưng cân nhắc kỹ càng, dù rất đau lòng nhưng thấy rõ tình thế không thể không ký được. Chúng thần xin cam nhận cái chết.


- Ngươi tưởng chết là xong sao? Không, ngươi ký nhường đất, thì chính ngươi phải làm mọi cách để đòi lại đất!


 Đối diện cơn giận dữ của Hoàng đế, Phan Thanh Giản vẫn điềm tĩnh:


- Tâu Hoàng thượng, Hoàng thượng quở chúng thần nhường đất. Xin tâu, không phải chúng thần nhường, vì những đất ấy, thực ra đã mất từ lâu rồi! Ký vào hòa ước, chỉ có nghĩa là dứt điểm với việc trong Nam, để dồn sức lo cho việc cấp bách bây giờ, chính là việc giữ đất Bắc!


Lâm Duy Thiếp cũng tiếp lời:


- Tâu Hoàng thượng! Chúng thần đã đàm phán rất căng thẳng mới đòi lui được tỉnh Vĩnh Long. Nếu không thì là mất bốn tỉnh chứ không phải ba tỉnh như trong hòa ước! Số tiền chiến phí cũng giảm xuống đến một phần ba. Cố gắng hết sức chỉ có thể đến chừng đó. Xin Hoàng thượng minh xét, thực sự là hết cách.


Nhà vua vẫn quay quắt:


- Ai cũng nói là hết cách, thì Trẫm thà đánh một trận quyết tử, nếu có thua thì rút lên rừng ở với mán mọi. Một tỉnh Vĩnh Long thì giải quyết được cái gì?


Phan Thanh Giản ngước lên. Câu nói của nhà vua đòi đánh một trận rồi rút lên rừng, làm ông nhớ đến vị vua Algérie đã rút vào sa mạc.


- Hoàng thượng! Chúng thần phải cố hết sức đòi lại Vĩnh Long, vì Vĩnh Long là con đường đưa gạo từ miền Nam đi ra cả nước. Trước mắt hiện nay, phải lo cho dân có cái ăn trước đã! Tình cảnh của nước ta, chỉ có một con đường: hòa nghị và canh tân! Đất tuy không nguyên lành, nhưng nước vẫn còn, và Hoàng thượng vẫn còn. Hoàng thượng còn, không chỉ có nghĩa là tồn tại một ông vua, mà còn tượng trưng cho chủ quyền của một đất nước! Còn vua, còn nước, thì vẫn còn có cơ hồi phục!


Lời của vị lão thần rất thống thiết, nhưng trong cơn đau tiếc cực điểm Hoàng đế không muốn nghe gì nữa. Ngài khoát tay đuổi cả hai lui ra, truyền cho Bộ Hình nghị xét tội trạng.


Quay về điện Càn Thành, vua nghiến răng, đập đầu vào gối, hai tay đấm liên hồi xuống nệm. Ngài không chịu nổi cái ý tưởng: giang sơn này do tổ tiên nhà Nguyễn để lại nguyên lành, đến thời ngài trị vì lại trở nên sứt mẻ. Làm mất đất của tổ tiên để lại, còn cái đau cái nhục nào hơn?


“Tâu Hoàng thượng, có thượng thư Bộ Binh xin vào yết kiến!” Trung Lương đến bên giường, nói lớn.


Sở dĩ Trung Lương dám quấy rầy Hoàng đế lúc này, là vì bộ dạng Trần Tiễn Thành rất hối hả, cho thấy có việc rất gấp.


“Thật sao?” Nghe quan thượng thư tâu trình, Hoàng đế nắm chặt hai tay, cố gắng tự kiềm chế. Tin khẩn cấp báo về, khiến Trần Tiễn Thành đang ăn giữa bữa phải quăng đũa đứng dậy: gần 500 chiến thuyền của giặc biển Tạ Văn Phụng đã đổ bộ lên bờ. Ào ào như một dòng thác, chúng đã lan tràn khắp tỉnh Quảng Yên, hiện đang hăm hở kéo vào cướp phá tỉnh Hải Dương. “Tâu Hoàng thượng, còn hơn thế nữa, nhiều tin thám báo đưa về cho thấy: chúng đang rậm rịch muốn đánh thốc vào tận Huế!”


Vậy là Phan Thanh Giản nói không sai. Hoàng đế Tự Đức phải nuốt cái đau miền Nam, cùng với triều thần lo việc cứu nguy miền Bắc.


- Hiện thời, ai đang đối phó với giặc Phụng ở Bắc Kỳ?


- Tâu Hoàng thượng, là Nguyễn Đình Tân vừa thăng chức Kinh lược Đại thần lúc đầu năm nay. Nhưng quân đã thua, Nguyễn Đình Tân đang rút lui, phải cho người cứu gấp!


- Đã cử những ai?


- Tâu, phải tạm cử quan tỉnh Hưng Yên điều quân sang giải vây cho Hải Dương. Nhưng lực lượng hiện còn yếu lắm!


Nhà vua nghĩ ngay đến một người.


- Nguyễn Tri Phương hiện đang ở đâu?


- Tâu, vết thương đã ổn rồi, nhưng còn chịu tội nên lâu nay chưa được vào chầu.


Giặc biển Tạ Văn Phụng quá hung hãn, mới có mấy ngày đã giết hết mấy quan thủ thành ngoài Bắc. Còn ai trị nổi hắn đây?


- Cho vời Tri Phương, giờ Mùi hôm nay đến ngay điện Văn Minh!


Chương 14


Sự cố đêm tân hôn


Ngôi mộ nhỏ quét vôi đơn sơ, nằm giữa cây cỏ hoang vu. Tấm bia chỉ có mấy chữ:“Tiền triều cung nhân Hồ thị chi mộ”.


Gia Phúc nhắm mắt, cố tưởng tượng ra hình ảnh người mẹ đã chết. Khói thơm quyện bay vào tóc nàng. Vú Nhự tiến lên, cầm lấy bó nhang đang cháy trên tay Gia Phúc, cắm giúp nàng rồi lùi ra xa.


 Trong gió chiều lồng lộng, một ngọn lửa nhang nho nhỏ cháy bùng lên, lung linh mấy khắc rồi tắt. 


Không hề có ký ức về mẹ ruột, nên giờ đây Gia Phúc không có ý nghĩ hay tình cảm gì rõ rệt. Nàng chỉ mơ hồ một cảm giác ai oán, về một điều gì đấy không may trong đời mình. Cảm giác đó day dứt trong tâm hồn non trẻ của Gia Phúc, cộng với vẻ ảm đạm của chiều tà hoang vắng, khiến nàng bất giác thút thít khóc.


Hồng Hưu cầm tay em gái, dắt nàng ra phiến đá bên mộ. “Muội ngồi xuống đây, lau mắt đi.”


Hôm nay, Thái hậu truyền vú Nhự đưa Gia Phúc đến thắp nhang cho mẹ sinh của nàng. Đại tướng Nguyễn Tri Phương đã được phục chức Tổng thống Quân vụ đại thần, sắp cầm quân ra Bắc. Vậy là đám cưới Gia Phúc lại được gấp rút tiến hành, cho kịp ngày ông ra đi.


“Trước khi con lấy chồng, hãy đến khấn mẹ con, để dưới suối vàng mẹ con yên lòng thấy con đã phương trưởng.” Thái hậu dặn. Do Hồ thị vốn là thị nữ của mẹ Hồng Hưu, đến nay chỉ có phủ Gia Hưng là biết đường đến mộ. Vì vậy Thái hậu mới sai Hồng Hưu đưa em đi.


Trong khi chờ nhang tàn, hai anh em ngồi cạnh nhau trên mô đá. Một con bướm rừng dường như bị thu hút bởi mùi khói thơm, bay lại dập dờn quanh bia. Hồng Hưu nói:


- Mỗi lần cuối năm anh thường đi thắp nhang cho các mộ của phủ Gia Hưng, trong đó có mộ này. Lần nào cũng thấy có con bươm bướm bay đến. Người xưa thường hay nói tới “hồn bướm”. Biết đâu trong cánh bướm có linh hồn thật?


Gia Phúc đăm đăm nhìn, nàng cũng đang thầm nghĩ, biết đâu linh hồn người mẹ xấu số của mình đang về. Cả hai anh em đều ngồi yên, lặng phắc, sợ làm kinh động đến con bướm trắng.


Trong khi Gia Phúc không hề có khái niệm gì về mẹ mình, Hồng Hưu luôn nhớ, nhớ rất rõ về thị nữ Ý Nhi, từ lúc nàng còn là một thiếu nữ vui tươi nhí nhảnh trong cung Lương phi cho đến khi chết. Khi Gia Phúc chào đời, Hồng Hưu đã mười hai tuổi, nên vẫn còn nhớ rõ cái buổi chiều ám ảnh ấy.


Trong viện Tần Trang, Lương phi bảo con trai:


- Con cứ ở yên trên gác đọc sách. Chuyện sinh nở ô uế, con là nam tử, đừng để mắt để tai.


Hồng Hưu vâng dạ, cầm sách trên tay nhưng không sao đọc được. Từ sáng sớm, tiếng kêu khóc rền rĩ của người thị tỳ đang chuyển dạ làm cậu muốn phát điên. Thì ra sinh đẻ là như vậy ư, cậu vừa tự hỏi vừa bịt tai. Có lẽ tiếng kêu của những tù nhân bị tra tấn trong ngục cũng chỉ thảm thiết đến như thế.


Lương phi trông coi cho các thái giám, thị nữ, bà mụ lo việc đỡ đẻ. Ngôi thai nằm ngược, một thách thức lớn đối với bà mụ hoàng cung. Tiếng kêu rên kéo dài suốt ngày đêm, rồi chuyển thành những tiếng thét cập rập, lăng líu, không giống tiếng người.


Khi thu xếp đã xong mọi chuyện, Lương phi mệt mỏi lê gót hài lên gác. Bà ngạc nhiên thấy con trai đang chúi đầu vào gối, khóc nức nở.


- Sao con lại khóc? Ồn quá con không ngủ được sao?


Hồng Hưu lắc đầu, không nói. Lương phi không biết, lúc nãy quá hiếu kỳ nên cậu thiếu niên mười hai tuổi đã lẻn xuống nhà ngang, nhìn lén qua khe vách. Lần đầu tiên cậu thấy hình hài một người đàn bà. Một cơ thể trần trụi, lõa lồ, biến dạng vì thai nghén, và đầm đìa máu. Thị nữ Ý Nhi xinh đẹp, con én nhỏ của viện Tần Trang, bây giờ là một khối thịt phanh mở, hai tay bị buộc chặt vào hai cái nẹp ở đầu giường. Hồng Hưu vừa tò mò vừa kinh sợ dán mắt vào hai bầu vú cương to và thâm tím trên tấm thân uốn cong - cong, và cứng đờ sau một đợt co giật cuối cùng khi giãy chết.


 Cái hình ảnh sau cùng ấy, lõa lồ, máu me, cứ luôn ám ảnh chàng suốt tuổi dậy thì. Nhiều đêm đang ngủ chàng chợt tỉnh vì một giấc mơ kỳ dị cứ xuất hiện hết lần này sang lần khác. Chàng thấy mình ôm riết vào lòng một thân thể đàn bà đang chảy máu. Trong mơ chàng thốt kêu lên, thấy mình bị nhấn chìm trong một cảm giác kỳ lạ - một sự sướng khoái vang rền trong tê mê đau đớn. Tỉnh dậy, chàng thấy đằng dưới thân mình ướt sũng, và tâm hồn thì ngập trong sợ hãi.


Hồng Hưu chẳng dám nói với ai chuyện đó bao giờ. Từ khi chàng mười sáu tuổi, bắt đầu có phủ thiếp hầu hạ, giấc mộng ấy không thường xuyên như trước nữa. Nhưng Hồng Hưu nhận ra, mình vẫn mong chờ giấc mơ thầm kín ấy: một cảm giác tuyệt đỉnh mà không bao giờ chàng đạt tới trong đời thực.


Trên nấm mộ, cánh bướm vờn một lúc, rồi bay đi, mất hút trong cỏ cây.


Nắng chiều đã tắt, một luồng hơi lạnh hiu hắt thổi qua. Gia Phúc lau nước mắt:


- Thôi, mình về…


Từ lúc Gia Phúc được cài trâm bạc, vú Nhự giữ nàng khư khư và hăm dọa mách Thái hậu, nên nàng không thể trốn ra ngoài đi chơi với các anh như trước nữa. Vì vậy đã lâu lắm, Hồng Hưu mới gặp lại cô em út. Giờ đây nàng đã khác hẳn! Hồng Hưu bất giác nhớ lại những giấc mơ đầu tiên về người nữ. Tưởng như người đàn bà chết ấy đang trở về trong một phiên bản sống, trẻ trung và tươi thắm.


Đến lượt Gia Phúc khe khẽ chạm vào vai Hồng Hưu. “Huynh có chuyện gì vậy?”


Hồng Hưu sực tỉnh, lắc mạnh đầu như muốn rũ bỏ những ám ảnh. “Ừ, mình về!” Chàng vẫy tay, ra hiệu cho người hầu gọi phu ngựa.


Vú Nhự và đoàn tùy tùng đưa công chúa lên xe. Hồng Hưu cho ngựa đi nước kiệu, hai gã lính hầu chạy bộ theo. Qua khỏi thuyền Bến Ngự, hai anh em chia tay, đi về hai ngả.


Xe vào thành qua cửa Thể Nhơn. Chợt đôi ngựa kéo xe hí vang, chồm lên. Người xà ích hốt hoảng kêu lớn:


- Tên kia, muốn chết hả?


Một bóng đen vừa lao vụt ra, tạt ngang trước đầu ngựa.


“Bắt! Bắt!” Tiếng la hét ầm ĩ đuổi theo đằng sau.


Vú Nhự đang ngồi trên thềm xe, vội bật lên, ôm chặt lấy Gia Phúc, che đỡ cho nàng. Một đám lính cầm gậy gộc đang chạy ào tới.


Người đánh xe quát:


- Chúng bay dám láo hả, xe trong cung đây, có tránh ra không?


Bóng đen thừa cơ, lòn qua dưới lòng xe, chạy mất.


“Hắn chạy thoát rồi! - Những người cầm gậy kêu lên. - Tên thích khách vào nhà công quán, lẻn vào tận chỗ trú của quan đại thần Lâm Duy Thiếp. May chúng ta phát giác được, không thì quan Lâm đã nguy với hắn!”


“Trời, sao giữa kinh đô ban ngày ban mặt mà xảy ra chuyện tày trời như vậy?” Vú Nhự kêu lên, vội hối người đánh xe mau mau đưa công chúa về cung.


Về tới biệt thất rồi, vú Nhự vẫn chưa lại hồn. Vú đem chuyện kể với Cúc Tần và các thị nữ, tất nhiên là có thêm mắm thêm muối cho thêm phần khủng khiếp:


- Kẻ cướp ấy mặt mũi hung ác lắm, hắn cầm dao nhọn chạy như bay. Vú đang ngồi trên thềm xe, suýt chút nữa thì hắn đâm sầm luôn vào vú! Nghe đâu hắn ta vào cướp vàng bạc trong nhà quan lớn Lâm Duy Thiếp!


Các thị nữ chụm vào nghe, ai nấy “Ồ” “À” liên tục. Cúc Tần thấy vậy bụm miệng cười.


Vú Nhự đi xuống bếp rồi, Cúc Tần khịt mũi:


- Đừng nghe vú ấy. Quan Lâm nhà cửa trong Bình Định, nhà đâu ở đây. Mà có phải cướp vàng bạc gì đâu…


- Sao chị biết? - Một thị nữ hỏi.


- Thì cũng đoán thế…


Chỉ hôm sau câu chuyện đã được đồn vang khắp kinh thành. Đầu đuôi là, chiều hôm ấy, Lâm Duy Thiếp đang ngồi đọc sách, chợt nghe tiếng “sạt” ngay trước mặt. Ngẩng đầu lên: Một con dao sắc nhọn cắm phập vào mặt bàn, trên chuôi dao rung rinh có buộc một tờ giấy ghi mấy chữ: Phan Lâm mãi quốc.


Lâm Duy Thiếp nhìn lui, thấy một bóng đen bịt mặt lừng lững ngay sau lưng. Lập tức, Lâm đứng vụt dậy cầm ghế phang tới. Kẻ lạ không chống cự, chỉ quay mình chạy vụt đi, nhảy thót lên đầu tường chạy thoát ra ngoài.


Cùng lúc ấy, tại tư dinh của Phan Thanh Giản, có người bí mật lẻn vào, dùng sơn đỏ viết bốn chữ “Phan Lâm mãi quốc” lên cửa chính.


Mặc dù đã chuẩn bị chờ điều tồi tệ nhất: cái chết, nhưng khi nhìn thấy chữ “mãi quốc” - bán nước - đi liền với tên mình, một cảm giác nặng như đá trùm lên trái tim Phan. Dù vậy, ông vẫn tỏ ra bình thản, chuẩn bị lên đường vào Nam nhậm chức mới: Tổng đốc Vĩnh Long.


Ông nói với Đặng Đức Tuấn:


- Ta theo lời Trường Tộ, quyết vì một chữ Dũng đương đầu với cả triều đình. Tiếc vì Hoàng thượng không hiểu lòng ta, vẫn cứ khăng khăng bắt ta vào trấn Vĩnh Long, bắt ta tiếp tục thương lượng đòi cho được ba tỉnh. Ta rất quý cái tâm, cái tài của Tuấn, muốn có Tuấn cùng đi. Tuấn nghĩ sao?


Đặng Đức Tuấn bùi ngùi:


- Xưa nay kẻ sĩ sẵn lòng chết vì người tri kỷ. Chỉ ngặt điều, Tuấn đã khấn trọn đời theo con đường tu, không thể lâu ngày lìa xa mục vụ tông đồ. Nay Tuấn xin quay về với đàn chiên ở Quảng Ngãi. Khi nào có việc gấp cần đến, đại nhân cứ gọi, dù xa xôi cách trở bao nhiêu Tuấn sẽ đến ngay!


Phan Thanh Giản mỉm cười, một nụ cười man mác buồn:


- Ta rất tiếc. Nhưng thôi, mỗi người đều có chí hướng trong đời. Đành vậy. Hôm qua, Hoàng thượng đã xuống dụ tha hết dân đạo. Trừ những người thực có chứng cớ thông đồng với giặc, còn lại đều mở ngục cho về hết, ruộng vườn, gia sản cũng trả lại. Coi như tâm nguyện của Tuấn đã thành. Lần này về lại trong Quảng, không lo mang gông lần nữa nhé!


Cả hai cười xòa, cố khỏa lấp những nỗi niềm riêng.


Phan Thanh Giản và Lâm Duy Thiếp cùng lên đường một ngày. Đến Bình Thuận, Lâm dừng lại, nhậm chức mới ở đó. Phan đi tiếp vào Vĩnh Long. Hai vị đại thần, mà vinh nhục sẽ cùng chia trong lịch sử, hẹn dịp gặp lại thăm nhau vào cuối năm, khi về Kinh triều cận.


Họ đâu biết đó là lần gặp cuối cùng: vào đến lỵ sở chẳng bao lâu thì Lâm bị đột quỵ, qua đời ở tuổi 57. Hòa ước Nhâm Tuất đã để lại một áp lực quá lớn mà ông không gánh nổi.


Trong lúc đó, tại kinh thành, Nguyễn Tri Phương đã sẵn sàng ra Bắc đánh giặc. Trước khi ông lên đường, đám cưới của Gia Phúc và Nguyễn Lâm được cử hành long trọng, đúng theo nghi thức công chúa lấy chồng.


∞∞∞∞∞∞


Phò mã Nguyễn Lâm, mình khoác cẩm bào vua ban, xuống ngựa đến trước kiệu đỡ công chúa bước xuống.


