Nguyễn Chính Kết: Câu chuyện về Giám mục Nguyễn Hữu Long và Linh mục Đặng Hữu Nam

29 Tháng Chín 20258:00 SA(Xem: 388)

VĂN HÓA ONLINE - SỰ KIỆN XƯA & NAY - THỨ HAI 29 SEP 2025


Nguyễn Chính Kết: Câu chuyện về Giám mục Nguyễn Hữu Long và Linh mục Đặng Hữu Nam

image001

NGUYỄN CHÍNH KẾT


(từ Houston, Texas gởi VHO)


* Tác giả nguyên là một chủng sinh – từ nhỏ theo học trong tiểu chủng viện, đại chủng viện và Học viện Giáo Hoàng ở Đà Lạt (dòng Triều). Ngoài công việc dạy triết học cho một số tu viện Công giáo tại Sàigòn, ông thường nghiên cứu về các tôn giáo bạn như Cao Đài, Hòa Hảo, Phật Giáo. Ngoài ra, khi còn ở trong nước, ông tham gia hoạt động với nhiều tổ chức khác biệt chính kiến với nhà cầm quyền nên bị sách nhiễu liên tục. Hiện ông đang sinh sống tại Thành phố Houston, Texas, Hoa Kỳ.


Bài viết dưới đây của tác giả gồm hai phần:


PHẦN 1: Cảm nghĩ về vụ Giám mục Nguyễn Hữu Long và Linh mục Đặng Hữu Nam
PHẦN 2: Làm sao biết được ai đúng ai sai?


* Giám mục Nguyễn Hữu Long

image004

Là người được Đức Giáo hoàng Phanxicô bổ nhiệm làm Giám mục Phụ tá Giáo phận Hưng Hóa năm 2013, rồi được bổ nhiệm làm Giám mục chính tòa Giáo phận Vinh năm 2018, kế nhiệm Đức cha Phaolô Nguyễn Thái Hợp. Trước khi làm giám mục, ông được phong chức linh mục năm 1995 tại Giáo phận Vinh sau thời gian học thần học tại Roma.


Trong thời gian làm Giám mục Giáo phận Vinh, sự việc xảy ra khiến dư luận người Việt trong nước cũng như hải ngoại quan tâm, đó là vào ngày 17/6/2020, Tòa Giám mục Vinh có thông báo Linh mục Đặng Hữu Nam được đưa về Tòa Giám mục, và được cho là “tạm nghỉ mục vụ”, không được làm các hoạt động mục vụ bình thường như trước. LM Nam đăng trên Facebook cá nhân rằng ngày 31/12/2021, Giám mục Nguyễn Hữu Long thông báo rằng từ hôm đó, LM Nam “không phải dâng lễ nữa”. LM Nam tố cáo rằng các quyết định đối với ông không minh bạch, ông bị cô lập, kể cả trong việc tiếp cận y tế khi ông đau bệnh. Có dấu hiệu GM Long bị áp lực từ chính quyền.


* Linh mục Đặng Hữu Nam

image006

Là một linh mục Công giáo, thuộc Giáo phận Vinh, Nghệ An. LM Đặng Hữu Nam là một linh mục được nhiều người trong cộng đồng Công giáo và cả ngoài cộng đồng kính trọng vì lên tiếng cho những người bị ảnh hưởng bởi ô nhiễm môi trường và vi phạm quyền con người, đồng thời tham gia giúp đỡ người nghèo trong các thời điểm khủng hoảng xã hội.


Vào tháng 4/2016, khi xảy ra sự cố Formosa gây ô nhiễm biển nghiêm trọng ở miền Trung Việt Nam (các tỉnh như Hà Tĩnh, Quảng Bình, Nghệ An, …), LM Nam đã đồng hành với giáo dân bị thiệt hại, lên tiếng phản đối cách giải quyết của chính quyền trong việc bồi thường thiệt hại, minh bạch thông tin. Ông tổ chức để giáo dân ký đơn, đi khiếu nại, thúc giục các cơ quan chức năng phải minh bạch.