 Mặc dù đã được quan chức bộ Lễ căn dặn trước, “Không được nóng lòng nghiêng ngó, làm mất sự uy nghi”, nhưng Nguyễn Lâm không thể không tò mò nhìn chăm chăm vào mặt vợ. Lúc này Gia Phúc được trang điểm lộng lẫy, lớp son phấn tô đậm làm khuôn mặt nàng dường như sắc sảo và dữ hơn thường ngày. Đáp lại cái nhìn chòng chọc của phò mã, nàng cũng trừng mắt, ném trả cho đối phương một cái nhìn đối phó.


Lâm vội cụp mắt xuống, nghiêm trang sánh vai cô dâu đi vào từ đường phủ Nguyễn Tri. “Ôi, mụ Chằn!” Chàng thầm nghĩ trong lòng. Đôi vợ chồng đến trước bàn thờ, làm lễ gia tiên, rồi quay sang lạy đại tướng và phu nhân. Vì Gia Phúc là công chúa, nên nàng lạy xong thì cả cha mẹ chồng đều đứng dậy vái hai vái.


Nhạc bát âm vang lên, tưng bừng hân hoan. Tiệc cưới ở nhà Nguyễn Tri hôm nay có đủ mặt các quan đại thần và các tước công ở Tôn Nhân phủ. Nhiều hoàng thân, công chúa tuy đã dự tiệc nhà gái trong cung, nhưng vẫn cho người đưa quà mừng đến tận phủ, mặc dù Nguyễn Tri Phương cả năm ở ngoài chiến trận, chẳng giao du với ai.


Sau phần lễ gia tiên, Gia Phúc được đưa vào khuê phòng. Nguyễn Lâm ra ngoài tiệc chúc rượu. Ai cũng ép chú rể cạn một chén chia vui cho bằng được. Vì muốn đáp lại thịnh tình của quý khách, nên đến giờ tốt động phòng thì chàng rể đã say nhừ tử. Chàng chếnh choáng bước vào, vật mình ra nệm, không kịp nhìn lại cho rõ “mụ Chằn” khi đó như thế nào.


Gia Phúc cũng mệt, từ nhỏ đến giờ chưa khi nào nàng phải trải qua lắm lễ nghi phiền toái đến thế. Cho nên khi thấy phò mã lập tức ngủ khò khò, nàng chẳng thắc mắc gì. Nằm né hẳn ra phía bên kia giường, nàng tò mò mở to mắt, ngắm nghía cái sinh vật xa lạ mà từ nay sẽ gọi là chồng. “Nhìn cũng được đó, nhưng mùi rượu hôi chết khiếp, thêm nữa tướng ngủ của thằng cha này xấu quá đi mất. Vậy mà ai cũng bảo là khôi ngô tuấn tú lắm... Lại còn văn võ song toàn nữa mới ghê chứ. Để rồi coi, hắn có cái võ gì.” Gia Phúc thầm nhủ.


Đây là lần đầu Gia Phúc ngủ ở một nơi xa lạ. Cái giường, cái gối, cái chăn đắp, chẳng có gì giống với những thứ thường ngày. Cũng là lần đầu tiên nàng phải chia giường với người khác... Mệt lắm nhưng nàng không sao ngủ được, mãi đến gần sáng mới chợp mắt thiu thiu.


Chợt nàng giật mình, tỉnh dậy. Nguyễn Lâm đang chống hai tay, nhìn chằm chằm, bộ dạng như con mèo đang canh chừng con chuột.


Mắt nhắm, mắt mở, nàng càu nhàu:


- Nhìn cái gì? Bộ ta kỳ cục lắm sao?


Nguyễn Lâm giật mình như người bị bắt quả tang, chàng lập tức nằm xuống, kéo chăn trùm kín đầu.


Ngủ thiếp được thêm một giấc nữa, Gia Phúc lại bị đánh thức bởi một cảm giác nhồn nhột dưới lòng bàn chân. Nàng mở mắt, thì ra trời đã sáng bạch.


Nguyễn Lâm đang ngồi ở phía cuối giường, hai tay sờ sờ vào bàn chân nàng. Lần đầu tiên Lâm được nhìn thật gần đôi bàn chân con gái, mà lại là đôi chân cấm cung suốt đời ủ trong giày nhung vớ lụa. Bàn chân Gia Phúc nhỏ nhắn, mũm mĩm, dưới làn da trắng mỏng hiện rõ cả những vân máu li ti ửng lên như lá sen. Nguyễn Lâm cảm thấy ngưỡng mộ, chàng vừa mân mó vừa trầm trồ: “Đẹp, đẹp thật, đúng là chân bà chúa.”


Gia Phúc nghe loáng thoáng lời khen, cũng thích, nhưng Lâm vô tình làm cho nàng nhột quá. Nàng rụt chân lại, tiện đà đạp cho phò mã một cái thật mạnh, làm chàng văng luôn xuống nền gạch.


Nằm trên giường, chứng kiến cảnh Nguyễn Lâm lóp ngóp bò dậy, Gia Phúc cười hinh hích khoái chí, tỉnh hẳn ngủ.


- Sao nàng hung dữ quá vậy? Vợ mà đạp chồng là hỗn, nàng không biết hả? - Lâm sừng sộ.


- Hỗn cái gì? Ta nghe mẫu hậu khen phò mã văn võ toàn tài, nên muốn thử sơ sơ coi sao. Kiểu này là chỉ có danh hão thôi, có võ mà sao đạp nhẹ đã té.


Thật ra Nguyễn Lâm liên tục luyện công, trong cơ thể sẵn có phản ứng tự động đỡ đòn, vì sợ xung lực làm chấn động Gia Phúc nên chàng chủ ý té xuống đất để khỏi làm nàng tổn thương. Bây giờ nghe công chúa chê bai, chàng cảm thấy tức anh ách:


- Có võ hay không có võ, rồi cũng có ngày ta cho nàng biết!


À á, dám dọa ta... Gia Phúc nghĩ thầm. Nàng chưa kịp trả miếng, thì nghe động nhẹ ở cửa. Giọng quen thuộc của vú Nhự đang khẽ khàng đánh tiếng. Mặt trời đã lên đầu ngọn cây trong vườn, vú Nhự thấy đại tướng cùng phu nhân thức dậy từ lâu, mặc áo dài ngồi song song chỉnh tề nơi nhà chính phía trước, hình như có ý chờ. Vú lật đật nháy thị tỳ nhà Nguyễn Tri cùng đến trước cửa buồng, rước công chúa phò mã ra vái chào vấn an song thân.


 


Chương 15


Thể Cúc


Tùng Thiện công bước vào thư trai. Đoàn Trưng đang ngồi chấm bài, vội đứng dậy chào.


Tùng Thiện công đến bên án thư, ngồi xuống.


- Cháu nhiều lần hỏi ta về người ẩn sĩ nơi huyện Hương Trà. Ngày mai sẽ có việc đi đến đấy, cháu có muốn hộ tống ta không?


- Dạ, cháu rất muốn đi. Nhưng nhân dịp gì mà Đức ông phải cất công? Cháu xin hỏi để xử sự cho phải phép.


- Cháu là người hiểu biết, ta chẳng giấu việc gì. Vừa rồi, ở kinh thành có vài việc lộn xộn. Chắc cháu cũng nghe chuyện thích khách lẻn vào chỗ ở của hai ông Phan Thanh Giản và Lâm Duy Thiếp. Từ mấy mươi năm nay, có bao giờ xảy chuyện như vậy đâu!


- Cháu có nghe! Có lẽ người nghĩa sĩ nào đó phản ứng bồng bột mà thôi! Vừa rồi hai ông ấy nhường đất cho giặc, bảo sao sĩ dân không tức giận!


Tùng Thiện công lắc đầu:


- Kẻ đột nhập ấy không bồng bột đâu! Nếu bồng bột thì chỉ một người. Đằng này hai người, lại hành động cùng một lúc. Nội dung hành động giống y như nhau. Viện Cơ Mật nghi là có một hội kín đã hình thành.


- Hội kín?


- Đúng, rõ ràng là một hội kín, và họ đã dám xuất đầu lộ diện, hoạt động rất táo bạo.


- Mục đích của họ là…


- Hiện thời chưa thể biết mục đích của họ là gì. Cũng có thể là chỉ phản đối hòa ước Nhâm Tuất, phản đối hai vị Phan - Lâm. Cũng có thể là nhân cái cớ đó mà mưu bá đồ vương, nhắm tới người cao hơn nữa… Người cao hơn đó là ai, cháu tự hiểu. Làm dân thì dễ chứ làm vua, làm tướng không ai ăn yên ngủ kỹ được đâu!


“Làm dân cũng chẳng dễ chút nào.” Trưng nghĩ thầm trong bụng, chàng nghĩ đến vật giá đang tăng vọt ở kinh thành. Nhà họ Đoàn tuy vào hạng trung lưu chứ không phải nghèo nàn, nhưng nay cũng phải thắt lưng buộc bụng nhiều lắm. “Bẩm Đức ông, vậy việc hội kín ấy có liên quan gì đến người ẩn sĩ ở Hương Trà?”


- Có, có chứ. Rồi ta sẽ nói với cháu sau. Chiều mai khoảng cuối giờ Thân cháu chờ sẵn, khi nào đi ta sẽ cho gọi.


Tùng Thiện công nói đoạn đứng dậy. Chợt mắt ông dừng lại nơi chiếc sập bên mé tả thư trai. Một miếng giấy nhỏ nhiều màu, nói cho đúng là nhiều mảnh giấy màu cài vào nhau một cách rất xinh khéo. Tuy nó đã bị vò nhàu, ông vẫn nhận ra là giấy gói của một loại bánh rất đặc biệt chỉ có trong hoàng cung.


Vào trong Tiêu Viên, đi qua nhà ngang, Tùng Thiện công thấy phu nhân đang đứng xem bọn hầu gái dệt thử loại sợi tơ Kim Long. Ông dừng lại, hỏi:


- Hôm trước ta và phu nhân vào cung dự tiệc cưới công chúa Gia Phúc, có đem phần bánh về, phu nhân đã đem mời gia khách rồi sao?


- Dạ chưa! Vẫn còn y nguyên, chưa ai đụng đến. Đức ông cần dùng, để thiếp cho tụi nhỏ bưng lên.


Phu nhân nói rồi đi vào gian bếp lớn. Hộp bánh làm bằng sơn mài có hình quả bí được vẽ hình rất tinh xảo. Trước khi hầu gái bưng đi, phu nhân cẩn thận mở ra xem trước. Ô, sao mất đi đâu mấy cái bánh, khuyết hẳn một góc.


Thấy vậy phu nhân tự tay bưng lên nhà trên, phân trần:


- Đức ông chưa dùng, mà không biết ai vô phép lấy trước mất mấy cái. Chắc là kẻ hầu táy máy đây! Để rồi thiếp hỏi xem đứa nào, sẽ phạt cho chúng chừa.


- Chắc chi đã là kẻ hầu. Coi chừng lại mắng oan chúng. Hộp bánh quý như vầy, chắc chỉ mấy thằng con của ta mới dám rớ tay vào thôi.


- Các công tử nhà này đâu có chuyện bước xuống nhà bếp. Bưng tận miệng chúng còn chưa nhìn tới!


- Hay là Thể Cúc?


- Thể Cúc có bao giờ ăn đồ ngọt đâu!


Tùng Thiện công không hỏi nữa, im lặng nhấp chén trà nóng phu nhân vừa rót. Một lúc sau, ông bảo vợ:


- Phu nhân ngồi đây, tôi có việc này muốn nói riêng với bà… Bà hãy buông mành đóng cửa, rồi ta nói chuyện!


∞∞∞∞


Xe dừng trước ngõ, Tùng Thiện công bước xuống, dặn gia nhân đứng ngoài chờ rồi đi thẳng vào cổng. Đoàn Trưng theo sau.


Ngôi nhà ba gian ẩn trong vườn tre khuất nẻo. Có vẻ chủ nhân sống rất kín đáo, gần như mai danh ẩn tích. Nhưng địa điểm này lại là Hương Trà! Trong các huyện thuộc phủ Thừa Thiên, thì Hương Trà là huyện gần nhất, gần như áp sát vào Thành Nội phồn hoa, chỉ cách một con sông An Hòa rất hẹp. Vì vậy, nếu muốn làm ẩn sĩ thì chỗ này cũng chẳng tiện lánh đời thoát tục.


Đoàn Trưng quan sát, nghĩ thầm: “Cái chỗ này, đâu phải chỗ để ở ẩn, mà đúng ra là một chỗ để giam lỏng. Vừa đủ xa để khỏi ảnh hưởng đến Hoàng thành, vừa đủ gần để tiện việc giám sát. Người này, chắc chỉ là một ẩn sĩ bất đắc dĩ mà thôi.”


“Người ẩn sĩ” còn rất trẻ, mới xấp xỉ hai mươi, tướng mạo rất khôi ngô, đôi mắt đượm vẻ buồn. Thấy Tùng Thiện công, y vội chạy đi khoác cái áo dài rồi mới trở ra vái chào:


- Cháu xin chào Đức ông! Xin chào huynh đài!


Một tốp đàn bà trẻ nhỏ đang quây quần ăn bắp rang, vội đứng dậy chắp tay thi lễ rồi rút hết ra nhà sau.


Tùng Thiện công lên tiếng:


- Đinh Đạo, cháu cứ ngồi, ông chỉ đến thăm cháu như thường lệ thôi.


- Dạ, dạ…


Đoàn Trưng nghĩ thầm: “Thì ra vị Hoàng tôn tội nghiệp mà ta thường nghe nói, là người này đây!”. Bất giác chàng đứng dậy:


- Tại hạ xin hân hạnh ra mắt Hoàng tôn!


Đinh Đạo ngượng ngùng, lúng túng:


- Ồ, chớ, chớ, chớ gọi tôi là Hoàng tôn. Từ ngày thân phụ mang tội mà qua đời, tôi đã phải “cải tùng mẫu tính” đổi sang họ mẹ. Nay là họ Đinh chứ không còn họ Nguyễn Phúc nữa! - Đinh Đạo đáp, dáng dấp đầy vẻ đề phòng.


Tùng Thiện Công ôn tồn:


- Khi nào có người ngoài cháu hãy giữ ý. Còn chỉ có mình ta với Đoàn tráng sĩ đây thì không phải ngại ngùng gì. Dù mang họ Nguyễn Phúc hay họ Đinh thì cháu vẫn là cốt nhục của tiên đế.


- Cháu xin cảm ơn Đức ông. - Đinh Đạo nói, trên mặt hiện rõ nỗi chua chát.


- Nay tình hình giá cả ở kinh thành lên xuống thất thường, nên Hoàng thượng truyền Tôn Nhân phủ cấp thêm ngân lượng và vật phẩm để cháu chi dùng cho thong thả. Ngài lại dặn rằng, hiện thời nhiều kẻ xấu đang kéo bè kết cánh gây rối. Triều đình đang dò xét để trị tội. Vậy cháu phải cẩn thận đề phòng, đừng nghe lời ai xúi giục, tránh xa những chỗ bàn mưu tính kế. Cứ thận trọng bảo toàn thì không phải lo gì cả.


- Chẳng hay tình hình bên ngoài rắc rối ra sao? Cháu không đi đâu, không gặp ai, nên chẳng biết chuyện gì. - Đinh Đạo hỏi.


- Nói để cháu biết qua, tình hình rất đáng buồn. Giặc Tây đánh chiếm mất mấy tỉnh trong Nam. Vừa rồi hai đại thần Phan Thanh Giản, Lâm Duy Thiếp đàm phán với Pháp súy, đã ký Hòa ước Nhâm Tuất, chấp nhận nhượng ba tỉnh. Vì vậy sĩ dân đang nhao nhao phản ứng, những người manh động kéo bè kết đảng, việc đã khó càng thêm khó. Nếu có ai nói gì về “Hòa ước Nhâm Tuất” thì cháu nên tránh đi, đừng bắt chuyện. Người khác nói không sao, cháu mà dây vào là mệt đó, vì thâm tình ta cũng nói thật cho cháu đề phòng.


- Dạ, cháu xin vâng. - Đạo chắc lưỡi tiếc rẻ - Nam kỳ là đất của Thế Tổ dấy nghiệp, nay để lọt vào tay giặc, nghĩ thật xót.


Tùng Thiện công bùi ngùi:


- Xót lắm cháu ạ. Bởi vậy Hoàng thượng đã buộc Phan Thanh Giản vào trấn nhậm Vĩnh Long để tìm cách đòi lại. Mong sao đòi được, thì phúc cho nước ta lắm!


Trên đường về, Đoàn Trưng âm thầm nghĩ ngợi.


- Vị hoàng tôn đó, nghe đâu khi sinh ra đã được làm lễ “ngũ đại đồng đường”, được tiên đế tự tay bồng dâng lên Thái hoàng thái hậu?


- Chuyện đó thì dài lắm! Việc trong nhà vua chúa, nhiều điều bất nhẫn lắm cháu ạ. Cái sống còn của người ngồi trên ngai, nó cũng chính là sự an nguy của đất nước. Bởi muốn bảo đảm điều đó, đôi khi một vài số phận phải bị hy sinh! - Tùng Thiện công ngậm ngùi.


- Vậy ai xứng làm vua? Nếu ngày ấy, người được chọn là Hoàng trưởng tử Hồng Bảo?


- Theo ta, lịch sử là những chuyện đã xảy ra rồi. Vì vậy chữ “nếu” thật vô nghĩa. Việc đã xảy ra là: tiên đế đã chọn Hoàng thượng nối ngôi.


- Một người ngồi trên ngai, nghĩa là người kia phải đi vào ngục tối sao? - Đoàn Trưng cảm thán.


- Không hẳn như vậy. Ngày ấy trước lúc nhắm mắt, tiên đế đã gọi Hồng Bảo, căn dặn sau này yên phận với tước thân công, đừng làm rối sơn hà xã tắc. Giá như Hồng Bảo nghe lời, thì bây giờ người con trai này không phải sống lẻ loi ở đây. Nhưng lòng ham muốn của con người thường không có điểm dừng. Vì vậy mà Hồng Bảo mới thiệt thân, lại làm vạ lây cho cả con cháu…


- Việc Hồng Bảo chết, cháu đã có biết qua bài thơ “Răng cắn lưỡi” của Nguyễn Hàm Ninh…


- Nguyễn Hàm Ninh là bạn thơ của ta. Nhưng Hàm Ninh cũng không biết rõ chi tiết việc này. Thật ra, Hồng Bảo mưu phản có chứng cớ, Hoàng thượng đã tha một lần, còn ban cấp thêm tiền bạc. Nhưng rồi Bảo lại mưu sự lần thứ hai nên mới bị bắt giam. Bảo thắt cổ chết trong ngục, làm cho Hoàng thượng mắc phải hiềm nghi! Nhưng ta tin là Hoàng thượng không giết Bảo!


- Đức ông tin… ở sự nhân từ của Hoàng thượng? - Đoàn Trưng hỏi, một nụ cười khinh bạc thoáng qua trên môi.


- Nếu muốn giết, thì Bảo đã hai lần làm phản, chiểu theo luật cũng đủ khép vào tội lăng trì rồi, không cần phải âm thầm hạ thủ trong bóng tối.


Đoàn Trưng im lặng. Tùng Thiện công hiểu sự im lặng ấy, ông ngậm ngùi trải lòng:


- Tuy một người là vua, một người là tội nhân, nhưng cả hai đều là cháu ta. Lòng ta cứ công tâm mà nói, không phải vì Hoàng thượng là vua mà ta thiên vị.


- Vâng, cháu hiểu. Cháu chỉ muốn hỏi để biết cho tường tận câu chuyện thâm cung bí sử ấy thôi.


∞∞∞∞∞


Xe về đến phủ thì đã xế chiều. Tùng Thiện công đi vào nhà trong, Đoàn Trưng rẽ vào thư trai trong vườn lựu.


Trong bóng chiều êm ả, chàng chợt nghe một tiếng hát nhẹ nhàng đâu đó. Chàng đã rất quen với tiếng hát này rồi. Ngập ngừng, Trưng bước về phía bức tường ngăn với khu Tiêu Viên.


Đoàn Trưng rẽ đám dây leo. Cái hốc trên tường hiện ra. Có ai đặt trong đó mấy trái cam vàng óng thật ngon mắt, còn nguyên cả lá tươi.