LM Nam từng gặp khó khăn với chính quyền vì các bài giảng, phát ngôn được cho là có yếu tố chính trị, chỉ trích chính sách, nói về quyền con người, đòi hỏi pháp luật phải bảo vệ người dân khi nhân quyền bị vi phạm. Ông cũng thúc đẩy việc bảo vệ quyền tự do tôn giáo. Ông được trao Giải Thưởng Nhân Quyền Lê Đình Lượng 2021 cho những nỗ lực trong tranh đấu nhân quyền và dân sinh.


Vào ngày 17/6/2020, Tòa Giám mục Vinh có thông báo Linh mục Đặng Hữu Nam được đưa về Tòa Giám mục, và được cho là “tạm nghỉ mục vụ”, không được làm các hoạt động mục vụ bình thường như trước.


PHẦN 1:


Cảm nghĩ về vụ Giám mục Nguyễn Hữu Long và Linh mục Đặng Hữu Nam


image008Từ trái: Giám mục Vinh Nguyễn Hữu Long và Linh mục Đặng Hữu Nam. Ảnh Nguyễn Chính Kết cung cấp.


Vụ Giám mục Vinh Nguyễn Hữu Long huyền chức linh mục và giữ Linh mục Đặng Hữu Nam tại Tòa Giám mục kéo dài đã mấy năm nay, càng ngày càng lôi kéo nhiều người quan tâm, thậm chí can thiệp trên mạng, khiến sự việc dường như ngày càng to chuyện và đi vào bế tắc. Sự việc lại bùng lớn lên sau khi Linh mục Nguyễn Hữu Lễ muốn làm sáng tỏ hai điều mà không ai biết đúng sai thế nào, đã gây nên tình trạng hoang mang trong giới giáo dân Công giáo. Đó là hai điều mà Linh mục Đặng Hữu Nam, khi trả lời phỏng vấn Nhà báo Nghê Lữ tại San Jose, đã nói về cách Giám mục Nguyễn Hữu Long hành xử đối với ông. Theo lời Linh mục Nam thì Giám mục Long đã không cho ông đi chữa bệnh trong trường hợp ngặt nghèo và đối xử với ông quá tệ bạc. Sự việc dường như chưa ngừng tại đó mà còn to lên nữa khi nhiều video đã giả danh và giả mạo tiếng nói của một số linh mục hay giám mục có uy tín, trong đó có người bênh vực Giám mục Long, có người ủng hộ Linh mục Nam.


Là người ở hải ngoại và hoàn toàn đứng ngoài cuộc, tôi không biết sự việc đã xảy ra thế nào, nên hoàn toàn không dám kết luận ai đúng ai sai. Lý do là vì khi Linh mục Nguyễn Hữu Lễ hỏi chuyện với cả hai người qua zoom và yêu cầu hai người nói đúng sự thật, thì ai cũng cho tự cho mình là đúng, còn người kia mới là sai. Cho tới nay, không thấy ai có thẩm quyền phán đoán đúng sai để mọi người tâm phục khẩu phục cả.


Để giải quyết mọi chuyện rắc rối, khó khăn trong cuộc đời, thì trên nguyên tắc, phải giải quyết từ nguyên nhân, từ gốc. Chứ chỉ tìm hiểu ai nói đúng ai nói sai như chủ trương của Linh mục Lễ thì theo tôi chỉ là giải quyết cái ngọn thôi, dù có xác định được ai đúng ai sai thì cũng chẳng giải quyết được, vì chưa xác định được nguyên nhân từ đâu để giải quyết từ gốc, từ chính cái nguyên nhân ấy. Vì thế, tôi nghĩ điều cần thiết nhất là phải xác định được nguyên nhân từ đâu phát sinh ra nông nỗi này.