Trưng mỉm cười cúi đầu nhìn sang phía bên kia. Trong góc vườn vắng vẻ, một thiếu nữ áo tím ngồi trên chạc cây khế đổ ngang, hát vu vơ:


Sen tàn… cúc lại nở hoa…


Sầu dài, ngày ngắn… đông đà sang xuân…


Đoàn Trưng lên tiếng:


- Xin đa tạ!


Thiếu nữ giật mình quay lại, bẽn lẽn đưa cái quạt trên tay lên che nửa mặt. Nàng nhìn Trưng mấy giây, rồi vội đứng dậy, quay đi.


Trưng hụt hẫng, gọi với theo:


- Tiểu thư, xin dừng lại một chút!


Thể Cúc đã dợm bước, nghe Trưng gọi, ngập ngừng đứng lại. Nàng bẽn lẽn cắn môi, đôi mắt dịu hiền mở to lóng lánh, bao nhiêu xao xuyến trào dâng trong lòng.


- Xin tiểu thư lại gần, cho tôi được nói vài câu!


Thể Cúc e dè bước đến bên tường, lần đầu tiên nàng nhìn thấy Trưng ở khoảng cách gần đến thế. Ánh mắt chàng âu yếm, làm tim nàng đập rộn lên: một cảm giác xôn xao, vừa thích thú, vừa sợ sệt.


- Nàng có lòng tử tế, thường dành cho đồ ngon của ngọt, tôi biết làm sao tạ ơn nàng đây?


Nói rồi Đoàn Trưng đưa tay qua lỗ hổng, liều mạng cầm lấy tay nàng. Thể Cúc điếng người, bàn tay nhỏ run lên bần bật.


Trưng lần lần cầm lên phía cổ tay, rồi bắp tay mịn màng của thiếu nữ. Chàng cũng run...


Tay chàng lướt dần lên, mơn man đến khuỷu tay nhỏ nhắn khuất trong áo lụa. Nhưng Thể Cúc như sực tỉnh, giật ra. Nàng lật đật bỏ đi, gần như chạy trốn. Trưng ngơ ngẩn nhìn theo…


Cũng lúc ấy, trong nhà, phu nhân đang nóng lòng chờ. Thấy chồng về, bà vội theo ông vào phòng, đóng chặt cửa lại:


- Đức ông, may mà có Đức ông tinh tường để ý, thiếp mới bắt được quả tang…


Phu nhân nói chưa dứt lời, nước mắt ràn rụa chảy, cả người run lên vì giận.


- Từ từ, từ từ bà ơi, ngồi đây, ngồi đây, bình tĩnh lại đi đã!


Phu nhân ngồi xuống. Nãy giờ bà đã ráng hết sức để che giấu cảm xúc trước mặt người nhà. Giờ một mình với chồng, bao nhiêu uất ức tuôn tràn, bà nức nở:


- Ai ngờ đâu. Chuyện này xảy ra, thật điếm nhục cho gia môn. Giờ biết xử trí sao đây, thiếp chờ mãi Đức ông về để hỏi ý!


- Đầu đuôi ra sao, ta vẫn chưa hiểu!


Phu nhân nghẹn ngào kể lể. Hôm qua, nhân chuyện mất mấy cái bánh, Tùng Thiện công bảo phu nhân để ý xem chừng. Hôm nay, người quản gia có việc đi Nghệ An về, mang biếu mấy sọt cam Xã Đoài rất đặc biệt. Phu nhân liền cho đưa hết vào nhà kho, chỉ để một khay ngay trong bếp rồi sai người hầu gái thân tín kín đáo canh chừng. Quả nhiên, đã thấy người lén vào nhón bớt mấy quả, đem đặt vào cái hốc tường cuối vườn…


- Tuy không sinh ra nhưng thiếp đã nuôi dạy Thể Cúc từ khi còn ẵm ngửa, kỹ càng từng li từng tí. Ai có ngờ hắn lại đổ đốn, lấy đồ trong nhà cho trai như vậy! Tính gọi hắn vào đập một trận cho hả giận, nhưng sợ e um xùm thì xấu mặt. Nên mới nén lòng chờ Đức ông về bàn tính, hu hu…


Phu nhân vừa kể vừa khóc thảm thiết. Tùng Thiện công ban đầu lo lắng, sợ là có chuyện gì trầm trọng xảy ra rồi. Nay nghe xong, thấy cơ sự chỉ mới đến đó, ông hơi yên tâm, cầm tay vợ vỗ về:


- Việc này, ngoài phu nhân đã có ai biết chưa?


- Dạ, mới chỉ có con Hồng, thiếp đã dặn không được hé răng với ai.


- Vậy phu nhân cứ an tĩnh, để rồi ta sẽ tính.


- Xin Đức ông cho đuổi ngay gia sư họ Đoàn. Phải làm liền cho tiệt nọc. Ngọn lửa nhỏ không lo dập, thì nó bùng thành đám cháy to, trở tay không kịp…


- Được, được rồi, phu nhân cứ để ta xử lý. Cũng khoan nói gì với Thể Cúc, đừng làm con hoảng sợ tội nghiệp!


Cả tuần trăng sau đó, phu nhân ít cười ít nói, đối với Thể Cúc lạnh nhạt hẳn. Nhưng Thể Cúc không nhận ra. Nàng đang đắm mình trong rung động đầu đời, lúc nào cũng lơ mơ như đang bay trên mây.


Cuối tháng, phu nhân lại được một trận khóc đau đớn. Tin từ bên phủ Tuy Thạnh quận công Trương Đăng Quế báo sang: Quận công bệnh đã trầm trọng, nhất quyết xin về quê Quảng Ngãi. Hoàng đế giữ nhiều lần không được, đành phải chuẩn y cho phép.


Phu nhân nghe tin lật đật lên kiệu, đến thăm cha. Trương Đăng Quế trong người đang đau nhức, nghe nói con gái sắp đến, vội bảo người hầu lấy cho ông liều thuốc phiện giảm đau. Ông muốn tỏ ra an lạc khi gặp con, rất có thể là lần cuối cùng.


Vào gặp cha, phu nhân chỉ còn biết nức nở. Trương Đăng Quế cố gắng mỉm cười:


- Thúy Nương, người ta trên đời ai ai rồi cũng chết. Kể cả đứa bé đang nằm trong nôi, rồi cũng không khỏi đến lượt phải ra đi. Vậy sống phút nào hãy vui vầy với nhau phút ấy. Chưa biết cha còn gặp lại con trong kiếp này hay không! Vì vậy con đừng khóc… Cha con mình chỉ còn giờ khắc này với nhau thôi.


Phu nhân ôm mặt khóc ngất:


- Cha ơi! Sao cha không ở lại kinh thành, để chúng con còn được thăm viếng hỏi han, lo thầy chạy thuốc cho cha. Về chi trong Quảng xa xôi, lỡ khi cha đến lúc ngặt nghèo, làm sao chúng con chạy đến cho kịp…


Trương Đăng Quế gượng trở mình:


- Cha từ nhỏ đã theo trai tráng trong quê đi săn bắn trên núi rừng Trà Bồng, thường thấy dấu chân hổ! Cũng có lần thấy hổ chực vồ, rồi có khi thấy hổ sa bẫy, nhưng chưa bao giờ thấy con hổ chết già rục xác. Ấy là vì nó rất kiêu ngạo, khi biết mình sắp đến phút chót, liền đi ngược hướng núi, tìm một nơi sơn cùng thủy tận để trút hơi thở cuối, không để ai chứng kiến ngày tàn. Nay cha cũng vậy. Con hãy hiểu chí cha, đừng nên thảm thiết, để cho cha vui vẻ ra đi.


Phu nhân nghe cha nói vậy, đành nuốt nước mắt, cố nén cơn thổn thức. Đăng Quế ân cần hỏi han con gái về chuyện nhà. Phu nhân dần dần thổ lộ nhiều nỗi lo, mà cái lo buồn lớn nhất hiện nay là chuyện nhân duyên của Thể Cúc.


 - Đức ông nhà con cứ nói để đó rồi sẽ phân xử. Con cũng tin lời, cứ chờ xem Đức ông phân xử ra sao. Không ngờ người lại quyết định gả luôn Thể Cúc cho anh đồ kiết ấy. - Phu nhân kể lể.


Đăng Quế an ủi:


- Trước kia cha thường lui tới hội thơ ở phủ Tùng Thiện, cũng có biết tên Trưng. Tay này văn hay chữ tốt, lại có khí phách. Ngày xưa, cha xuất thân chỉ là một chàng trai nghèo, còn mẹ con là quận chúa cành vàng lá ngọc, nhưng ăn ở với nhau đến nay đã đầu bạc răng long, cũng chưa thấy có gì là không xứng! Trai gái đã thương nhau, nếu không phạm điều gì cấm kỵ thì nên tác thành cho chúng. Kẻo rồi có ngày lại sinh oán...


- Dạ, chúng là con, oán làm sao được ạ?


Trương Đăng Quế thở một hơi lấy sức rồi tủm tỉm cười:


- Được chứ, rồi một ngày kia chúng sẽ than trách: “Xưa kia ai cấm duyên bà? Bây giờ bà già, bà cấm duyên tôi!”


Phu nhân ngượng ngùng cúi đầu, biết phụ thân đang nhắc khéo chuyện ngày trước. Hồi ấy khi còn thiếu nữ, Thúy Nương thường cải nam trang theo cha đến hội thơ của Tùng Thiện công, hai bên xướng họa rồi mới bén duyên từ đó.


Vì có lời ấy của Trương Đăng Quế, phu nhân mới bắt đầu xuôi theo ý chồng. Qua tháng sau, công phủ gửi thiệp cho các danh gia trong kinh thành, chính thức gả con gái cho Đoàn Trưng. Khác với đám cưới Gia Phúc hoãn nhiều lần vì thời cuộc, đám cưới Thể Cúc được tổ chức gấp rút để tránh cái tang ông ngoại đang rập rình trước mắt.


Một ngày đầu thu, pháo nổ tưng bừng từ trong Tiêu Viên ra tới cổng chính công phủ, đưa Thể Cúc xuống thuyền hoa. Vì nhà họ Đoàn nhất định không chịu gửi rể, nên Thể Cúc phải về làm dâu ở làng An Truyền.


Đêm tân hôn, đôi vợ chồng trẻ nằm bên nhau lần đầu, trong gian buồng cưới nhỏ hẹp. Đoàn Trưng nhè nhẹ vỗ về lưng vợ:


- Từ nhỏ nàng ở trong phủ đệ, nay vào làm dâu nhà tranh vách đất, thương lắm!


Thể Cúc cảm động, dưới ánh nến mắt nàng lấp lánh. Gian buồng mới được tô sửa lại, bốn bức phên tre còn thơm mùi vôi mới. Nàng rón rén gối đầu lên cánh tay Trưng, nhỏ giọng tỉ tê hát:


- Lấy chồng… thì phải theo chồng,


Chồng đi đường rắn, đường rồng cũng đi…


Đoàn Trưng cười. Giọng Thể Cúc rất trong trẻo. Tính nàng nhu mì, e thẹn, rất ít nói. Nhưng nàng thích hát, và quen thổ lộ bằng tiếng hát. Chàng vòng hai cánh tay ôm lấy nàng thật chặt, rồi cũng rù rì hát trêu bên tai vợ:


- Con vua... lấy thằng bán than,


Nó đem lên ngàn, cũng phải đi theo!


Thể Cúc bật lên cười khúc khích, nàng nũng nịu vùi mái tóc thơm mùi hoa bưởi vào ngực chồng. Đoàn Trưng sung sướng, nhẹ nhàng vuốt ve từ mái tóc đến đôi tai nhỏ, rồi đôi má mịn màng thơm mùi trinh nữ... Những ngón tay chàng âu yếm lướt quanh hai cánh mũi thanh thanh, lúc này đang phập phồng hơi thở nóng hổi.


Chàng thấy thân thể mình cũng nóng lên, như có ai vừa đốt than dưới chiếu. Cả hai đã mong chờ giây phút này từ lâu, lâu lắm rồi.


Chương 16


Chín người, mười ý


Trong Tổng hành dinh của Pháp súy Sài Gòn, Đô đốc Bonard vừa đọc công văn từ quan tổng đốc Vĩnh Long gửi đến.


- Đã ký nhượng ba tỉnh trên mực đen giấy trắng, rồi giờ lại đòi lui! Việc nghị sự giữa hai quốc gia đâu phải trò chơi con nít? - Bonard kêu lên - “Hoàng đế không chịu chấp nhận” sao? Vậy đích thân ta sẽ nói chuyện với Hoàng đế! 


Bonard nói xong, liền đích thân đáp tàu chiến thẳng ra kinh đô.


Họng súng của tàu Tây từ cửa Thuận An chĩa thẳng vào kinh thành Huế, lúc ấy đang gần như trống rỗng về mặt phòng thủ. Binh hùng tướng mạnh đang tập trung cả ở miền Bắc đối phó với giặc dữ Tạ Văn Phụng. Hoàng đế Tự Đức buộc lòng phải đích thân ký xác nhận vào hòa ước. Sự uất ức làm miệng ngài đắng chát.


Khi ngẩng lên, ngài thấy Bonard đang cười mỉa mai, nụ cười nửa miệng đặc trưng của người Âu châu. Ngài buông bút, có thể nói là ngài gần như vứt chiếc bút lông vào nghiên son - nhìn thẳng mặt y, dõng dạc:


- Trẫm sẽ cử người đi đến tận Paris, và sẽ thương thuyết với chính Hoàng đế Pháp.


Bonard nghe người thông ngôn dịch xong, đáp lại bằng một cái nhún vai: “Xin mời Bệ hạ!”


Vua Tự Đức không nói chơi. Bonard vừa về Nam, nhà vua lập tức cử một sứ đoàn sang Pháp. Người đủ khả năng để dẫn đầu sứ bộ, tất nhiên vẫn không ai khác ngoài Phan Thanh Giản.


Nhận mệnh vua, Phan mời Nguyễn Trường Tộ làm thông ngôn. Tộ nhất định từ chối:


- Ký xong hòa ước, tạm ngừng binh đao, lẽ ra triều đình phải tức thì dồn công, dồn của để canh tân. Đấy mới chính là ước nguyện của Tộ khi khuyên đại nhân chịu hòa. Nay không nghĩ gì đến canh tân, mà cứ phí công, phí của đi kêu đòi cái không thể được. Lẩn quẩn như múa tay trong bị, vậy có phải uổng cho cái chữ Dũng mà đại nhân đã liều cả danh tiếng lẫn tính mạng để dấn thân?


- Ta vẫn biết thế, nhưng lệnh vua há dễ không tuân? Hoàng thượng nhất định chuộc đất cho bằng được, với mọi giá! Ngài bắt ta phải đi, phận làm tôi chỉ còn biết hết lòng phụng sự. Vả lại, mười phần chẳng lẽ không có ba bốn phần hy vọng?


- Việc chính trị há có thể làm theo cách cầu may? Đã thua một canh bạc Kỳ Hòa quá lớn, nay lại muốn đánh thêm canh bạc ở Paris? Số tiền to bỏ ra để đi sứ, để xin chuộc đất, để mua sắm tặng phẩm, tiền ấy đủ cho ta làm được nhiều việc lắm! Tộ chỉ cần đủ kinh phí để xây dựng một trường kỹ thuật, gầy dựng một tờ báo, là đủ cho một sự thay đổi đáng kể!


- Việc canh tân lại đơn giản thế sao? - Phan Thanh Giản hoài nghi.


- Nước mình còn nghèo. Đơn giản nhưng đúng hướng, đó là cách khởi đầu vững chắc cho một đại nghiệp! - Mắt Nguyễn Trường Tộ sáng lên - Đại nhân thấy đó, ta thua Tây là thua tàu, thua súng, thua hàng hóa, thua kỹ thuật chiến tranh của họ. Vậy phải làm sao có những thứ đó? Phải dạy kỹ thuật! Dù ta chưa đúc được súng, làm được tàu, phải đi mua, thì ít nhất cũng phải có người biết sửa chữa, sử dụng! Muốn hợp nhất lòng dân thì phải có tờ báo, có báo chí thì cả nước mới hiểu biết về công cuộc chung. Không hiểu nhau thì mỗi người mỗi ý, kẻ nói chiến người nói hòa, đánh chửi lẫn nhau, ai cũng muốn làm vua làm soái, thì làm sao có sức mạnh được? Kỹ thuật và báo chí, đó là xác và hồn của sự tiến bộ. Vậy đó, từ cái nhỏ, ta sẽ dần dần gầy nên cái lớn!


Cái ánh sáng như lửa trong mắt Tộ phản chiếu một giấc mơ quá thiết tha, làm Phan Thanh Giản xúc động mạnh mẽ:


- Tuy thầy còn ít tuổi, nhưng tầm nhìn thật xứng ở chức Chính khanh! Thầy nói đúng lắm. Tiếc rằng cánh nho sĩ bảo thủ trong triều chiếm đa số. Phải chi… - Phan dừng ở đó, ngậm ngùi thầm nghĩ: “Trường Tộ không đắc dụng, là cái không may của y, mà cũng là cái không may của đất nước mình!”


Tuy không nhận lời làm thông ngôn, nhưng Nguyễn Trường Tộ giới thiệu cho Phan hai người rất giỏi hiện đang làm việc trong Pháp súy: Trương Vĩnh Ký và Tôn Thọ Tường. Đúng một năm sau ngày ký hòa ước Nhâm Tuất, hai ông Ký, Tường theo sứ bộ Việt Nam xuống tàu Européen sang Pháp.


Sứ bộ đi rồi, Nguyễn Trường Tộ trằn trọc nhiều đêm không ngủ.


- Thưa Đức cha, theo Đức cha thì sứ bộ An Nam sang Pháp lần này có hy vọng gì không? - Trường Tộ hỏi Giám mục Lefèbre: không ai có nhiều thông tin về nước Pháp như ông.


Ngài Lefèfbre, mà giáo dân thường gọi là Đức cha Ngãi, đã hai lần bị triều đình Huế kết án tử hình, may mắn thoát được. Đáp lại câu hỏi của Tộ, cha Lefèbre nhướng mắt:


- Có chứ, có thể lắm!


- Thực sao, thưa Đức cha? - Nguyễn Trường Tộ ngạc nhiên.


- Ở Pháp hiện nay chính trường chia làm hai cánh tả và hữu, chắc cậu đã biết đó. Phái của Bộ trưởng Hải quân Chasseloup Laubat thì cương quyết ủng hộ cuộc viễn chinh. Nhưng phái của ông Achille Fould, Bộ trưởng tài chính, lại đang kêu ca rất dữ về chi phí đã bỏ ra…


- Thưa cha, chi phí ấy là bao nhiêu?


- Chỉ trong hai năm 1860 và 1861, là 117 triệu quan, cùng với sinh mạng của hơn hai ngàn người Pháp! Vấn đề là, có thể sẽ còn tốn thêm tiền, và tốn thêm máu nữa…


- Vậy là vẫn có hy vọng Hoàng đế Pháp sẽ ngả về phía phe tài chính? Và sẽ cho triều đình An Nam chuộc đất?


- Có chứ! Bộ tài chính nắm giữ tiền, tiếng nói của kẻ nắm tiền bao giờ cũng đầy trọng lượng. Đồng tiền của César luôn có sức mạnh thuyết phục của quỷ dữ, cậu biết đó. Nếu sứ thần An Nam khôn khéo, thì quỷ dữ sẽ chiến thắng! Nhưng ta hy vọng điều tồi tệ đó không xảy ra! Ta không tin ông già Phan làm nổi chuyện đó!


Giám mục Lefèbre nhún vai, chấm dứt câu chuyện bằng một vẻ mặt khinh thị.


Nhưng Nguyễn Trường Tộ lại cảm thấy hy vọng. Điều tồi tệ đối với Giám mục, chính là điều mong đợi của người Việt.