Tôi nhận ra tất cả mọi chuyện bất hòa đó xuất phát từ một sự kiện mà ai cũng phải công nhận, đó là Giám mục Long đã làm một chuyện không thuộc trách nhiệm và thẩm quyền của mình. Nếu Linh mục Nam có việc gì lỗi pháp luật nhà nước như nhà cầm quyền CSVN từng ghép tội, thì việc kết án hay trừng phạt Linh mục Nam là trách nhiệm hay thẩm quyền của nhà cầm quyền. Giám mục hoàn toàn không có thẩm quyền hay trách nhiệm làm chuyện ấy. Tại sao Giám mục lại làm việc ấy thay cho nhà cầm quyền? Nếu Linh mục Nam có vi phạm giáo luật, hay làm điều gì trái nghịch trong lãnh vực tâm linh tôn giáo, thì khi ấy, Giám mục Long vừa có trách nhiệm vừa có thẩm quyền để trừng phạt Linh mục Nam theo giáo luật.


Sự kiện thứ hai có thể là nguyên nhân thúc đẩy Giám mục Long làm một chuyện không thuộc trách nhiệm và thẩm quyền của mình, như Giám mục Long đã từng nói với Linh mục Nam, là «việc cha làm gây khó khăn cho tôi». Tôi không biết khó khăn ấy lớn cỡ nào khiến Giám mục Long phải chấp nhận làm cái việc không thích hợp ấy. Và tôi không biết rằng lương tâm của Giám mục Long có cảm thấy an ổn khi làm công việc không thích hợp ấy không. Tôi chỉ nghỉ nghĩ rằng một người muốn làm theo lương tâm thì phải chấp nhận trả giá. Nếu không chấp nhận trả giá, thì không thể tự hào rằng mình là người luôn làm theo lương tâm của mình.


Riêng việc làm của Linh mục Nam mà mọi người đều thấy, đó là ông đấu tranh cho nhân quyền, cho tự do tôn giáo, cho công lý, cho công bằng xã hội. Thiết tưởng bất kỳ một giáo sĩ nào từng học trong chương trình Đại chủng viện, thì đều được học về Học Thuyết Xã hội của Giáo Hội. Theo học thuyết này thì việc đấu tranh cho công lý, cho nhân quyền, đều là bổn phận và trách nhiệm của mọi Kitô hữu. Nếu có giáo sĩ nào không nhớ, thì tôi xin trưng dẫn trong phần phụ chú ở cuối bài này những lời của các vị chủ chăn cao cấp nhất của Giáo Hội nói hay viết về bổn phận và trách nhiệm nói trên.


Nếu có Kitô hữu nào đấu tranh cho công bằng xã hội hay nhân quyền, thì đúng ra các chủ chăn phải ủng hộ chứ không thể cấm đoán hay ngăn cản. Nếu một vị bề trên trong Giáo Hội muốn ngăn cản thì không thể dùng hình phạt của tôn giáo như huyền chức linh mục để phạt một việc làm chỉ thuộc lãnh vực xử lý của nhà cầm quyền mà thôi.


Vì thế, để giải quyết vấn nạn này, tôi nghĩ cách tốt nhất là nên trả về nguyên trạng như trước khi nguyên nhân kể trên xảy ra. Nghĩa là nguyên trạng trước khi Giám mục Long ra lệnh huyền chức và buộc Linh mục Nam phải về sống tại Tòa Giám mục.


Nếu việc đấu tranh cho công lý và nhân quyền mà nhà cầm quyền cho rằng đó là vi phạm pháp luật thì hãy để nhà cầm quyền xử lý. Giám mục Long không nên làm thay cho nhà cầm quyền như thể mình là công cụ của họ hay làm như họ là ông chủ của mình. Nhất là khi việc làm thay cho họ như thế là trái với lương tâm và quyền hạn của mình.


Tôi đọc bài Tin Mừng trong thánh lễ Chúa nhật thứ 23 Thường Niên ngày 7/9/2025 vừa qua, tôi thấy Đức Giêsu nói về việc muốn làm môn đệ của Ngài thì phải liệu sức mình xem có làm nổi hay không. Nếu thấy không làm nổi thì nên từ chối trước đi (x. Lc 14:25-33). Chắc chắn Chúa nhật vừa qua, Giám mục Long cũng đã giảng về bài Tin Mừng ấy. Nhân đây, tôi cũng xin nhắc lại một nguyên tắc quan trọng mà thánh Phêrô và các tông đồ khác đã từng tuyên bố trước Thượng Hội Đồng tôn giáo Do Thái khi Hội đồng này nghiêm cấm các ông không được giảng dạy về Đức Giêsu nữa. Các ông nói: «Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người phàm» (Công vụ Tông đồ 5:29). Tôi nghĩ rằng Linh mục Nam đã áp dụng lời tuyên bố ấy khi ông không chịu vâng lời người phàm.


Nguyễn Chính Kết


______________________


Phụ chú:


Tôi xin trích dẫn những lời của các vị chủ chăn cao cấp nhất trong Giáo Hội Công giáo liên quan đến trách nhiệm và bổn phận của người Kitô hữu trong việc đấu tranh cho quyền làm người, cho công bằng xã hội mà ai từng học về Học Thuyết Xã hội của Giáo Hội đều có thể biết. Theo Học thuyết trên, Giáo Hội Công giáo không chỉ khẳng định phẩm giá bất khả xâm phạm của con người, mà còn mời gọi người Kitô hữu tích cực tham gia vào công cuộc xây dựng một xã hội công bằng, bác ái và nhân bản.


I. Công đồng Vatican II, trong Hiến chế Mục vụ Gaudium et Spes (Vui mừng và Hy vọng) và Hiến chế Lumen Gentium (Ánh sáng Muôn dân) từng xác định:


● «Niềm vui và hy vọng, nỗi buồn và lo âu của con người thời nay, nhất là của những người nghèo khổ và những ai đang chịu đau khổ, cũng là niềm vui và hy vọng, nỗi buồn và lo âu của các môn đệ Chúa Kitô» (GS, số 1);


● «Mọi hình thức kỳ thị xã hội hay văn hóa, dù do giới tính, chủng tộc, màu da, địa vị xã hội hay tôn giáo, đều phải bị loại bỏ như trái với ý Thiên Chúa» (GS, số 29);


● «Giáo dân, nhờ bí tích Rửa Tội, được tham dự vào các sứ vụ tư tế, tiên tri và vương đế của Chúa Kitô… Họ được mời gọi làm chứng cho Chúa Kitô trong đời sống xã hội, chính trị, kinh tế» (LG, số 31).


II. Giáo Hoàng Lêô XIII trong Thông điệp Rerum Novarum (Tân Sự) từng viết:


● «Vì Giáo Hội là cơ quan hướng dẫn luân lý, nên không thể đứng ngoài các vấn đề xã hội. Giáo Hội phải lên tiếng để bảo vệ công lý, nhân phẩm và quyền lợi của người lao động» (https://thanhlinh.net/vi/dgh-leo-xiii-va-tong-thu-tan-su)


III. Đức Giáo Hoàng Phanxicô trong Tông huấn Evangelii Gaudium (Niềm Vui Tin Mừng) viết:


● «Một Kitô hữu không thể nghĩ rằng việc bảo vệ người nghèo là điều tùy chọn hay là một việc làm bên lề. Đó là một đòi hỏi thiết yếu của đức tin» (EG, số 201);


● «Chúng ta không thể giữ im lặng trước những bất công khi có người bị loại trừ, bị coi là vô dụng, hay bị bóc lột» (EG, số 53);


● «Đức tin mà không thể biến thành dấn thân xã hội thì đó không phải là một đức tin đích thực» (EG, số 183);


● Trong một hội nghị quốc tế, Đức Phanxicô nói: «Phản ứng của chúng ta đối với sự bất công và bóc lột không phải chỉ là lên án. Trước tiên và quan trọng nhất, đó phải là việc tích cực cổ vũ điều tốt».


IV. Đức Gioan XXIII trong Thông điệp Pacem in Terris (Hòa Bình trên Trái Đất) từng viết:


● «Mỗi người đều có quyền được sống, được tôn trọng nhân phẩm, được tự do tìm kiếm chân lý, được tự do phát biểu và truyền bá tư tưởng, được tự do tôn giáo, và được tham gia vào đời sống chính trị» (PT, số 9).