Mười tháng sau, sứ bộ Đại Nam trở về. Trái với dự đoán của Giám mục Ngãi, Phan Thanh Giản đã thành công. Pháp hoàng Napoléon đệ tam đã đồng ý cho xứ An Nam chuộc đất ba tỉnh miền Đông Nam kỳ với số tiền 80 triệu quan. Báo cho Tộ biết cái tin nóng sốt ấy, Giám mục nhún vai: “Dù sao cũng không quá tệ. Vì đổi lại, phía triều đình Huế phải đồng ý cho phép đạo Gia Tô truyền giáo, và phải chấp nhận cho Pháp sử dụng cảng Sài Gòn.”


Hai tháng sau, chính phủ Pháp cử Trung tá Hải quân Aubaret đến Huế để chính thức hỗ giao những điều đã cam kết ở Paris. Cuộc bàn luận chi tiết bắt đầu.


Hóa ra, cả Giám mục Lefèbre và Nguyễn Trường Tộ đều đã mừng quá sớm.


∞∞∞∞∞∞


Khi sự việc đã đưa đến kinh đô, rất nhiều rắc rối nảy sinh.


Kết quả đàm phán ở Paris, sứ bộ Đại Nam đã phải nỗ lực lắm mới giành được. Ai cũng tưởng việc này sẽ làm cho triều đình và sĩ dân rất hân hoan, hóa ra, lại không làm ai thỏa mãn cả.


Cuộc hội đàm diễn ra ở phía Nam sông Hương. Đại diện Pháp là Trung tá Aubaret; Phía Đại Nam, vua cử  Phan Thanh Giản làm Toàn quyền đại thần, thay mặt triều đình đàm phán về số tiền chuộc đất.


Trong lúc ấy, ở hoàng cung, ngày ngày các mật sớ liên tiếp được dâng lên Hoàng đế.


Từ Nghệ An, Tổng đốc Hoàng Tá Viêm dâng thư phản đối:


“Xin Hoàng thượng xem xét: Phan Thanh Giản trước đã đem ba tỉnh dâng nạp cho Tây. Nay lại nhân cớ chuộc ba tỉnh, để xin cho Tây tự do truyền đạo. Việc đó còn tệ hơn việc mất đất, quyết không chấp nhận được. Nếu ngại Tây tặc khó dễ thì xin Hoàng thượng tạm nhận lời với họ, nhưng hẹn đến hai mươi năm sau sẽ thi hành. Sau này khi thuận tiện, sẽ tìm cách bác đi. Nếu không, thần e là loạn đến trước mắt!”


Hoàng đế Tự Đức xem sớ, cau mặt. Hoàng Tá Viêm là võ tướng, không hình dung được cái khó trên bàn đàm phán. “Tây tặc có phải trẻ con đâu mà dễ hứa hẹn? Nói thì dễ, làm thì khó!” Nhà vua buông tờ sớ xuống án thư, thốt lên.


Thái giám Trung Lương se sẽ đến gần, hạ giọng:


- Tâu Hoàng thượng, đã canh tư rồi, xin Hoàng thượng nghỉ ngơi. Thái hậu đã có dặn tiểu thần, không được để cho Hoàng thượng lao lực quá mà tổn thương đến mình rồng.


Hoàng đế Tự Đức ngẩng lên, nhớ ra: đèn trong Ngự thư phòng chưa tắt thì bên cung Gia Thọ, Thái hậu vẫn còn chưa ngủ. Tuy vậy Ngài vẫn gắng nán thêm một chút.


- Trung Lương, sớ này của Công tử Hồng Tập, ngươi hãy đọc cho ta nghe.


Cái này là sớ tấu của người trong hoàng tộc, chắc chỉ là việc rắc rối gì đó trong nội bộ thân thích mà thôi. Nhà vua nghĩ vậy, nên  ngài mới sai Trung Lương đọc cho đỡ mỏi mắt.


“Tâu Hoàng thượng! Phan Thanh Giản thực tâm bán nước, không phải là người nhà Nguyễn ta có thể tin dùng. Khẩn xin Hoàng thượng đừng nghe lời y. Đạo Gia Tô là đạo vô quân vô phụ, việc cho phép truyền đạo sẽ làm loạn xã tắc. Lấy lại được ba tỉnh mà xã tắc loạn, thì hỏi có ích gì?


Thần nay một mảnh lòng son, tận trung báo quốc, quyết giữ cho được giang sơn của nhà Nguyễn ta. Xin Hoàng thượng cho thần đem quân giết sạch bọn cố đạo và dân đạo tại các làng Kim Long, Phú Cam, An Truyền, Dương Sơn. Sau đó sẽ tỏa đi giết hết bọn tà giáo ở các tỉnh. Chúng đã bị tận diệt rồi, thì Tây tặc không vin vào cớ gì để gây sự với nước ta được nữa…”


- Thôi, đủ rồi! - Nhà vua thở hắt ra, rũ áo đứng dậy.


Trung Lương vội bỏ sớ xuống, lật đật theo vua vào trong nội tẩm.


Trong tẩm cung, Thiện phi đang nóng lòng chờ vua. Thấy vắng vẻ không ai ngoài thị nữ Tố Quỳ thân tín, Thiện phi rón rén bước tới sát bên cửa Ngự thư phòng, áp tai vào lá màn nghe ngóng.


Chợt nghe tiếng nhà vua đứng dậy, nàng vội vàng lui thật nhanh, gần như nhảy tót vào chỗ ngồi của mình. Sửa dáng dấp rất đoan trang, nàng đứng lên chào đón.


Trung Lương ra rồi, Tố Quỳ cũng lui ra, trước khi lui không quên nháy mắt kín đáo nhắc nhở nữ chủ. Thiện phi cũng kín đáo gật đầu.


Nhẹ nhàng, nàng đỡ đầu vua gối vào lòng mình, xoa những vết hằn trên trán vua. Vừa vỗ về, nàng vừa khe khẽ hát. Nhà vua cảm thấy dễ chịu hẳn, ngài nắm lấy tay ái phi.


Lúc nấp bên ngoài thư phòng, Thiện phi đã nghe Trung Lương đọc sớ của Hồng Tập. Nàng thấp thỏm nóng lòng muốn biết ý vua, nhưng chưa dám hỏi. Vừa may, nhà vua bỗng lên tiếng, như muốn chia sẻ bớt gánh nặng trong lòng:


- Trẫm ngày trước thích đi săn chim, thường đem các loại chim rừng về biếu mẫu hậu. Cũng tưởng mẫu hậu sẽ sai người làm món lạ miệng, ai ngờ mẫu hậu đem những con đang bị thương ra bôi thuốc cứu chữa rồi thả đi hết. Sau biết vậy, Trẫm cũng không còn thích săn chim nữa… Đối với loài cầm thú, còn nên nương tay thương xót, sao lại có người như Hồng Tập, một tiếng xin giết hai tiếng xin giết, không thấy ghê đầu lưỡi hay sao?


Thiện phi hơi chột dạ, nàng nghĩ đến cha mình là Tổng đốc Nguyễn Đình Tân. Hôm qua theo lời nhắn của mẹ, nàng đã sai Tố Quỳ về nhà. Tổng đốc Nguyễn Đình Tân vừa từ Nghệ An bí mật về kinh đô. Nghe Tố Quỳ thuật lại lời nhắn của ông, Thiện phi buột miệng:


- Chỉ có thế, lẽ ra cha ta chỉ cần gửi thư về là được. Tại sao phải lặn lội về Kinh, lỡ không may Hoàng đế biết được thì tội chẳng nhỏ.


Hay còn việc gì khác mà mình không biết? Thiện phi không khỏi âm thầm thắc mắc.


Bây giờ, nhớ lời cha dặn, nàng làm như vô tình:


- Hồng Tập là ai mà hiếu sát vậy, thiếp nghe mà cũng thấy ghê!


- Hắn là con của hoàng thúc Miên Áo đó! Hoàng thúc là người đức cao vọng trọng, Trẫm vẫn kính nhất trong các ông chú. Mỗi lần tế lễ, mà gặp lúc Trẫm mệt không đứng tế được, đều nhờ hoàng thúc đứng thay.


- À, vậy thì thiếp nhớ ra rồi! - Thiện phi đánh bạo đi ngay vào đề: - Ô, sao thiếp thường nghe người trong cung bảo nhau, Hồng Tập là người nghĩa khí, dũng cảm lắm! Tập muốn giết là giết bọn dân đạo, chứ có phải là giết người đâu.


Câu nói này có thể làm cho người ta lạnh gáy, nhưng do thốt ra từ đôi môi xinh đẹp, bằng một giọng rất thơ ngây, nên nó chỉ làm cho Hoàng đế Tự Đức bật cười. Ngài vuốt má ái phi:


- Dân đạo không phải người sao? Không phải dân của trẫm sao? Nàng nói nghe hay thật!


- Dạ, dân đạo chỉ biết chúa trời không biết vua, lại không biết thắp nhang cho ông bà cha mẹ. Đã không thờ vua, không thờ cha, thì đâu phải là người nữa ạ.


- Nàng nói cũng có chỗ đúng. Trẫm cũng không muốn cho đạo Chúa lan truyền, làm hại phong hóa. Vì vậy mới xuống dụ cấm. Nhưng cấm tức là răn bảo, kiềm chế thôi! Không ngờ các quan làm quá tay, đổ máu quá nhiều. Trẫm đã dụ cho ngưng ngay việc giết đạo. Dù sao đi nữa, trẫm không thích việc chém giết.


- Hoàng thượng! Các quan cũng chỉ vì một lòng trung nghĩa nên mới ra sức lập công. Như cha của thiếp, vì hăng hái tỏ lòng trung nên mới giết, mới giam nhiều như thế. Bây giờ lệnh triều đình bỗng quay ngược lại, bắt thả hết dân đạo, thì nguy hiểm cho tính mạng của cha thiếp lắm! Bởi cha mẹ vợ con chúng trước đây bị diệt, nay chúng ra tù nhất định sẽ báo thù… Xin Hoàng thượng rủ lòng thương! - Thiện phi thấy không còn cách nào nói gần nói xa, nên đành nói thẳng, vừa nói vừa van lơn, nước mắt lưng tròng.


Hoàng đế Tự Đức vừa hơi thư thái được một chút, lại có việc phải suy nghĩ. Ngài nhăn trán, thở dài.


- Nàng muốn kêu cầu việc gì đây, hãy nói cho rõ. Thấy nàng khổ tâm, trẫm thực không đành lòng.


- Dạ, cúi xin chuẩn cho riêng hạt Nam Định, tạm thời đừng thả dân đạo ra khỏi tù. Cả ngàn dân đạo được sổng tù, thì cha thiếp làm sao ngồi yên trong công đường được! Mà vì đâu cha thiếp mang thù chuốc oán, chẳng qua là vì tận trung với nước, với vua!


Nhà vua nằm im, lòng nặng trĩu. Thiện phi nằm cạnh, vừa thút thít khóc, vừa thỉnh thoảng khẽ ngóc đầu liếc mắt, dò xét động tĩnh trên mặt vua.


 Lát sau, Hoàng đế lên tiếng:


- Nàng là người con chí hiếu, biết lo cho cha, như vậy là đáng quý. Trẫm thương nàng lắm! Thôi, không việc gì phải lo buồn, rồi cha nàng sẽ an toàn không sao cả.


- Dạ… - Thiện phi sụt sịt, trong lòng hồi hộp mừng.


- Dân đạo tuy thả ra, nhưng đã có luật vua phép nước, chúng nó không dám báo thù đâu. Trẫm cũng biết, đã thả tù thì phải trả lại tài sản tịch thu khi bắt tù. Nhưng cái đó là phép công, không thể khác được.


Thiện phi nghe đến đó, đang nhấp nhổm chợt ngả ngửa ra gối, lặng người vì thất vọng.


∞∞∞∞


Suốt trong tháng sáu năm ấy, cuộc đàm phán giữa Aubaret và triều đình Huế cứ kéo dài. Hoàng đế Tự Đức chỉ chấp nhận tha hết dân đạo, chứ không chịu cho tự do truyền giáo. Ngài bảo Phan Thanh Giản:


- Khanh nên biết, mọi người không bằng lòng đâu, trẫm đã chịu nhiều áp lực khi đứng về phía khanh!


Phan Thanh Giản nhìn nhà vua. Ông thấy thương người đàn ông trẻ đang ngồi trước mặt. Người đàn ông hiền lành, lương thiện, bị đặt vào một định mệnh lịch sử quá khắc nghiệt. Ông thấy thương vua, thương dân và thương cả thân mình. Trên vai ông, một gánh quá nặng, trong gánh nặng này ông rất cô đơn.


- Tâu Hoàng thượng, người Xiêm họ vẫn cho đạo Gia Tô tự do truyền giáo. Họ không vì vậy mà bại hoại phong hóa, ngược lại họ còn có thêm nguồn lực mới. Các giáo sĩ đạo Gia Tô có sự hiểu biết rộng rãi mà đa số nho sĩ của ta không có. Nếu ta biết sử dụng thì sẽ có ích rất nhiều.


- Trẫm biết là khanh nói đúng. Nhưng than ôi, Hoàng Tá Viêm, Trương Văn Uyển, Tôn Thất Đính, Nguyễn Đình Tân không nghĩ như trẫm. Và, khanh biết đó, bọn họ đều đang cầm quân.


- Tâu Hoàng thượng, tất cả những người đó đều đã thề trung thành và nghe lệnh Hoàng thượng!


- Đúng như vậy, họ trung thành với trẫm. - Nhà vua có vẻ như đang nuốt một thứ gì rất đắng: - Nhưng họ chiếm số đông, nên chỉ trung thành với trẫm chừng nào trẫm còn hành động theo ý họ!


Phan Thanh Giản hiểu. Những đạo quân và những vị quan tướng ấy, tất cả hợp lại không đủ sức chống Tây, nhưng lại đủ sức lật đổ Hoàng đế.


- Tâu, vậy Nguyễn Tri Phương thì sao? - Phan Thanh Giản hỏi, như muốn tìm kiếm một hy vọng cuối cùng.


- A, khanh hỏi rất hay. Trẫm sẽ nói cho khanh nghe đây: chính Nguyễn Tri Phương là người phản đối khanh nhiều nhất!


- Thật sao, tâu Hoàng thượng?


Hoàng đế Tự Đức không tiện nhắc lại trước mặt Phan lời tâu của Nguyễn Tri Phương trước khi lên đường ra Bắc. “Tâu Hoàng thượng, Phan Thanh Giản nói sau khi hòa, sẽ lo xây dựng cho đất nước ngày càng giàu mạnh. Nhưng theo ý thần, hòa rồi thì chỉ có càng ngày càng nghèo đi thôi, làm sao mà giàu mạnh được?”


Cũng vì bất đồng ý kiến với Phan Thanh Giản, mà Nguyễn Tri Phương đã thoái thác không đem quân về Kinh khi Hoàng đế Tự Đức cho vời. Lấy cớ giặc biển đang còn hơn hai ngàn tên chạy về Quảng Yên, ông cứ đóng quân ở miền Bắc không chịu rút về Huế. Với những ký ức cay đắng từ  trận Kỳ Hòa, ông khó lòng mở mắt nhìn cảnh sứ Tây ngồi ngay giữa kinh đô.


Tuy vậy, tự đáy lòng ông không yên: lực lượng quân đội ở kinh thành khá mỏng, Hoàng đế đang chơi vơi giữa rất nhiều thế lực thúc ép… Từ miền Bắc, Nguyễn Tri Phương sai người đưa thư dặn hai con trai.


 “Tình hình hiện nay đang rối ren, lòng người náo động, ta e rằng không khỏi có kẻ lợi dụng sự uất ức của sĩ dân để mưu tính việc riêng. Ta dặn hai ngươi, nếu vạn nhất kinh thành có biến thì phải phân biệt trắng đen, giữ gìn danh dự của gia môn. Bằng mọi giá phải phò tá Hoàng thượng, tận trung báo quốc.”


Nguyễn Lâm lúc ấy đang chuẩn bị khăn gói lên đường ra Bắc theo cha đánh giặc. Nhận được thư, chàng bối rối không biết tính sao, nên đi hay nên ở.


Chương 17


Công chúa làm dâu


Phu nhân Nguyễn Tri Phương thì mừng lắm. Lâu nay bà năn nỉ mãi: “Con vừa đẹp duyên với công chúa, nay sao lại bỏ bê vợ đẹp mới cưới mà đi? Trong cung trách phạt thì cha mạ lại mang tội!”


- Mạ cứ lo tào lao! Con theo hầu cha là tròn chữ hiếu. Nam tử trượng phu ra đánh giặc là vẹn chữ trung. Hiếu trung con không lỗi đạo, ai dám trách phạt? -  Nguyễn Lâm vừa trấn an mẹ, vừa thích chí nghĩ thầm: “Còn con mụ chằn kia, hắn có trách thì cứ việc tha hồ trách!”


Phu nhân Nguyễn Tri cũng biết thừa Thái hậu chẳng bao giờ trách phạt. Chẳng qua bà không muốn con đi xa, vì một nỗi sợ âm thầm: sợ khi con trai vắng mặt, thì mình sẽ hụt hẫng đến chừng nào trong mối quan hệ mẹ chồng con dâu. Từ khi đón “bà chúa” về, đến nay đã hơn nửa năm, phu nhân vẫn còn e ngại khi đến gần Gia Phúc.


Phần Gia Phúc cũng chẳng thấy thoải mái gì hơn. Sau cái đêm nàng đạp cho Nguyễn Lâm té xuống giường đến nay, chàng chưa từng một lần quay lại chiếc giường cưới. Lâm rất siêng năng luyện võ, liền kề với phòng ngủ của chàng là một kho binh khí. Trong kho, ngoài cung kiếm gươm đao, còn có một tủ đựng sách binh thư. Chàng cho treo võng cạnh tủ để ngày ngày nằm đọc cho thoải mái. Đọc một hồi, nếu mỏi mắt thì ngủ luôn cho tiện.


Bây giờ Gia Phúc ngủ trên giường, còn Lâm thì tối tối vẫn vào phòng đóng cửa, xong lại theo cửa nách sang kho vũ khí, ngủ cả đêm trên võng. Trong dinh không một ai, trừ vú Nhự và Cúc Tần, biết được chuyện phò mã ngủ riêng.


- Thái hậu đã căn dặn “xuất giá tòng phu”, công chúa không nhớ sao? Dù công chúa là em vua nhưng vẫn là phận vợ, nên chịu khó nhún nhường một chút!


 Nghe vú Nhự năn nỉ ỉ ôi, Gia Phúc hỉnh mũi:


- Phận vợ cái gì, hắn cần ta, chứ ta không cần hắn. Đã thích nằm võng, thì cho nằm võng cả đời luôn, ta càng khỏe! - Gia Phúc ương bướng chẳng thèm để tai, vì nàng cũng đang bận loay hoay với những rắc rối của riêng mình.


Trong khuôn viên dinh Đại tướng, nhà hai anh em Nguyễn Ngọc - Nguyễn Lâm đối mặt nhau, cách một mảnh sân vườn, cây cảnh xanh um. Hai ngôi nhà đều ba gian hai chái, tường vôi mái ngói y hệt nhau, nhưng do hai nàng dâu xuất thân khác nhau nên cũng có vẻ ngoài rất khác biệt.


Bên nhà Nguyễn Ngọc, quang cảnh vắng lặng êm đềm. Ngọc theo nghề văn, dáng người nho nhã hiền lành. Đại tướng và phu nhân chủ ý cho Ngọc đi theo nghiệp chữ nghĩa, bởi thời ấy quan niệm “trọng văn khinh võ” đang thắng thế trong triều đình và cả ngoài dân gian. Ngọc thi Hương hai khoa chưa đậu, vẫn tiếp tục dồi mài kinh sử. Ngày ngày chàng giam mình trong nhà, đọc sách ngâm thơ, thỉnh thoảng lắm mới ra ngoài đi dạo một vòng ngắm hoa kiểng quanh sân.