V. Đức Phaolô VI trong Tông huấn Evangelii Nuntiandi (Loan báo Tin Mừng) và Thông điệp Octogesima Adveniens (Bát Thập Niên) cũng viết:


● «Phúc Âm hóa không chỉ là rao giảng Tin Mừng trong nhà thờ, mà còn là biến đổi các mối tương quan xã hội, các cơ cấu bất công, và các nền văn hóa» (EN, số 18–20);


● «Mỗi người phải biết rằng chính trị có thể là một hình thức cao cả của bác ái nếu được thực hiện với tinh thần vô vị lợi và vì lợi ích của mọi người» (OA, số 46).


VI. Đức Gioan Phaolô II trong Tông huấn Christifideles Laici (Kitô hữu Giáo dân) từng viết:


«Giáo dân được mời gọi sống đức tin trong mọi chiều kích của đời sống, kể cả trong các môi trường xã hội, kinh tế, văn hóa và chính trị» (CL, số 23).


VII. Đức Hồng y Angelo Sodano trong Compendium of the Social Doctrine of the Church (Tuyển tập Học thuyết Xã hội của Giáo hội) cũng viết:


● «Tham gia vào đời sống xã hội là một bổn phận luân lý. Không ai được phép thờ ơ trước những bất công đang diễn ra… Không ai được phép đứng ngoài chính trị. Mọi người đều có trách nhiệm xây dựng công ích» (số 189).


VIII. Theo Ban Công Lý và Hòa Bình Tổng Giáo phận Huế:


«Việc loan báo Tin Mừng phải gắn với cuộc sống thực tế của con người… phải liên quan tới công lý, hòa bình và tiến bộ, phải đưa ra một sứ điệp… về sự giải phóng» (https://hdgmvietnam.com/chi-tiet/phuc-am-hoa-va-giao-huan-xa-hoi-cua-giao-hoi-cong-giao-41896)


PHẦN 2:


Làm sao biết được ai đúng ai sai?

image010

Kính thưa Quý Vị,


Trong đời sống hằng ngày, chúng ta thường phải đối mặt với những tình huống tranh chấp, hiểu lầm, hoặc mâu thuẫn giữa hai hay nhiều người. Điều khó khăn là: ta không phải lúc nào cũng có đầy đủ bằng chứng để xác định ai đúng ai sai một cách tuyệt đối. Không có đủ bằng chứng thì làm sao biết được ai đúng ai sai?


Vấn đề cụ thể mà rất nhiều người muốn xác minh, đó là có hai câu hỏi mà Linh mục Nguyễn Hữu Lễ muốn làm sáng tỏ. Đó là: có thật là Giám mục Nguyễn Hữu Long đã thật sự không cho phép Linh mục Đặng Hữu Nam đi chữa bệnh trong trường hợp khẩn cấp không, và có thật là Giám mục Long đã đối xử thiếu tình người với Linh mục Nam hay không.


Linh mục Lễ đã phỏng vấn cả hai người qua zoom, nhưng cả hai đều nói mình không có lỗi mà đổ hết lỗi cho người kia.


Trước tình huống đó thì Linh mục Lễ cũng chẳng kết luận được gì, và vấn đề chẳng hề sáng tỏ thêm được chút nào. Chắc chắn ngoài hai đương sự ra, chỉ có Thiên Chúa mới biết được ai đúng ai sai, ai nói thật ai nói sai.


Để phần nào giúp cho những vị có thẩm quyền xử lý sự việc này, và giúp cho những ai muốn tìm hiểu, tôi xin góp một số suy nghĩ của tôi về vấn đề này.


Trước hết, tôi phải xác định rằng tôi hoàn toàn là người đứng ngoài cuộc, và không có trách nhiệm hay thẩm quyền để phán đoán đúng sai trong sự việc này. Tôi chỉ có thể đưa ra một số những nguyên tắc để phán đoán đúng sai theo lương tri tự nhiên mà Thiên Chúa ban cho mỗi người ai cũng có, tiếng Anh gọi là common sense mà tôi tạm dịch là nhận thức chung. Đồng thời tôi cũng hạn chế tính chính xác khi áp dụng những nguyên tắc trên ở mức xác xuất (probability) cao nhất có thể trong giới hạn của nó thôi. Nói khác đi, ta chỉ có thể suy luận theo xác suất cao, tức là dựa vào những sự kiện đã biết, những hành vi đã xảy ra, để đưa ra phán đoán hợp lý nhất, dù không thể chắc chắn 100%. Chuyện kết luận thế nào là tùy phán đoán riêng của mỗi người, ta nên tôn trọng suy nghĩ của nhau.


 1) Bản chất của suy luận xác suất:


Suy luận xác suất không phải là phỏng đoán tùy tiện. Nó là một quá trình logic, dựa trên: những dữ kiện đã biết, những mẫu hành vi lặp lại, những động cơ có thể có, những phản ứng khi bị chất vấn, và độ tin cậy của từng người liên quan. Quá trình logic này không có khả năng giúp ta có được «chân lý tuyệt đối», nhưng chỉ có thể cho chúng ta «khả năng đúng ở mức tương đối cao» thôi.


Để có được «khả năng đúng ở mức tương đối cao» ấy, người ta phải dựa trên một số nguyên tắc


 2) Những nguyên tắc suy luận theo xác suất:


a. Xét theo lương tâm: Một người chủ trương phải hành động theo lương tâm bất chấp phải trả giá cao cho việc làm ấy bao giờ cũng đáng tin hơn người không dám làm theo lương tâm khi gặp khó khăn. Chắc chắn đây là nguyên tắc quan trọng và giá trị nhất. Chẳng hạn người dám làm theo lương tâm khi lương tâm đòi buộc bất chấp phải hy sinh cả mạng sống, hay vấn đề an ninh, hoặc phải chấp nhận mọi khó khăn xảy đến thì người ấy thường sẽ không làm gì trái với lương tâm vì những lợi lộc nhỏ nhoi hay vì phải đối phó với những khó khăn nhỏ hơn. Trái lại, người chỉ vì phải đối phó với một khó khăn tương đối nhỏ mà đã sẵn sàng làm trái với lương tâm mình, thì khó mà tin tưởng được người ấy sẽ làm theo lương tâm khi phải đối phó với những khó khăn lớn hơn.


b. Có bằng chứng cho điều mình quả quyết: Người sẵn sàng đưa ra bằng chứng, và bằng chứng đó có nhân chứng sẵn sàng xác nhận, thì lời nói của người ấy đáng tin. Còn người chỉ xác quyết dù rất mạnh nhưng không có bằng chứng, thì không đáng tin lắm.


c. «Vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người phàm»: Đây là tiêu chuẩn của các môn đệ Chúa Giêsu, họ bị các bề trên trong tôn giáo của mình là Thượng Hội đồng Tôn giáo Do Thái nghiêm cấm các ông không được rao giảng về Đức Giêsu nữa. Nhưng các ông nói: «Chúng tôi phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người phàm» (Cv 5:29). Như vậy, ai sẵn sàng tuân theo lệnh truyền của Thiên Chúa hơn lệnh của người phàm, thì đáng tin hơn người sẵn sàng vâng lời người phàm hơn vâng lời Thiên Chúa, nhất là khi người phàm ấy là người đối nghịch với Thiên Chúa.


d. Xét những hành vi lặp lại: Nếu một người trong quá khứ đã từng nhiều lần nói dối, trốn tránh trách nhiệm, hoặc gây hại cho người khác, thì xác suất họ tiếp tục làm những điều sai trái ấy trong hiện tại thường là khá cao. Chẳng hạn, một người từng đổ lỗi hay chối tội nhiều lần trong quá khứ, thì xác suất họ tiếp tục đổ lỗi hay chối tội trong trường hợp hiện tại sẽ là cao.