Vợ Ngọc là con gái Tú tài họ Trịnh ở làng Đường Long. Thường nho sĩ đi thi phải đậu Cử nhân trở lên mới được bổ làm quan, đậu Tú tài chỉ có cái danh để làm thầy đồ dạy học. Tú tài họ Trịnh khi còn trẻ là bạn thân thiết của Nguyễn Tri Phương, từ khi vợ có thai, hai ông đã đính ước sẽ làm thông gia sau này. Thời gian qua mau, Nguyễn Tri Phương trở thành đệ nhất mãnh tướng của triều đình, làm đến Đại thần cố mệnh, có thể nói là tột đỉnh công danh. Tú tài họ Trịnh thì vẫn là ông đồ nghèo ở làng quê, có tiếng mà không có miếng. Tự biết chênh lệch hoàn cảnh nên ông cũng không nhắc đến lời hứa năm xưa nữa. Tuy vậy, đại tướng và phu nhân vẫn ghi nhớ lời ước cũ.


Thanh Lam, con gái họ Trịnh về nhà chồng, thờ chồng như thờ thánh. Với mẹ chồng, nàng càng cúc cung tận tụy. Dù nhà đã có người hầu, nhưng sáng sớm cứ đầu giờ Mẹo là nàng đã dậy, đích thân xuống bếp quạt than. Nguyễn Tri phu nhân vừa thức dậy đã có sẵn nước ấm rửa mặt, rồi khay trà thơm tho sẵn sàng dâng lên. Trong khi đó bên nhà đối diện, Gia Phúc còn ngủ say chưa tỉnh. Đến khi nàng trở dậy, bốn ả thị nữ liền xúm xít hầu hạ, chạy ra chạy vào chộn rộn cả một góc vườn. Khăn lược chải chuốt xong thì nắng đã lên cao, nàng đủng đỉnh bước lên nhà trên chào hỏi.


 - Con xin chào mẹ, em xin chào chị dâu Cả. - Gia Phúc chắp tay, nghiêng mình, nói theo đúng bài bản vú Nhự đã dặn.


Thanh Lam đang têm trầu cho mẹ chồng, vội đặt miếng trầu xuống, chắp tay vái. Cả Nguyễn Tri phu nhân cũng đứng dậy. Vốn là người nói năng mộc mạc, phu nhân lúng túng một lúc không biết nói gì, lát sau mới mỉm cười hiền lành:


- Xin rước bà chúa ngồi dùng trà!


Gia Phúc suýt nữa ngồi xuống sập, may có vú Nhự theo sau nắm chặt lấy áo nàng, níu không cho nàng ngồi xuống. Nàng ngạc nhiên quay nhìn, rồi chợt hiểu khi vú kín đáo liếc về phía Thanh Lam. Hây da, chị dâu trưởng còn đứng hầu mẹ, mà mình lại ngồi, vậy chắc là không ổn á? Gia Phúc nhủ thầm. Vậy là nàng cứ đứng đó, không biết làm gì cho phải, lát sau mới nghĩ ra được một câu:


- Xin mẹ ngồi xuống cho khỏe.


Phu nhân cười, ngồi xuống. Bà cũng loay hoay không biết nói gì với bà chúa dâu. Nói gì đây khi hai cuộc sống chẳng có điểm nào chung, và hai địa vị cũng thật khác biệt. Gia Phúc đứng hoài cũng thấy không ổn, nàng thấy rõ cả mẹ chồng và chị dâu lúc nãy đang trò chuyện rất tương đắc, từ lúc nàng bước vào bỗng mất tự nhiên, lúng ta lúng túng. Vậy là nàng nói vài câu chúc tụng lấy lệ, rồi lẹ làng rút lui…


- Sống ở đây buồn quá, Cúc Tần à. Toàn những người xa lạ… - Gia Phúc buồn rầu nhớ về những ngày sung sướng vô tư trong cung Gia Thọ. - Ở đây, ta chẳng khác nào cái tượng gỗ sơn son thếp vàng, dựng trong nhà cho đẹp cho sang. Thực ra không ai thích gần ta, không ai thích chơi với ta hết.


Cúc Tần cười hì hì:


- Tại công chúa không vui vẻ với phò mã nên mới ra nông nỗi. Phải có phò mã ở giữa thì ai nấy mới lần lần quen thân được chứ. Không có phò mã thì công chúa không liên quan dính dáng đến ai cả, cứ chơi vơi một mình mãi thôi.


Nghe Cúc Tần nói “chơi vơi một mình”, trúng vào nỗi tủi thân, Gia Phúc bất giác ôm mặt khóc rưng rức. Thấy vậy, vú Nhự cuống quít chạy ra đóng sập hai cánh cửa, không cho ai nhìn thấy. “Thôi, công chúa hãy nghe vú, làm lành với phò mã đi!”


Gia Phúc nức nở:


- Ta có lỗi gì đâu mà bảo phải làm lành?


- Thì đạp té phò mã đó, lỗi là chỗ đó.


- Ai bảo hắn làm ta nhột. Nhột quá thì ta phải hất ra chứ. Lẽ ra hắn phải xin lỗi ta mới đúng.


- Thôi, lỗi ai cũng vậy, công chúa chịu khó một chút. Đàn ông họ tự ái lắm. Mình làm đàn bà con gái, phải chịu thua nhường thì mới được thương nhiều.


Thua? Nhường? Mấy tiếng đó đối với Gia Phúc nghe sao mà xa lạ. Bữa ăn nào hai vợ chồng cũng phải đối mặt nhau, mà chẳng ai ừ hử một tiếng, thật là khó chịu hết sức.


Trưa hôm ấy thị nữ dọn cơm có món cá hồng chiên rất ngon. Gia Phúc theo lời vú Nhự và Cúc Tần xúi bảo, miễn cưỡng gắp một miếng cá bỏ vào chén cơm của Nguyễn Lâm. Lâm giật mình! Liếc lên, thấy mặt Gia Phúc vẫn lạnh tanh đầy vẻ cao đạo, chàng liền gắp miếng cá trả lại vào dĩa, lầm lì thốt ra một câu cụt lủn: “Ta không ăn cá!”


Gia Phúc cảm thấy bẽ mặt, hỉnh mũi nhìn sang bên, đã ghét thấy càng thêm ghét. “Ta đã làm lành rồi đó, mà hắn còn láo, thấy rõ ràng chưa?” - Sau bữa ăn nàng nói với Cúc Tần.


Thực ra một cử chỉ gắp cá ấy, tuy là cố gắng rất lớn của Gia Phúc, nhưng không đủ làm Nguyễn Lâm hết ức. Cái ức của chàng, kể ra thì còn nhiều lắm.


Lâu nay không đi ra Bắc được, chàng thường xuống An Truyền chơi với Đoàn Trưng. Nhìn thấy Thể Cúc đối đãi với Trưng mà chàng phát thèm. Từ lúc có vợ, Trưng trông tươm tất hẳn ra, quần áo sạch sẽ phẳng phiu, sắc mặt hồng hào hơn trước. Đúng thật là có người “nâng khăn sửa túi”.


“Công nữ phủ Tùng Thiện thật là dâu hiền, chịu thương chịu khó, biết ăn biết ở! Đệ thấy Đoàn huynh thật là có phước lắm!” - Lâm vừa vào nhà trong thăm Đoàn mẫu, chàng thấy Thể Cúc múc từng muỗng cháo đút cho mẹ chồng. Đoàn mẫu mù lòa, mắt nhắm chặt, miệng cười móm mém, tay vịn vào vai con dâu ra chiều vui sướng lắm.


“Ụa, làm dâu ai chẳng vậy?” Tư Trực nói, vô tình khoét sâu thêm nỗi bực tức trong lòng Lâm. Vậy là trên đời chỉ có con vợ Chằn của mình là lếu láo, chưa bao giờ pha cho mẹ mình được một chén trà. Mà thật vậy, sau vài bữa lớ ngớ, Gia Phúc thấy sự có mặt của mình chỉ làm cho mẹ chồng và chị dâu thêm lúng túng. Cuối cùng nàng lờ luôn việc vấn an buổi sáng, cứ việc ngủ cho đã mắt rồi dậy. Nguyễn Lâm thấy ngứa mắt hết sức: cái người gọi là vợ đó chẳng biết làm gì, tối ngày cứ đóng cửa, hết đọc truyện Tàu lại cùng mấy ả thị nữ xúm nhau đổ xâm hường giải khuây.


Nghe Lâm than thở, Đoàn Trưng cười, vỗ vai:


- Đã làm em rể vua, được mặc áo gấm, thì phải chịu khó hầu vợ đi chớ!


- Mặc áo gấm thì hay ho chi? - Nguyễn Lâm bực bội - Thà mặc áo vải mà nhẹ thân, khỏe đời!


Đoàn Châu đem rượu lên, nghe chuyện cũng dừng lại góp:


- Công tử lấy bà chúa, bà chúa tất nhiên không giống người thường. Sao bắt bà chúa dậy sớm thức khuya, cơm bưng nước rót cho nhà công tử được…


Tư Trực ngắt lời:


- Sao lại không được? Nhập gia phải tùy tục! Con ông đô đốc, quận công/ Lấy chồng cũng phải gọi chồng bằng anh. Vợ ra vợ, chồng ra chồng, từ xưa cổ nhân đã dạy: Nam như kim ngọc, nữ như ngõa thạch! Đàn ông là ngọc là vàng, đàn bà là gạch là đá thôi! Nguyễn huynh phải cương quyết chấn chỉnh gia pháp, ông bà ta đã nói rồi, Dạy con từ thuở còn thơ/ Dạy vợ từ thưở bơ ngơ mới về!


Nghe Tư Trực xổ hết văn thơ kim cổ về quyền làm chồng, Nguyễn Lâm càng lúc càng ỉu xìu.


- Dạy được còn may. Đệ mới nói vài câu, hắn đã lăn ra khóc lóc, nói đệ ăn hiếp hắn. Rồi sai thị nữ đi mách với Gia Hưng công, đòi xin Thái hậu cho hắn quay lại hoàng cung. Gia Hưng công lại viết thư nhắc nhở đệ. Vậy là càng lúc càng rối beng rối bét lên!


- Gia Hưng công quyền chi mà can thiệp! Đàn bà con gái đã gả chồng là quyền ở nhà chồng. Cho dù cha ruột cũng không được can dự, nói chi đến anh trai! - Tư Trực tức giận.


- Bởi vậy, đệ đâu thèm trả lời, để cho lão tự biết, tự nín!


Giọng Nguyễn Lâm trở nên hùng hổ, như muốn chứng minh cho Tư Trực biết mình cóc cần sợ ai, cho dù là công hầu vương tướng chi chi đi nữa.


Thật ra chàng rất sợ, sợ một người.


Đó là mẹ chàng. Dù chàng giấu kỹ chuyện đêm đêm ngủ trên võng, vẫn không qua khỏi con mắt của Nguyễn Tri phu nhân. Phu nhân gọi riêng con trai, rưng rưng nước mắt:


- Răng con không vui vầy với vợ con. Vợ chồng mà như rứa, không ổn mô!


Nguyễn Lâm dàu dàu nét mặt:


- Hắn là con tinh đầu đèo, chứ không phải con vợ!


Phu nhân giật bắn mình. Dân gian vùng Huế thường kể chuyện những người đi núi hay gặp mấy con yêu tinh nơi quãng dốc qua đèo. Những con tinh này vốn chết đi khi còn tuổi con gái, chúng tiếc nuối thời thiếu nữ nên lúc vắng thường hiện hình chải tóc soi gương, làm duyên làm dáng. Bởi vậy những cô gái điệu đà uốn éo thường bị rủa là “Đỏng đảnh như tinh đầu đèo”. Đó là một câu hàm ý chế giễu và miệt thị, nên phu nhân vừa nghe đã vội đưa tay bịt tai:


- Chết chết con ơi, răng con dám mạnh miệng nói bà chúa như rứa. Mang tội đó!


Nguyễn Lâm nhớ đến hình ảnh tươi xinh ngoan ngoãn của Đoàn Châu, cảm thấy không khỏi đau lòng. Chàng bặm môi:


- Mạ ơi! Nói thật với mạ, con vì chữ hiếu mới vâng lời phụ mẫu mà lấy hắn. Chứ con không ngủ với con tinh đó đâu, không bao giờ!


- Con nói con vì hiếu mà lấy bà chúa. Đã nói tới đạo hiếu, rứa con có nhớ là “Bất hiếu hữu đại…” cái chi chi đó… - Ý phu nhân muốn nhắc câu “Bất hiếu hữu tam, vô hậu vi đại”, nghĩa là có ba tội bất hiếu mà không có con là tội lớn nhất - Con không nằm với bà chúa, thì làm răng có cháu cho mạ bồng được?


- Mạ kỳ quá! Cứ ép con hết cái này đến cái khác! Con nói thật, hắn mà cứ bắc bậc làm cao, không chịu giữ lễ bưng trà cho mạ, thì con không đời nào coi hắn là vợ.


- Ui cha! Mạ tưởng chuyện chi! Mạ có cần ai hầu hạ mô! Ngay chị dâu cả của con, hắn cứ ưng thức khuya dậy sớm cho nhọc thân, chứ mạ có đòi hỏi mô? Mạ chỉ cần con ăn ở hòa thuận với vợ, rồi sớm sanh con đẻ cái nối dòng cho cha con. Ngủ với vợ thì có chi là khó, mà răng con đặt bày phiền phức như rứa?


Phu nhân nói thăn thỉ một lúc rồi nước mắt, nước mũi tuôn rơi, làm Nguyễn Lâm cuống cả lên, “Dạ, Dạ” liên hồi.


“Ngủ với vợ thì có chi là khó…” Nguyễn Lâm nghe lời mẹ, cũng muốn cho mẹ yên lòng, khổ nỗi cứ bước vào phòng, khép cửa là thấy đôi mắt ngang ngạnh của Gia Phúc chòng chọc nhìn, đầy vẻ khiêu khích. Chàng nhớ lời Đoàn Trưng: “Sợ vợ đạp, thì dùng thế Song cước tỏa liên châu khóa chân vợ lại, chú mi thật quá kém!” Lâm cũng định giở bài bản ra thực hành, nhưng lại không dám. Cái ý tưởng “không dám” ấy đè nặng trên tâm tư, làm chàng uất ức muốn điên.


∞∞∞∞


Thế rồi, bẵng đi một dạo, Gia Phúc thấy Nguyễn Lâm dường như bớt hẳn vẻ hậm hực tức tối. Mỗi lần chạm mặt nàng, Lâm cũng không buột ra những câu xóc óc gây sự nữa. Có vẻ chàng đã dồn hết tâm tư vào việc luyện võ.


Chiều chiều, nàng nghe tiếng bì bụp từ trong kho võ khí vọng ra. Bụp bụp bụp… Tiếng Nguyễn Lâm đấm vào bao cát, từng cú một, mỗi cú đấm mạnh đến rung cả bốn bức vách gỗ lim.


“Làm ra vẻ ghê gớm, thật ra còn thua cả con mèo!” Nàng trề môi nghĩ thầm. Mà đúng thật, con mèo mướp cưng của Gia Phúc mỗi lần bị nàng đẩy ra, nó lại sán đến bám chặt lấy chủ. Không phải như gã chồng này, mới hẩy nhẹ đã văng.


Cứ nghe bụp bụp hoài cũng sinh tò mò, đợi lúc Lâm ra ngoài, Gia Phúc khe khẽ đẩy cửa nách, bước vào trong kho. Ô, có phải bao cát tập võ đâu. Nói cho đúng thì cũng là một cái bao cát, nhưng phía trên có cắm cái đầu bằng vải nhồi rơm, điểm đôi mắt được vẽ rất to, đen nhánh. Một hình nhân, trước ngực có ghi chữ “Vợ”!


“Ủa, thì ra là… mình?” Gia Phúc sợ hãi hét lên, cảm thấy như có ai đấm “bụp bụp” vào ngay trước ngực. Nàng nghẹn thở, lảo đảo. Vú Nhự và thị nữ từ ngoài túa vào, rồi Thanh Lam, rồi cả Nguyễn Tri phu nhân cũng lật đật chạy xuống.


- Trời ơi, sao phò mã lại làm bùa yểm công chúa? Thế này thì có chết không? - Vú Nhự kêu khóc.


- Cái gì? Ta có phải thầy phù thủy đâu? Mà việc gì ta phải trấn yểm ai?


Nguyễn Lâm gân cổ cãi. Cúc Tần sưng sỉa:


- Không trấn yểm thì là cái gì đây, bằng chứng rõ ràng. Bắt được quả tang, phò mã lại còn đôi chối!


Nguyễn Tri phu nhân hoảng lên, bứt tóc, đấm ngực:


- Con ơi là con, con hại cha mạ rồi! Cha mạ biết làm sao cứu con đây?


Cái tin phò mã làm bùa ếm công chúa loan ra rất nhanh. Vú Nhự đành phải đem chuyện tâu lên Thái hậu.


Thái hậu buồn rầu:


- Khi gả Gia Phúc đi lấy chồng, ta cũng đã lo rồi sẽ rắc rối không yên. Nhưng thật cũng không ngờ vợ chồng nó lại thù tức nhau đến cái nước này.


Vú Nhự cúi đầu:


- Tâu lệnh bà, công chúa đang nhỏ tuổi, quả thực nhiều điều còn thơ dại lắm. Nô tỳ đã hết sức kèm sát nhắc nhở. Riêng việc này, thì là lỗi lớn của phò mã. Bởi thấy chuyện có quan hệ tới tính mạng công chúa, nên nô tỳ phải bẩm báo ngay.


Thái hậu Từ Dụ ngồi yên ngẫm nghĩ một lúc. Bỗng bà chợt hỏi:


- Vú có biết, phò mã bắt đầu làm việc bậy này từ lúc nào không?


- Tâu, nô tỳ nghe công chúa kể, nghe tiếng phò mã đánh đập tra khảo hình nhân đã hơn mười ngày nay!


Thái hậu gật đầu, hỏi tiếp:


- Vậy trong mười ngày ấy, vú có thấy công chúa đau ốm hay có gì lạ thường không?


Vú Nhự nhăn mày nhớ lại:


- Dạ… Theo nô tỳ nhớ thì… không!


Thái hậu nghe vậy, từ từ thở ra một tiếng:


- Nếu thật là sử dụng ma thuật, tất phải có ảnh hưởng đến sức khỏe, tính mạng của người bị trù yểm. Nhưng công chúa không hề hấn gì, chứng tỏ việc này không phải là bùa ngải hại người.


Vú Nhự hoang mang:


- Tâu, vậy là sao ạ, cái hình nhân trong kho rõ ràng là có thật…


- Gia Phúc bản tính ương bướng, chắc không khỏi khiêu khích gây gổ với chồng! Thân phận nó cao quý, nên chắc chẳng ai dám đụng đến. Ai cũng bắt phò mã phải chiều, cứ ép một bề thì phò mã ắt là ức đến không chịu nổi. Có phải vậy không?


Vú Nhự bối rối:


- Dạ… Quả có như thế ạ!


- Ức quá mà không làm gì được, nên phò mã mới tìm cách xả tức. Không đụng đến vợ được, thì phải đập vào cái hình nhân cho đỡ điên. Ta nghĩ sự việc chỉ có vậy thôi, không nên nghĩ xa quá mà tội cho phò mã!


Vú Nhự khựng lại, ngẫm nghĩ. Thái hậu nghiêm nghị nói tiếp:


- Vú về truyền ý ta: công chúa mau sửa tính đổi nết, không thì ta sẽ trách phạt rất nặng đó! Đến dịp Trung thu này, vợ chồng nó vào cung chầu hầu, rồi ta sẽ lựa lời khuyên nhủ cả hai.


Vú Nhự cúi đầu:


- May nhờ lệnh bà hiền minh soi xét, không thì chúng con đã tố oan cho phò mã. Nhân đây nô tỳ xin được hỏi, công chúa lấy chồng đã hơn nửa năm, thường ngày vẫn trông mong được mở phủ riêng…


- Mở phủ riêng! Gia Phúc mở phủ riêng để mà tự tung tự tác, thích gì làm nấy chớ gì? Hãy nói với công chúa, khi nào nó biết ăn biết ở, đúng mực dâu hiền vợ thảo thì lúc ấy hãy tính chuyện ra riêng! Thôi, vú ra nhận đồ ban thưởng rồi trở về, nói cho cả nhà Nguyễn Tri biết ý ta để họ yên tâm khỏi lo lắng!


Vú Nhự lui ra rồi, Thái hậu ngồi lặng buồn trên sập. Hà Hoa cầm quạt lông đến bên, nhẹ nhàng phe phẩy. Nhìn ra khóm hải đường ngoài cửa sổ, Thái hậu bùi ngùi:


- Hoàng gia mỗi lần gả con gái, đều rất cẩn thận tuyển chọn, tìm cho được rể tốt… Vậy nhưng thực tế, các công chúa ra lấy chồng cũng ít người được êm ấm hạnh phúc!


Hà Hoa nói đỡ:


- Dạ, cũng vì cái tâm lý xưa nay, chồng cao vợ thấp không sao. Vợ cao chồng thấp, thì khó đủ đường. Lại thêm sống trong nhà chồng, các nàng dâu thân phận khác nhau, khó đối đãi lắm. Vì vậy trước nay vẫn có lệ, công chúa lấy chồng là xây phủ ở riêng với chồng ngay…


Thái hậu thở dài:


- Ta cũng biết. Nhưng năm nay vì việc quân tốn kém, lại thêm việc ngoại giao phải thăm viếng tiếp rước, tiêu tốn không phải ít. Để chờ Bộ Hộ lo xong chi phí thương thảo với sứ Tây, rồi khi thuận lợi ta sẽ nhắc việc mở phủ cho Gia Phúc. Nó là con út, nên cái gì cũng sau cùng mới đến lượt. Xưa nay vẫn vậy, giàu út ăn, khó út chịu!


Ý Thái hậu muốn nói đến việc chuẩn bị chuộc đất miền Nam. Một món tiền rất lớn đang được Phan Thanh Giản và Aubaret thảo luận trên bàn hội nghị, ngay tại kinh thành Huế. Tuy không tham dự triều chính, Thái hậu vẫn thường ngày nghe ngóng tin tức…


Chương 18


Hội kín ở kinh thành


Từ trong Nam, Nguyễn Trường Tộ cũng đang theo dõi tình hình. Chàng đi tìm Nguyễn Chí.


- Ta đang lo lắng một chuyện, có lẽ phải nhờ đến tấm lòng hiệp sĩ của hiền đệ.


- Đệ chỉ là một thằng múa võ, nay được huynh nâng lên hàng hiệp sĩ, vinh dự quá! - Chí cười.


Vẻ mặt Tộ vẫn nghiêm trang:


- Theo ta, đệ phải đi ngay ra Huế.


- Ủa chi vậy?


- Ta vừa dò biết qua Giám mục Lefèbre: tính mạng của Phan đại nhân đang bị đe dọa. Nhiều người đang muốn giết ông ấy!


- Trời! Vì sao?


- Khi Phan đại nhân ký nhượng đất, thì họ phản đối vì nhượng đất. Nhưng bây giờ ông sang tận Paris xin chuộc được đất, thì họ nói không cần lấy lại đất, vì thà mất đất còn hơn cho mở cửa thông thương, cho tự do tôn giáo!


- Những người phản đối ấy là ai? Và họ có quyền gì mà giết được Phan đại nhân?


- Ta cũng chưa biết rõ họ là ai! Nhưng tin tức này chắc chắn không sai. Đệ phải đi ngay đến kinh đô để bảo vệ Phan đại nhân mới được!


- Đệ đi ngay đây. Đệ thương ông ấy lắm. Cái số sao mà khổ, làm việc gì cũng bị người ta nhao nhao phản đối, nhưng rốt cuộc việc gì người ta cũng đùn cho ông ấy, chẳng ai chịu làm.


- Cái hoạn nạn của dân mình là ở đó. Người mù làm chủ người sáng, nên càng biết nhiều lại càng nguy.


Chí gật đầu, hăng hái:


- Lúc này, nhất định Phan đại nhân cần phải có một vệ sĩ thật tốt. Đệ xin tình nguyện.


- Vậy ta yên tâm rồi. - Nguyễn Trường Tộ thở dài, cảm thán: - Ôi cái đất nước mà kẻ nai lưng làm thì chịu khổ chịu nhục, người không làm lại được tha hồ nói hay nói giỏi, biết bao giờ mới tìm được lối thoát đây?


- Đừng than thở nữa huynh ôi! Than cũng chẳng được gì đâu. Đành là còn làm được gì tốt, ta quyết tâm làm cho bằng được!


Chí về Tân Tạo đóng cửa lò võ, để lại mấy chữ từ biệt môn sinh. Quơ vội ít hành lý, chàng cỡi ngựa trạm lên đường ra Huế ngay chiều hôm ấy.


Kinh đô Huế bây giờ khác hẳn, lộn xộn và nhiều chỗ dơ bẩn, tệ hơn quang cảnh chàng đã thấy bốn năm trước rất nhiều. Cuộc hội đàm chuộc đất đang dần đi vào ngõ cụt. Aubaret đã châm chước giảm bớt tiền chuộc, nhưng ông ta không chịu rút lui yêu cầu về tự do truyền giáo. Về phía Phan Thanh Giản, dù rất muốn đồng ý điều khoản này, vẫn không thể vượt quyền Hoàng đế. 


Sau cùng sứ thần Aubaret quyết định rút chân ra khỏi rọ, ông ta tuyên bố ngừng hội đàm. Vậy là ba tỉnh vẫn không được chuộc lại, và công lao sang tận Paris của sứ bộ Đại Nam đã trở thành… công cốc.


Trong ngày sứ Pháp lên tàu ra đi, ở kinh đô đang diễn ra một đợt sóng ngầm bí mật.


Hôm ấy, ở bờ Đông sông Gia Hội, một bữa tiệc nhỏ đang diễn ra, nhân dịp sinh nhật thứ bốn mươi tám của Phú Bình công Miên Áo.


Bữa tiệc ấy chỉ có tám người tham dự.


Ngồi ở vị trí chủ tiệc là Phú Bình công, người mà Hoàng đế Tự Đức tin cẩn và kính trọng nhất trong các ông chú ruột. Phú Bình công Miên Áo vốn là em ruột của Vĩnh Tường công Miên Hoằng đã mất. Cả hai anh em đều là con trai của Hiền phi Ngô Thị Chính, người vợ được sủng ái nhất của Tiên đế Minh Mạng.


Ba mươi năm trước, nếu không bị Hoàng thái hậu Từ Khánh quyết liệt phản đối, thì có lẽ Hoàng đế Minh Mạng đã phong Hiền phi làm Hoàng hậu. Giả như lịch sử chệch đi một chút như thế, biết đâu giờ đây chính Phú Bình công mới là người ngồi trên ngai? Ý nghĩ ấy thỉnh thoảng vẫn thoáng qua trong tâm trí Miên Áo, nhất là những lần thay mặt Hoàng đế Tự Đức đứng tế Trời, tế Đất.


Ngồi bên phải Miên Áo là con trai ông: Hồng Tập, người lâu nay đã nổi tiếng ở kinh thành với chủ trương giết sạch dân đạo.


Tiếp theo Hồng Tập, là Hồng Tý, con trai trưởng của Vĩnh Tường công Miên Hoằng đã mất.


Tiếp đến là công tử Lương Trình, con trai Kiến An vương Nguyễn Phúc Đài đã mất. Cạnh Lương Trình là Phò mã Trương Văn Chất, con trai Tổng đốc Trương Văn Uyển đang nắm quyền ở Quảng Nam.


Phía bên kia bàn là Tú tài Nguyễn Văn Viện, người lâu nay vẫn xưng là Gia Cát quân sư của Phú Bình công phủ.


Cạnh Viện là hai người con trai của Nguyễn Đình Tân, tức là em ruột Thiện phi: Nguyễn Đình Cán và Nguyễn Đình Long. Sở dĩ vừa rồi Nguyễn Đình Tân bí mật về Kinh, chính vì nhiều việc phải bàn bạc riêng với hai người con trai này.


Cả tám người ngồi quanh bàn đều có vẻ nôn nóng. Họ đều nhìn qua cửa sổ, hướng ánh mắt ra cổng như có ý chờ ai đó.


- Đầu giờ Dậu rồi mà vẫn chưa thấy Thị Trung Ẩn, không biết có chi bất trắc xảy ra không? - Phò mã Chất băn khoăn.


- Thị Trung Ẩn võ nghệ cao cường, lại nhanh nhẹn khéo léo, không phải lo cho hắn đâu! - Tú tài Viện trấn an.


Hồng Tập vẫy tay ra hiệu. Một tên hầu thân tín tiến lại gần. Tập dặn:


- Ngươi ra đóng cổng, đích thân canh chừng. Nếu có khách đến, thì cứ làm theo lệnh ta.


Tên hầu lui ra. Hồng Tập đích thân đứng dậy, đóng chặt hết cửa sổ, cửa lớn, đứng nghe ngóng một lúc rồi mới quay lại bàn tiệc.


Trong lúc ấy, một kỵ sĩ mặc võ phục đen, mặt che khăn đen vừa dừng ngựa trước cổng phủ. Tên hầu của Hồng Tập không hỏi gì, chỉ nói mấy tiếng:


- Thuận giả thượng!


Người khách lạ đáp ngay:


- Nghịch giả hạ!


Nghe đúng mật khẩu, tên hầu vội mở cổng, dắt ngựa cho khách. Khách bươn bả đi đến phòng tiệc. Tất cả ồ lên vui mừng, đấy chính là Thị Trung Ẩn, người mà họ đang chờ.


Hồng Tập đứng lên, cầm bình rượu rót ra một chiếc tô lớn. Chàng rút dao, cứa xoẹt vào tay cho máu nhỏ giọt vào trong, dõng dạc:


- Đêm nay chúng ta cùng cắt máu ăn thề, ngày mai sinh cùng sinh, tử cùng tử!


- Sinh cùng sinh, tử cùng tử! - Tất cả cùng hô.


Trừ Miên Áo ngồi yên chứng kiến, những người còn lại đều nhất tề chích máu vào rượu, rồi luân phiên đứng dậy bưng tô uống cho đến lúc cạn.


Hồng Tập đưa tay chỉ vào từng người, cắt cử:


- Người của chúng ta sẽ chia làm bốn cánh quân. Nguyễn Đình Long, thống lĩnh cánh ở An Hòa, có Nguyễn Đình Cán theo giúp. Phò mã Chất, thống lĩnh cánh ở Kim Luông, có Nguyễn Văn Viện theo giúp. Công tử Lương Trình, thống lĩnh cánh An Truyền, có Hồng Tý theo cùng. Còn ta và Thị Trung Ẩn sẽ lo mũi nhọn ở kinh thành. 


Thị Trung Ẩn, nghĩa là người ở ẩn giữa chợ. Người ấy là ai? Có vẻ như những người trong hội kín đều đã biết nên chẳng ai thắc mắc, tất cả đều đồng thanh:


- Rõ!


- Đến giờ đã định, ta sẽ đem người vây chặt tư dinh Phan Thanh Giản. Thị Trung Ẩn đột kích vào bên trong, nếu bắt sống không được thì sẽ giết chết hắn ta. Trừ xong lão họ Phan, sẽ lập tức nổ pháo làm hiệu lệnh. Nghe tiếng pháo hiệu thì cả ba cánh kia phải tức thì nổi dậy, kéo vào làng đạo, giết sạch chúng đi. Rõ?


- Rõ! - Tất cả đồng thanh.


- Xin cho biết thêm, sau khi ta tận diệt bọn tà giáo rồi, nếu Hoàng thượng bắt tội thì sẽ tính sao? - Lương Trình thắc mắc.


Hồng Tập chưa kịp trả lời, Miên Áo đã lên tiếng trước:


- Phan Thanh Giản chết rồi thì Hoàng thượng chỉ còn một cách nghe theo ta thôi! Bởi hai cánh quân lớn chỉ chờ ta làm chủ tình hình là sẽ kéo về uy hiếp kinh thành. Một là quân của Tổng đốc Nguyễn Đình Tân từ phía Bắc. Hai là quân của Tổng đốc Trương Văn Uyển từ phía Nam. Hiện giờ quân binh chủ lực của triều đình đang nằm cả ở Hải Dương và Bình Thuận, Bắc thì lo cự giặc biển, Nam thì lo cầm chân Tây, có muốn kéo về cứu kinh đô cũng không kịp. Mấy lâu nay bày đặt hòa đàm với sứ Tây, làm lính tráng ở kinh thành phải canh giữ ngày đêm, chúng nó mệt lắm rồi. Hôm nay và ngày mai chúng vẫn còn nghỉ lấy sức... Thời cơ chính là đây!


- Vâng, Đức ông nói chí phải. - Phò mã Chất lên tiếng. - Các vị cứ yên tâm! Khi kinh đô đã bị khống chế, Thượng thư bộ Binh Trần Tiễn Thành đã bị ta tóm cổ rồi, mà Hoàng đế không theo ta thì sao, hả? Thì cứ theo như cách của người xưa: Thuận giả thượng, nghịch giả hạ!


- Đúng vậy, thuận theo thì cho ngồi trên, chống lại thì lôi xuống, cho ngồi dưới! Còn không chịu ngồi dưới hả? Thì cho xuống đất nằm luôn! - Người mà Hồng Tập gọi là Thị Trung Ẩn, lên tiếng. Từ dưới làn khăn bịt mặt, giọng y lanh lảnh, sắc như tiếng gươm đao.


- Khi ấy sẽ có người hiền đức bước lên, xứng đáng với ngôi vua! - Tú tài Nguyễn Văn Viện tiếp lời, vừa nói y vừa liếc Phú Bình công.


“Thuận giả thượng, nghịch giả hạ!”. Mọi người phụ họa theo, trong một tâm trạng phấn khích vô cùng.


∞∞∞∞


Đêm mồng hai tháng bảy...


Chỉ còn mấy hôm nữa là đến tiết Thất tịch, mưa ngâu, mà ở kinh thành vẫn nóng nực không một ngọn gió.


Trong tư dinh của Phan Thanh Giản, đèn đã tắt hầu hết. Tốp lính hầu suốt tháng qua phục dịch vất vả, hôm nay cũng đã xin về phép hết nửa. Chỉ còn một khung cửa sổ còn sáng, ánh nến hắt lung linh qua chấn song chạm trổ.


Phan Thanh Giản đang ngồi đọc giữa khuya. Lâu lắm mới được chút thong thả, ông đang xem một cuốn sách vừa đặt mua từ Hương Cảng về.


Chợt có tiếng động khẽ. Phan Thanh Giản ngẩng lên, nhìn quanh. Im lặng lại bao trùm. Lặng yên như tờ. Ông lại cúi xuống, chăm chú đọc.


“Vèo!” Một vật lạ phóng đến, may sao Phan Thanh Giản hụp đầu xuống kịp. Chiếc phi tiêu cỡ lớn cắm phập xuống án thư, chuôi thép kẹp một mảnh giấy bìa có ghi dòng chữ: “Phan Lâm mãi quốc”.


Phan Thanh Giản lập tức quăng sách đứng dậy, chụp ngay thanh gươm đặt sẵn dưới án. Nhưng không kịp, sát thủ bịt mặt đã lừng lững hiện ra, lưỡi kiếm lao tới chọc thẳng vào yết hầu ông.


Nhanh như cắt, ông né sang bên, khiến sát thủ mất đà, chúi về phía trước. Y đúng là tay cao thủ, tức khắc lộn nhào một vòng tránh đòn kẹp cổ của đối phương. Ngạc nhiên, y buột miệng kêu:


- Khá lắm! Không ngờ tên già thư sinh này cũng biết võ!


Phan Thanh Giản không đáp lời, chỉ lao vào tiếp tục tấn công. Hai bên quyết liệt tung đòn, không bên nào chịu kém. Từ bên ngoài, Hồng Tập dẫn hơn mười thủ hạ ập vào. Tiếng binh khí loảng xoảng chạm nhau tóe lửa.


Tốp lính hầu ít ỏi giật mình trở dậy, tức thì báo động: người thì chạy ra chống đỡ giúp chủ, người thì đánh phèng la vang dội.


Thị Trung Ẩn và Hồng Tập cứ tưởng có thể chém đầu Phan Thanh Giản trong nháy mắt, không ngờ cuộc giằng co lại kéo dài như vậy. Cả hai càng nôn nóng, đường kiếm càng rối loạn, rồi chợt bên ngoài vang lên tiếng ngựa hí quân reo. Có ai đó hô lớn:


- Phan đại nhân! Có bản chức đem quân phủ Thừa Thiên đến cứu đây!


Nghe tiếng hô, Thị Trung Ẩn biết là đã hỏng việc, liền quay mình nhảy lên đầu tường, chạy biến vào đêm tối.


Phan Thanh Giản thấy vậy, cũng lập tức nhún chân nhảy lên, bám theo sát gót. Cả hai cùng chạy băng băng, mất hút vào bóng đêm dày đặc. ‎


∞∞∞∞∞


Trong dinh nhà Nguyễn Tri, lúc ấy, Nguyễn Lâm vẫn còn thức. Sau vụ vợ chồng cãi lẫy làm tiếng tăm đến tận hoàng cung, chàng đã tháo cái hình nhân “Vợ” cất đi. Khổ nỗi, từ ngày không tương vào cái bao ấy mỗi bữa vài chục đấm thì chàng lại cảm thấy tức tối đến mất ngủ, đêm nào cũng kẽo kẹt đưa võng đến quá canh tư.


Lâm ngồi dậy rót nước uống, rồi nhân tiện liếc qua khe cửa nách, xem vợ đang làm gì. Gia Phúc nằm ngửa, phơi mình thoải mái trên giường rộng, ngực căng tròn phập phồng dưới lớp chăn mỏng. Thấy vợ ngủ ngon lành, chàng cảm thấy tức điên vì ganh tỵ.


Chợt Lâm nghe tiếng “Vút, vút” vang lên bên ngoài. Bản năng của người học võ giúp chàng nhận ra ngay: có người đang dùng khinh công vượt tường, xâm nhập vào bên trong dinh.


Chàng tức thì chụp lấy thanh gươm, xô cửa bước ra. Trước mắt Lâm, hai bóng đen đang quây lấy nhau. Dưới ánh lửa từ ngọn đuốc cắm trong sân, hai thanh kiếm loang loáng ánh thép sáng quắc.


Lâm bình tĩnh quan sát, nhận ra một kiếm khách áo đen đang tìm cách tháo chạy, nhưng bị một ông già đầu bạc cố gắng truy đuổi chặn lại. Cả hai vừa quấn riết lấy nhau, vừa càng lúc càng dời đến gần ngọn đuốc, khiến Lâm nhận ra: vị đầu bạc này chính là Đại học sĩ Phan Thanh Giản! Chàng đã nhiều lần được gặp ông, mỗi khi theo hầu thân phụ trong những dịp lễ tiết của triều đình.


Lâm nghĩ thầm rất nhanh: “Quái lạ, Phan đại nhân là quan văn, không ngờ ông ấy võ nghệ cao cường như thế này, đến ta e cũng không bằng?”. Trố mắt nhìn kỹ thêm vài giây, Nguyễn Lâm càng nghi hoặc: Phan Thanh Giản tuổi đã ngoài sáu mươi, dù cho có võ đi nữa cũng không thể nào có thân thủ nhanh nhẹn linh hoạt như thế này được. Chàng lập tức xông tới, chĩa gươm quát to:


- Ngươi là ai? Sao dám giả mạo Phan đại nhân?


Người tóc bạc nhận ra Nguyễn Lâm, vội dừng binh khí, đưa một tay lật chiếc mặt nạ trên mặt:


- Nguyễn Chí đây! Công tử mau cùng Chí bắt gian!


Lâm nghe vậy lập tức quay sang thích khách áo đen, nhưng hắn đã nhân cơ hội mấy giây quý báu, lập tức mất dạng.


Lúc ấy trong phòng, Gia Phúc nghe tiếng ồn ào cũng đã tỉnh giấc.


Một bóng người vụt hiện ra trước mặt. Gia Phúc hoảng hốt:


- Cúc Tần, ngươi đã xin về thăm nhà, sao lại còn ở đây? Sao mặc áo quần lạ vậy?


Cúc Tần, cũng chính là Thị Trung Ẩn, tay ôm vai bên trái rịn máu, miệng năn nỉ:


- Công chúa, xin hãy cứu em!


- Nhưng ngươi đã làm gì, sao lại bị thương, ai hại ngươi?


Gia Phúc cuống quýt hỏi dồn. Cúc Tần van nài:


- Chuyện dài lắm, công chúa hãy cứu em trước đã.


Nói chưa dứt lời, Cúc Tần chui ngay vào gầm giường, núp sau lớp vải gấm phủ kín bốn bên.


Ngoài kia, Nguyễn Chí còn đang tóm tắt cho Nguyễn Lâm hiểu chuyện. Trong phòng, Cúc Tần thầm thì từ dưới giường:


- Ngày trước công chúa trốn ra ngoài chơi, em lúc nào cũng cố gắng bao che cho công chúa. Công chúa đã thề dù việc gì xảy ra, cũng không bao giờ bỏ em.


Gia Phúc quýnh quáng, bối rối:


- Hu hu, nhà ngươi im đi, ta nhớ rồi…


Cửa phòng bật mở, Nguyễn Lâm dẫn Chí cùng với gia binh đứng ở bậc thềm nhìn vào. Họ đã kiểm tra tất cả những ngóc ngách trong dinh, đây là nơi cuối cùng.


Gia Phúc vẫn nằm yên trong chiếc áo lụa mỏng, ống quần rộng bị cuốn lên, lộ một chân nõn nà đang quắp vào chiếc gối ôm thêu hoa. Giọng nàng uể oải, lơ mơ:


-  Ai dám mở cửa vậy? Ta còn ngủ!


Nguyễn Chí lên tiếng:


- Vì có kẻ gian đột nhập, nên bề dưới mạo muội đắc tội, làm kinh động đến công chúa!


Chưa bao giờ thấy bà chúa trong bộ dạng buông tuồng trên giường ngủ, nên các gia binh ai nấy đều mắt la mày lét, mải lo nhìn trộm. Cả Nguyễn Chí cũng phân tâm, chàng quan sát rất nhanh các góc tối trong phòng, rồi vẫy tay, tất cả cùng lui ra.


Dù đang lúc truy đuổi rất căng thẳng, chàng vẫn nhận rõ một mùi hương không xa lạ: mùi quyến rũ nồng nàn của tinh dầu hoắc hương, từ đâu đó rất sâu trong ký ức.


Chương 19


Mưu mẹo của Cúc Tần


Mọi người đi rồi, Gia Phúc cúi đầu xuống gầm giường:


- Ra mau, êm rồi đó!


Giọng Cúc Tần thì thào:


- Chưa êm đâu. Tay vệ sĩ cải trang đó nhất định là vẫn còn mai phục bên ngoài. Chút nữa thôi, chắc chắn quân triều đình sẽ đến tiếp ứng!


- Cái gì, ngươi làm ta sợ hết cả hồn. Mà ngươi trộm cắp ở đâu để đến nỗi người ta rượt đuổi?


- Em sẽ nói sau! Bây giờ công chúa cứ che cho em đã. Công chúa hãy nói phò mã lên giường nằm…


- À á! Không được đâu, đừng có dụ ta!


- Công chúa, em mắc tội lớn lắm, công chúa chịu khó đi, cứ làm theo lời em, thì mới thoát.


- Tội gì, nói mau để ta còn cứu ngươi!


- Không ai cứu nổi đâu, nếu họ bắt được em ở đây thì công chúa và cả nhà Nguyễn Tri cũng phải vạ luôn đó! - Cúc Tần vừa van lơn vừa hăm dọa.


Gia Phúc định mở miệng nhưng vội im bặt, vì Nguyễn Lâm vừa đẩy cửa bước vào. Lâm đang bực bội, định cự nự vợ về chuyện cứ nằm sải cẳng trước mặt người lạ, không một chút ý tứ đoan trang.


Chàng chưa kịp mở miệng, đã thấy Gia Phúc vồn vã khác thường:


- Phò mã…


- Nàng gọi ta? - Lâm ngạc nhiên.


Gia Phúc không nói, chỉ gật gật đầu, cười bẽn lẽn. Nguyễn Lâm vừa hồi hộp, vừa nghi ngại. “Hắn dụ ta?” Chàng e dè đến cạnh giường, ngồi xuống.


- Chàng… nằm đây! - Gia Phúc ngượng nghịu nói, nàng càng lúc càng lúng túng hơn. Nguyễn Lâm lóng ngóng một lúc, rồi thấy mặt vợ xám xanh, mồ hôi rịn ra ướt cả hai bên tóc mai. Chàng nghĩ: chắc chuyện đuổi bắt kinh động vừa rồi làm nàng sợ hãi lắm đây.


Bất giác vẻ yếu ớt của nàng làm chàng thấy tội nghiệp. Lâm cầm lấy tay vợ, vỗ về:


- Nàng đừng sợ. Có ta đây, đứa nào động tới nàng ta đập chết ngay!


Gia Phúc để yên bàn tay run rẩy. Hoang mang, giằng co trong lòng, nàng cứ cắn môi bối rối, rồi bật lên tấm tức khóc.


“Ôi, ôi, sao nàng khóc?” Chưa bao giờ thấy vợ ngoan và đáng thương như thế, bao nhiêu cái phẫn hận trong lòng Lâm trước đây bỗng tiêu tan. Dỗ dành mãi Gia Phúc vẫn rấm rứt không nín, nên cuối cùng Lâm nằm xuống, ôm vợ vào lòng tỏ ý che chở.


Dưới gầm giường, Cúc Tần nghe công chúa khóc mà hồi hộp muốn nín hơi, chỉ sợ Gia Phúc căng thẳng quá khai toẹt mình ra. May sao, tiếng thút tha thút thít đã im bặt. Lúc này Gia Phúc đang đờ đẫn cả người, không ngờ nằm trong lòng Nguyễn Lâm lại dễ chịu như thế. Nàng buông lỏng toàn thân, mắt nhắm nghiền…


Chợt Gia Phúc mở choàng mắt: Lâm vừa lần tay, kéo lỏng thắt lưng nàng… Dù đang mê man thở nhưng sực nhớ sự hiện diện của Cúc Tần dưới gầm giường, nàng kêu lên, hổn hển:


- Đừng, đừng…


Nguyễn Lâm đã hết run, chàng mạnh bạo:


- Mình là vợ chồng mà…


- Khi khác, khi khác… - Nàng thều thào, nói nhỏ vào tai Lâm.


Vừa lúc đó chợt có tiếng ngựa hí, quân reo, tiếng người trong phủ thức dậy chạo rạo, tiếng chân chạy rầm rập ngoài sân. Đúng như Cúc Tần dự đoán, quân của phủ Thừa Thiên đã kéo đến, lần này là những công sai chuyên nghiệp rất rành cách lùng bắt phạm nhân.


Nguyễn Lâm đành dừng lại, ngóc đầu lên nghe ngóng. Chàng vẫn tiếc rẻ giữ chặt Gia Phúc trong lòng, không chịu buông.


Có tiếng ai đó vang lên:


- Trình công tử, bản chức là Đặng Hạnh, đề đốc của phủ Thừa Thiên. Theo tin báo, nhất định có phản tặc đang ẩn nấp trong dinh. Bản chức đã cho quân vây chặt bên ngoài, xin công tử cho phép lục soát!


Giọng điềm tĩnh của Nguyễn Ngọc, anh trưởng của Lâm đáp lời:


- Nhà Nguyễn Tri mấy chục năm nay tận trung báo quốc, thân phụ là cây cột chống của triều đình. Làm sao có chuyện trong dinh này chứa chấp phản tặc? Xin quan đề đốc hãy thận trọng lời nói!


- Bản chức làm phiền trong dinh thế này là bất đắc dĩ. Xin công tử nhìn lệnh bài hỏa tốc đây, thì đủ biết nhiệm vụ cấp bách dường nào.


Nguyễn Ngọc đang còn định phản đối, thì phu nhân ngắt ngang:


- Ngọc con, vàng thiệt không sợ lửa, cây ngay không sợ chết đứng. Con cứ dẫn quan đi lùng xét đủ hết các ngóc ngách. Như rứa thì mới rõ ràng minh bạch, cho quan biết rõ không có chi khuất tất ở đây.


Nguyễn Ngọc vâng lời mẹ, gọi gia nhân mở hết cửa. Một lúc, đến trước phòng Gia Phúc, thấy cửa đóng im ỉm, viên võ quan hô:


- Mở cửa ra!


Vú Nhự bước lên:


- Đây là phòng bà chúa, xin quan nói nhỏ thôi!


- Phòng bà chúa cũng khám! Đây chính là lệnh Hoàng thượng!


Vú Nhự miễn cưỡng:


- Xin để già vào bẩm báo, rồi sẽ rước các quan vào khám xét.


Phòng Gia Phúc từ trước đến nay không khóa, nên vú Nhự khẽ đẩy là cửa bật mở. Hai ba ngọn đuốc chĩa thẳng vào phòng. Một cảnh tượng bất ngờ làm ai nấy đều lúng túng: công chúa và phò mã đang ôm nhau trên đệm, chung quanh là màn thêu chăn gấm êm đềm che rủ.


Dù đang hùng hổ nhưng quan đề đốc không khỏi ngượng ngùng đỏ mặt. “Bề dưới vì nhiệm vụ, xin phò mã và công chúa tha lỗi.” Nói rồi ông cầm gươm đảo một vòng quanh phòng, mắt chú mục nhìn thật kỹ vào các góc khuất.


Phu nhân Nguyễn Tri thấy con trai và con dâu nằm chung thì mừng khôn xiết, luôn miệng giục:


- Xong chưa quan Đề? Mau mau lên kẻo phiền quá ông ơi! Vợ chồng nằm với nhau mà cũng không yên thân!


“Xong!” Viên võ quan quay lui. Đám người tan ra, cửa đóng lại.


Nguyễn Lâm nãy giờ giả vờ nhắm mắt, chàng chỉ chờ cửa đóng lại là chồm lên mình vợ, mặc kệ nàng giẫy nẩy đẩy ra. “Đừng, đừng!” “Mắc gì mà đừng?” Nguyễn Lâm bứt mạnh, chiếc thắt lưng bằng tơ đứt phựt. Chàng vừa hôn hít mê man, vừa bóc từng mảnh lụa là trên mình nàng. Lần đầu tiên cơ thể trinh nữ được mở ra. Nguyễn Lâm sướng điên người: trên mình Gia Phúc cái gì cũng nõn nà, cũng non tơ, óng mượt.


Gia Phúc thốt kêu, thấy mình bị đột nhập, bị cắm phập vào da thịt. Nàng nhắm nghiền mắt, thân mình oằn oại rung giật liên hồi như con cá quẫy trên lưới...


Sáng mai lại, mặt trời đã lên quá ngọn cau, người trong dinh vẫn còn tụ tập, họ bàn tán râm ran về chuyện náo động đêm qua. Có tiếng Nguyễn Tri phu nhân bảo người nhà nói nhỏ nhỏ thôi, kẻo bà chúa với phò mã còn đang yên giấc. Gia Phúc tỉnh dậy, thấy mình đang nằm trong vòng tay chồng, trên người không một mảnh áo che. Dù vậy nàng không bị lạnh: trước khi thiếp đi Nguyễn Lâm đã kéo chăn gấm đắp cho nàng, kỹ càng âu yếm như gói bọc một món quà quý giá.


Một lúc sau nàng mới sực nhớ tới Cúc Tần đang ẩn nấp dưới giường. Rón rén bò ra khỏi vòng tay chồng, cúi đầu xuống gầm giường, giở tấm vải đang lòng thòng che phủ, nàng ra hiệu cho thị nữ mau chui ra.


Nhưng gầm giường trống không. Cúc Tần đã đi rồi, không bao giờ còn quay lại.


∞∞∞∞∞


Trong khi Nguyễn Chí và Đề đốc Đặng Hạnh truy đuổi thích khách áo đen, quan phủ Thừa Thiên đã cho lính bắt hết nhóm nổi loạn ở kinh thành, bao gồm cả người chỉ huy là Hồng Tập.


Ba cánh quân kia mai phục tại ba phía Tây, Nam, Bắc, chờ đến quá canh tư không nghe tiếng pháo hiệu như đã hẹn. Biết là việc đã hỏng, họ lập tức rút lui. Nhưng quân triều đình đã phục sẵn, cả ba cánh quân tại An Truyền, An Hòa và Kim Long đều không một ai chạy thoát.


Vụ Hồng Tập như một tiếng pháo nổ ầm giữa kinh đô! Nghe tin báo lúc nửa đêm, Hoàng đế Tự Đức trở dậy, ra trước Ngọ Môn đích thân theo dõi. Ngự lâm quân dàn ra dày đặc quanh lầu. Giáp sĩ vòng trong vòng ngoài đã sẵn sàng đối phó.


Đến mờ sáng thì tình hình đã yên, quan phủ Thừa Thiên vào cung tâu trình toàn bộ vụ việc. Hoàng đế Tự Đức chết điếng người, không ngờ những người thân thuộc nhất của mình lại đang định lật đổ mình.


- Tâu Hoàng thượng, thần phụ trách kinh đô, không dám lơ là một phút. Động tĩnh của đảng loạn, thần đã nắm chắc từ trước. Vì vậy mới tương kế tựu kế, cho dũng sĩ đóng giả Phan đại nhân để lừa bắt cho được quả tang. Vì việc này liên quan đến nhiều vị trong hoàng tộc, nên phải đợi nắm được hình tích rõ ràng, thần mới dám tâu lên Hoàng thượng!


- Trẫm khen ngợi lòng trung và sự mẫn cán của khanh. - Giọng nhà vua vẫn bình tĩnh, uy nghiêm: hơn mười năm làm đế vương, ngài đã tập quen che giấu rất giỏi sự đau đớn trong lòng. - Khanh hãy mau xưng danh cho trẫm biết!


- Tâu Hoàng thượng, thần lãnh chức Thừa Thiên Phủ doãn, tên là Nguyễn Văn Tường!


Nhà vua gật đầu:


- Khanh quả thật là bề tôi xuất sắc của trẫm. Kỹ càng, mẫn cán, điềm tĩnh, thông minh. Trẫm sẽ trọng dụng khanh sau này!


Vụ Hồng Tập, vì là quả tang phạm tội, nên được xét xử rất nhanh. Tháng Mười một năm ấy, Bộ Hình dâng lên án lục của những người cầm đầu: Hồng Tập, Trương Văn Chất, Nguyễn Văn Viện. Cả ba đều bị kết tội lăng trì (xẻo thịt), là mức án xưa nay vẫn dành cho tội làm phản.


Hoàng đế Tự Đức xem án, giảm nhẹ một bậc, cho được xử tội chém.


Cuối tháng Chạp, trước ngày Đông chí, các tội nhân bị giải ra pháp trường An Hòa. Ba người, một hoàng tôn, một phò mã và một nho sinh, địa vị cách biệt nhau, nhưng đến giờ phút đó đều là những hình người tiều tụy bị trói vào cọc tre giữa bãi đất rộng.


“Tùng! Bi li…!” Chiêng trống vang lên, chốc lát ba cái đầu rụng xuống. Máu phụt lên, tưới xuống cỏ xanh. 


Người phụ trách cuộc xử chém hôm ấy là viên quan huyện Hương Trà tên là Hoàng Diệu. Ngày hôm sau, hoàn tất hồ sơ thi hành án, Hoàng Diệu đến phủ đường tường trình với Phủ doãn.


- Thú thật với quan lớn, từ lúc ra làm quan đến nay, chưa bao giờ hạ chức thấy đau lòng như vậy.


- Tại sao? - Nguyễn Văn Tường nhìn thẳng vào mặt Hoàng Diệu với đôi mắt sắc sảo.


- Khi hạ chức tuyên đọc bản án, công tử Hồng Tập kêu to: “Ta không làm phản. Ta chỉ làm theo nghĩa phận một người dân Đại Nam!” Nói rồi, công tử vươn đầu, hiên ngang  chịu chết…


Nguyễn Văn Tường lạnh lùng:


- Nhiệm vụ của ta là giữ an ninh cho kinh thành. Ai cũng cho mình là phải, cũng xưng hai chữ nghĩa phận rồi vác gươm giáo gậy gộc, thích giết ai thì giết, tự cho mình cao hơn phép nước, hỏi như vậy xã tắc có còn không? Nếu trong huyện của túc hạ xảy ra chuyện như vậy, thì túc hạ xử ra sao?


Hoàng Diệu lặng im.


Trong khi nhiều nho sĩ thương xót cho Hồng Tập, thì các quan bộ Hình cho rằng án này xử như vậy là nhẹ. Sở dĩ nhẹ, là vì trong cung, Thiện phi nhịn ăn, xõa tóc, mặc áo vải thô xin chịu tội, lạy van từ Thái hậu đến Trung phi Vũ Thị Duyên, thậm chí cầu cứu cả cấp dưới là Tiệp dư Nguyễn Nhược Thị Bích. Động lòng từ tâm, Thái hậu cũng xin giúp cho nàng.


- Xưa nay lệ trong dân gian, con gái đã gả chồng thì cha anh có làm gì cũng không phải liên lụy nữa. Thời tiên đế Minh Mạng, Hữu quân Lê Chất phải tội, con gái là Lê Thị Tường cũng bị giáng truất, giam cấm. Nghĩ thì rất tội nghiệp bởi Lê phi ở trong cấm cung nào có can dự gì đâu?


- Thưa mẹ, con cũng thực lòng rất muốn tha miễn cho nàng. Ngặt nỗi các đại thần đều nói việc nhà vua chúa không giống việc trong dân gian. Một nữ nhân làm phi tử, là cả một gia tộc qua đó có thể lũng đoạn đến triều chính. Phải liên can chịu tội với cha anh là vì vậy!


- Lũng đoạn được hay không là ở bản lĩnh của con! Chỉ cần trong cung chính danh định phận cho rõ ràng. Ai phải, ai trái, ai hiền đức, ai càn quấy phân biệt cho rõ, thì ngoại thích với phi tần nào dám lung lạc uy quyền của Thiên tử!


Vì liên quan đến Thiện phi mà cái án Hồng Tập cũng được khoanh gọn lại, chỉ truy tội có ba thủ lĩnh. Phú Bình công Miên Áo đã cầm chắc không khỏi tội chết, nhưng cuối cùng chỉ bị cách tước Công, rút tên trong sổ tôn thất. Nguyễn Đình Cán, Nguyễn Đình Long, hai em của Thiện phi bị cách chức quan. Riêng Nguyễn Đình Tân liên tục dâng sớ kêu oan, nói ở xa không biết rõ mọi chuyện, nên chỉ phải nạp ba trăm quan tiền để chuộc tội dạy con không nghiêm.


Tuy được vô can trong vụ án của nhà Nguyễn Đình, nhưng Thiện phi rất lo âu. Nàng cảm thấy tình thương yêu của Hoàng đế đối với mình rõ ràng khác trước. Mỗi lần đến phiên vào chầu, trên giường rồng nàng cố lăn xả lại gần, nựng nịu vuốt ve Hoàng đế. Nàng đâu biết, ngài tuy để yên nhưng trong lòng đang cố xua đi một hình ảnh đau đớn… Hình ảnh một lưỡi gươm đang chực đâm lén sau lưng.


Chương 20


Giữa đầm Chuồn


Mấy hôm sau, nghe Nguyễn Lâm kể về vụ biến loạn, Gia Phúc mới ngả ngửa: té ra Cúc Tần, ả thị nữ chuyên bị mình bắt nạt, lại dám lén lút đi làm thích khách.


Thay vì ghê sợ “sát thủ”, nàng lại cảm thấy thán phục và thích thú, nhất là khi nghe Nguyễn Lâm kể thích khách bịt mặt hôm đó dùng khinh công bay qua tường nhẹ nhàng như cọng lông chim. “Không ngờ bao năm nay ta ở bên hắn, mà không biết hắn tài như vậy!” - Nàng tự nhủ.


Đã quyết giữ bí mật nhưng rồi không nén nổi, một đêm nàng rủ rỉ tiết lộ với Nguyễn Lâm. Lâm sửng sốt:


- Ả kia như vậy, chắc xuất thân không phải nô tỳ đâu! Chẳng qua mượn thân phận thị nữ để vào cung, dò xét hành trạng của Thái hậu, Hoàng đế. Lẽ ra nàng không được che giấu cho hắn, quá nguy hiểm.


- Không che cho hắn, hắn bị bắt thì tội nghiệp!


- Nàng còn khờ lắm! Từ nay bất cứ việc gì, nàng phải hỏi ta, nhất thiết không được ngốc nghếch như vậy!


- Vâng từ nay về sau ta sẽ nói với phò mã… À quên, - Nàng cười e thẹn - Từ nay về sau chuyện gì thiếp cũng nói với chàng…


Nguyễn Lâm nghe, cảm thấy sung sướng như ở trên mây: lần đầu tiên cái tiếng “thiếp” nhu mì thốt ra từ miệng vợ mình.


Ai cũng lấy làm lạ vì sau cái đêm bắt gian ồn ào ấy, công chúa và phò mã từ chỗ lạnh lùng, hục hặc bỗng chuyển sang quấn quýt như sam. Vì công chúa tỏ ý thích học “khinh công”, nên sớm sớm sau khi dẫn vợ lên nhà trên vấn an thân mẫu, Nguyễn Lâm đưa nàng ra vườn sau tập luyện. Nhìn lui nhìn tới, cứ hễ thấy vắng bóng người là Lâm lại nhảy đến ôm vợ vào lòng cưng nựng, khiến nàng kêu lên oai oái, vừa dẫy ra vừa cười rúc rích. Bởi vậy chỉ mới có mấy yếu quyết vỡ lòng, nàng tập hoài chẳng thuộc, nhưng chàng cũng dạy đi dạy lại mãi không chán.


Bây giờ ở nhà với vợ thật thích, nên hơn nửa năm Lâm không đi đâu xa. Đến trước Tết, Gia Phúc bảo chồng:


- Sao dạo này chàng không về chơi nhà họ Đoàn dưới làng An Truyền? Thiếp vừa nhận thư Thể Cúc, té ra hắn sinh con trai đã gần đầy năm!


- Ủa vậy hả, ta phải về chúc mừng Đoàn huynh. Nàng ở nhà cứ tập khinh công, cái hố hôm qua ta đã bảo tụi nhỏ đào sâu thêm một tấc, ráng nhảy lên, rồi ta sẽ dạy tiếp!


Gia Phúc nũng nịu:


- Chàng đi thì thiếp không tập đâu! Nhảy mấy hôm nay, bắp chân thiếp đau quá à…


Thấy chung quanh không có ai, Lâm bế thốc vợ đặt lên đùi, dỗ dành:


- Ráng đi mà, không quá nửa chiều ta sẽ về ngay, rồi ta bóp chân cho nàng đỡ đau.


- Ngoéo tay đi, chàng hứa rồi đó, tối nay bóp chân cho thiếp.


- Ừ, hầu nàng bao nhiêu ta cũng hầu, miễn nàng đừng nói cho ai biết là được.


Gia Phúc hí hửng cười, gật lia lịa.


Lần này về An Truyền, gặp lại Đoàn Châu, Nguyễn Lâm ngạc nhiên thấy lòng mình không quằn quại nữa, mà êm nhẹ như mây. Lâm nghĩ thầm: “Lạ thật, vậy mà có lúc ta tưởng chừng không lấy được Châu thì cuộc đời chẳng còn chi đáng sống!”


Tuy vậy, khi thấy Đoàn Châu đến gần, đặt mâm đồ nhắm xuống bàn đá, trong lòng chàng vẫn cảm thấy thương thương.


- Em Châu dạo này hơi xanh, có đau ốm chi không? - Chàng hỏi thăm.


- Dạ, em vẫn khỏe. Gần năm qua em phụ chị dâu nuôi con nhỏ, ít khi ngủ trọn đêm, nên hơi bơ phờ! Nhưng ngày mùa em vẫn dư sức gánh nổi một tạ lúa đó công tử!


- Bái phục em, em Châu đúng là gia bảo của nhà họ Đoàn.


- Dạ đâu có, nhà này bây giờ chỉ có một gia bảo là ông tướng do chị Thể Cúc sinh ra. Ai cũng phải làm lính cho thằng tướng đó hết. Hắn mà hét lên là cả nhà phải chạy tới hầu ngay.


Thể Cúc từ trong nhà bồng con ra chào. Thằng bé mặc bộ áo gấm đỏ, tóc cạo sạch chừa hình trái đào trên thóp, cổ đeo kiềng bạc gắn đạo bùa lủng lẳng. Chào khách xong, Thể Cúc giữ lễ lui vào ngồi trong hiên, cho thằng bé đùa giỡn với mấy tia nắng mới trên vách. Nguyễn Lâm trầm trồ:


- Cổ nhân bày ra chữ viết, trong chữ Hảo gồm có chữ nữ và chữ tử hợp lại mà thành. Đúng thế thật, đàn bà và con trẻ, túc là vợ và con, còn gì tuyệt hảo hơn nữa. Trong chữ An, lại là “nữ” ở dưới mái hiên nhà. Thì chính là cái cảnh tượng này đây, còn gì bình an hơn nữa?


Đoàn Trưng cười:


- Ai mà chẳng thích “Hảo”, thích “An”. Nhưng chỉ sợ giặc kia không để cho ai yên mà “an” với “hảo”. Bởi thế kẻ trượng phu chí ở bốn phương, đâu thể an tâm vui thú mãi nơi chốn khuê phòng!


Nghe bạn nói, Nguyễn Lâm nghĩ tới mình lâu nay mải mê với vợ, quên cả việc xin đi Bắc đánh giặc. Chàng hơi ngượng trong lòng, nhưng cũng chống chế:


- Tuổi mình còn trẻ. Cũng phải hưởng phúc cái đã, việc nước non còn đó, cuộc đời còn dài... Lo chi!


Chuyện trò về thời cuộc, mấy chàng trai không khỏi nhắc đến vụ Hồng Tập. Nguyễn Lâm nhân kể về việc gặp lại Nguyễn Chí:


- Cứ tưởng huynh ấy đã ở yên trong Nam, có ngờ đâu gặp lại trong hoàn cảnh đặc biệt như vậy! Chẳng biết sau đó huynh ấy đi đâu, đệ cũng đang cố tìm. Nếu gặp được ta lại kéo nhau về đây, luyện tiếp bài võ Xiêm mấy năm trước!


Đoàn Trưng mỉm cười:


- Nguyễn Chí từ trong Nam ra, có đến đây chào ta. Nhưng Tư Trực cho là hành tung của hắn khả nghi nên không muốn kết thân. Mà như lời hiền đệ kể, thì Trực nghi ngờ là đúng, hóa ra hắn ra đây cốt để phò Phan Thanh Giản!


- Phò Phan đại nhân thì đâu có sao, ông ấy là mệnh quan triều đình mà.


Tư Trực đặt chén rượu xuống bàn:


- Phan Lâm mãi quốc, triều đình khi dân, cái khẩu hiệu của nhóm Hồng Tập, nay cũng là khẩu hiệu của sĩ dân cả kinh thành. Nguyễn Chí lại theo đuôi Phan Thanh Giản, đâu có thể xem là đồng tâm đồng chí với ta được!


Nguyễn Lâm hơi nhíu mày, chàng nhớ lại: lần gặp trước, cũng tại khu vườn này, Nguyễn Chí tỏ rõ lập trường chủ hòa, lúc đó chàng cũng đã cự cãi với Chí khá căng.


- Đoàn huynh đệ, cái chuyện hòa với giặc, thì Lâm này chắc chắn không ưng. Chuyện cho truyền đạo Gia Tô, Lâm thấy cũng hơi khó chịu! Nhưng Phan đại nhân là người đàng hoàng, Lâm biết. Đâu phải cứ hễ chủ chiến là tốt, mà cũng đâu phải cứ chủ hòa là xấu! - Lâm gân cổ lên cãi.


Tư Trực định chọi lại, nhưng Đoàn Trưng đã đưa mắt can ngăn.


Đã quá trưa, Đoàn Châu ra mời mấy anh em vào dùng cơm, nhưng Nguyễn Lâm nhớ lời hẹn với vợ, chàng đứng dậy cáo từ. Đấy là một việc lạ, vì trước nay mỗi lần về làng Chuồn chàng đều la cà cả ngày, hiếm khi chịu về sớm. Đoàn Trưng nghĩ Lâm vội về chắc vì xung đột ý kiến với Tư Trực. Chàng thấy áy náy với bạn, nhưng cũng đứng lên tiễn khách, không giữ.


- Công tử Nguyễn Lâm về lần này là cốt ý mừng anh mới sinh con trai. Sao anh không cố cầm lại dùng bữa cơm cho phải phép? - Đoàn Châu hỏi.


 Đoàn Trưng vẻ đăm chiêu:


- Hôm nay anh có hẹn khách đến bàn câu chuyện. Chuyện này quan trọng, chưa tiện để Lâm tham dự.


Quả nhiên, Lâm vừa về chưa được mấy chốc, đã thấy khách đến. Một người trạc trung niên mặc võ phục dừng ngựa, buộc cương trước cổng.


- Ô, cháu xin chào Hữu quân!


Thể Cúc vừa dỗ con ngủ xong, nàng ra sân định hái một ít lá đinh lăng làm thuốc lợi sữa. Chợt thấy người quen, nàng vội lễ phép chào. Tuy quan lớn hôm nay mặc y phục dân thường, nhưng Thể Cúc vẫn nhận ra: Hữu quân Tôn Thất Cúc.


Hữu quân hơi giật mình:


- Sao nàng lại biết ta?


- Dạ, cháu chính là con gái của phủ Tùng Thiện đây! Mấy lần quan lớn đến thăm thân phụ, cháu có được ra chào, nên cháu nhớ!


“À ra vậy. - Tôn Thất Cúc nghĩ thầm - Bậy quá. Ta cũng biết Trưng làm rể Tùng Thiện công, nhưng không ngờ vợ hắn lại nhớ mặt ta.”


Đoàn Châu bày mâm cơm rượu. Đoàn Trưng, Tư Trực và Tôn Thất Cúc chỉ dùng qua loa, rồi kéo nhau đi. Trưng dặn Đoàn Châu: khách muốn đến dâng lễ ở miếu Bà bên Đồng Miệu, nên sẽ đưa khách ra ngoài ấy, tối mới quay lại.


Đồng Miệu ở bên kia đầm Chuồn. Có chiếc thuyền vừa cập bờ, chở theo bốn năm người khách lạ. Họ mang hương hoa quả phẩm vào miếu, dâng lễ, thắp nhang rất nhanh, rồi cùng Trưng, Trực và Tôn Thất Cúc xuống thuyền, chèo ra giữa đầm.


Giữa mặt nước mênh mông, câu chuyện được đưa ra bàn bạc: chuyện bắt đầu từ công trình xây lăng của Hoàng đế Tự Đức, trên vùng đồi núi Dương Xuân.


∞∞∞∞∞∞∞


- Con năm nay chưa đến ba mươi lăm tuổi, xây lăng có sớm quá không? - Thái hậu hỏi con trai - Ngày trước tiên đế Minh Mạng 49 tuổi đang phương cường khỏe mạnh, vừa ra lệnh xây lăng thì ngài băng. Theo mẹ nghĩ, lo việc hậu sự quá sớm cũng không tốt đâu con!


Hoàng đế mỉm cười. “Mẹ, xin mẹ đừng lo. Con sẽ còn sống lâu, sống thọ để còn chăm sóc mẹ.”


Vì thương mẹ mà ngài luôn cố che giấu những nỗi ưu tư. Tuy vậy, Thái hậu cũng biết vụ Hồng Tập là một chấn thương rất lớn đối với Hoàng đế. Những con người mà ngài tin cẩn nhất lại chĩa gươm vào ngài: Miên Áo, Nguyễn Đình Tân. Đau xót nhất, dù hết sức cố gắng, ngài không sao có lại cảm giác gắn bó với ái phi Nguyễn Đình Thị Cẩm. Nàng là người đàn bà đã không ngừng nuôi dưỡng trong lòng ngài niềm tin về đứa con nối dõi - cái hy vọng không căn cứ mà vô cùng mãnh liệt. Nhưng bây giờ Hoàng đế đã nhận ra: có thể mình sẽ không bao giờ có con.


- Con nhớ lại lúc phụ hoàng băng hà, chỗ nằm chưa định, mẹ con ta lo xây Xương lăng, tuy gấp rút nhưng vẫn mười phần chu đáo. Bài Thánh Đức Thần Công khắc vào bia đá trong lăng cũng là con tự tay soạn thảo. Các việc khoan tha ân xá cho con cháu Mỹ Đường, Nguyễn Văn Thành, Lê Văn Duyệt, Lê Chất, trước đó phụ hoàng đã định mà chưa kịp làm, con đều hoàn tất ý nguyện của người. Nối chí cha là bổn phận làm con! Nhưng đến nay thì hoàn cảnh khác rồi... Sau này chắc con không có người nối chí, chỗ nằm của con chưa chắc đã có người lo. Tình cảnh nay lại nhiễu nhương khó đoán, vì vậy con muốn tự chuẩn bị cho mình, để khỏi phiền đến người sau.


Thái hậu lặng im cầm tay con, mắt rưng rưng. Hoàng đế thấy vậy, vội làm vẻ mặt vui tươi:


- Lo là lo trước cho yên tâm vậy thôi, chứ con vẫn còn trẻ, còn sống khỏe cả đời với mẹ. Con cho làm hai nhà thủy tạ thật đẹp trước lăng, để khi thong thả đưa mẹ lên hóng gió, ngắm cảnh núi rừng. Mẹ thích không?


Thái hậu đưa tay áo chặm mắt, gượng cười:


- Mẹ thích lắm! Nhưng mà… Lúc nãy con có nói đến chuyện không có người nối chí về sau. Con đừng vội tuyệt vọng! Hôm qua mẹ nằm mơ thấy đang tiết Trung Thu, chung quanh trống lân dồn dập, lại thấy mình đang cùng một đứa trẻ chơi đùa. Có khi là điềm năm nay mẹ có cháu con ạ!


Hoàng đế thấy xót, ngài hiểu sự mong mỏi của mẹ cũng khắc khoải chẳng kém mình. Thái hậu gợi ý:


- Mẹ nhớ lại, có người bàn nên nuôi nghĩa tử, xem như một cách để cầu con.


- Con cũng có nghe, nhưng lời đồn nhảm nhí chẳng nên tin, xin mẹ chớ bận lòng.


- Cũng không hẳn là vô căn cứ đâu con! Mẹ nghĩ, khi nhìn ngắm, ẵm bồng đứa trẻ, bản năng làm cha làm mẹ sẽ kích phát sinh mạch, có lợi cho dương khí sinh sôi. Vả lại, cho là không được vậy đi nữa, thì cũng nên gầy dựng người kế nghiệp, rất cần cho đại sự sau này. - Thái hậu ngậm ngùi: - Cái chỗ nằm mai sau, thật ra không hệ trọng bằng chỗ ngồi con để lại đâu con!


Hoàng đế cúi đầu ngẫm nghĩ. Chuyện này, đã từng nghe Thiện phi cầu khẩn nhiều lần nhưng ngài vẫn gạt đi, vì nghĩ hãy còn sớm, vì không muốn nảy sinh chuyện phiền phức giữa con ruột với con nuôi sau này. Nhưng bây giờ… “Dạ, mẹ dạy rất phải. Con sẽ lệnh cho Tôn Nhân phủ lập danh sách các hoàng tôn nhỏ tuổi dâng lên, rồi sẽ tính.”


Mấy tháng sau, em trai của Hoàng đế là Kiên Thái công Hồng Cai được báo tin mừng: công tử đầu lòng tên là Ưng Thị, tuổi mới lên hai, đã được chọn làm hoàng nghĩa tử. Hoàng cung sai đưa vàng lụa ban ơn, chờ chọn được ngày lành tháng tốt sẽ đón hoàng nhi vào cung.


 Vậy là đã định xong hai việc không thể không lo: chỗ nằm vĩnh cửu và việc nối dõi mai sau. Hai việc này, nhà vua muốn thực hiện càng nhanh càng tốt: tình hình hiện nay đang tạm yên, nhưng chưa biết đến lúc nào thì sóng gió sẽ đến…


Bây giờ đây, bồng bềnh trên mặt nước đầm Chuồn, Đoàn Trưng đang cùng các bạn đồng chí bình luận về thời cuộc:


- Theo ta thì nhà vua chưa già nhưng lú lẫn lắm rồi! Nguyễn Tri Phương thất trận to, nướng vào canh bạc Kỳ Hòa không biết bao nhiêu là nhân mạng, tiền bạc. Đã không bắt tội, lại cử ra miền Bắc cầm quân! Phan Thanh Giản cúng đất cho Tây, lẽ ra phải cách chức đuổi về là nhẹ, lại cử vào Vĩnh Long giữ thành lớn! Tệ hơn nữa là nhè lúc này lại xây lăng đắp mộ, bắt dân phải bỏ ruộng bỏ đồng, chỉ để đi xây một cái nấm mả, có nên hay không?


Hữu quân Tôn Thất Cúc gật đầu:


- Hoàng thượng lúc nào cũng nói người tài khó kiếm, nên phải khoan dung cho người ta còn lập công chuộc tội. Rồi cứ giao việc cho mấy kẻ đã rõ ràng thất bại, trong khi bao nhiêu triều thần ngồi sờ sờ đây lại không được dùng tới. Nhất là ngài lại tin cái lão Thống chế Nguyễn Văn Xa mới chết chứ! Lão ta là tay tổ tham lam, lãnh việc xây lăng rồi ăn vôi ăn vữa, bòn rút cái nấm mả mà làm giàu, thật khốn nạn!


- Ăn vôi ăn vữa còn đỡ! Lão còn ăn chẹn cả bữa cơm của lính, của phu, làm người ta đói cất tay không nổi. Thấy làm không nổi, thì lại vác roi đòn ra mà đốc, khổ cho dân nghèo quá lắm! - Tư Trực nói.


Lâu nay, Đoàn Trưng đã cử em út là Đoàn Hữu Ái cạo đầu giả làm sư, ẩn náu ở chùa Pháp Vân gần đó để theo dõi. Vì vậy chàng nắm rất rõ tình hình ở công trường xây lăng Vạn Niên. “Việc chúng ta bàn tính đây cần phải làm gấp, không chần chờ được nữa. Nhất định phải đứng lên cứu dân, cứu nước!”


Ai nấy đều cùng một ý: sự bức xúc ở công trình xây lăng đang lan tỏa từ trong dân cho đến trong triều, quả là một thời cơ rất tốt cho việc quật khởi.


 - Chỉ có điều, ngọn cờ tôn phù là Phú Bình công Miên Áo nay khó mà dựng lên được nữa. Vì sau khi Hồng Tập bị chém, ngài xót phận con, buồn phận mình, nằm bệnh liệt giường! Ngày một ngày hai e ngài cũng ra đi... Mà không có ngọn cờ dòng dõi hoàng tộc thì khó nói cho dân nghe lắm, dân mình vẫn coi đạo thờ vua là trọng! - Một người lên tiếng.


Đoàn Trưng quay nhìn, thì ra Suất đội Bùi Văn Liệu. Trưng gật đầu:


- Việc ấy không lo. Ta đã định sẵn một người để tôn phù, còn xứng đáng hơn Phú Bình công nhiều lắm.


Người xứng đáng ấy, trong lòng Đoàn Trưng đã có dự tính từ lâu, ngay sau cái đêm theo Tùng Thiện công đến thăm ngôi nhà khuất nẻo ở Hương Trà: Đinh Đạo, hay nói cho chính xác là Nguyễn Phúc Ưng Đạo, cháu đích tôn đời thứ năm của Gia Long Hoàng đế.


(Xem tiếp số báo tới)
21 Tháng Mười 2024(Xem: 562)