e. Phản ứng khi bị chất vấn: Người có lỗi thường có phản ứng phòng thủ, tìm cách né tránh, không trả lời thẳng hoặc tìm cách chuyển hướng suy nghĩ của người nghe. Người không có lỗi thì thường bình tĩnh, sẵn sàng đối chất, trả lời rõ ràng, không né tránh bất cứ điều gì. Chẳng hạn nếu A có lỗi thì sẽ rất ngại phải đối chất với B và với công chúng, và rất ngại phải đưa ra bằng chứng.


f. Tương quan giữa lời nói và hành vi: Người mà lời nói trong trường hợp hiện tại phù hợp với những lời nói và hành vi trước đó, thì xác suất đúng sẽ cao. Nếu không phù hợp thì ta nên nghi ngờ. Chẳng hạn ta thấy A luôn luôn trung thực, lời nói thường đi đôi với việc làm, nếu A nói «tôi không làm điều ấy», thì hầu chắc A nói đúng. Nếu A từng nói dối, từng phủ nhận sự kiện nhiều lần, mà bây giờ nói «tôi nói thật đấy, xin hãy tin tôi», thì câu nói ấy không đáng tin.


g. Độ tin cậy tích lũy: Người có uy tín, hễ nói thì giữ lời, và được người khác tin tưởng trong nhiều tình huống thì xác suất họ đúng cao hơn. Chẳng hạn, nếu A là người được nhiều người tin cậy trong cộng đồng, có uy tín vì trong quá khứ đã dám nói thật nhiều lần dù gặp khó khăn hay bị đe dọa, thì lời nói của A là có trọng lượng. Ngược lại, người ít uy tín vì nói không giữ lời, hay đã bị mang tiếng là nói sai sự thật, thì lời nói của họ không đáng tin.


h. Nguyên tắc lợi ích chung hay cá nhân: Người hành động vì lợi ích chung thường có xác suất đúng cao hơn người hành động vì lợi ích cá nhân. Nếu một người sẵn sàng chịu thiệt để bảo vệ sự thật, thì lời nói của họ đáng tin hơn.


Những nguyên tắc hay tiêu chuẩn trên, xin nhắc lại một lần nữa, dù rất giá trị, nhưng không tuyệt đối, nghĩa là không thể dựa vào đó để chắc chắn 100%, mà mức độ đúng chỉ được khoảng 70% đến 90% thôi. Vì thế, trong những trường hợp nghiêm trọng, chúng ta cần thận trọng khi xác quyết.


 3) Những tiêu chuẩn sai lầm để đánh giá đúng sai:


Trước khi trình bày mục này, tôi cần nêu lên một nguyên lý quan trọng mà rất ít người ý thức, đó là: «Người ta chỉ phạm tội khi bị cám dỗ mà thôi!» Nếu không bị cám dỗ thì ai cũng vô tội và thánh thiện cả. Nếu bà Eva không bị cám dỗ ăn trái cấm, chắc chắn chẳng bao giờ bà ấy làm điều ấy cả. Người ta chỉ chứng minh được mình là người tốt, là người có bản lãnh khi họ bị thử thách. Nguyễn Công Trứ đã nói lên điều đó qua câu: «Ví phỏng đường đời bằng phẳng cả, anh hùng hào kiệt có hơn ai». Anh hùng hào kiệt chỉ lộ diện khi họ làm được những điều rất tốt mà không mấy ai làm được. Do đó, ta không thể dựa vào tình trạng vô tội của một người nếu chưa được thử thách để có thể kết luận đó là một người tốt được. 


Có người đã minh họa sự thật đó qua câu chuyện: mấy con chó đang đùa giỡn với nhau rất hòa thuận, nhưng khi có người vứt cho chúng một khúc xương, thế là những con chó dễ thương ấy bắt đầu tranh giành và cắn nhau. Tương tự như vậy, có nhiều gia đình anh em yêu thương nhau lắm, dễ dàng giúp đỡ nhau khiến ai cũng khen. Nhưng khi cha mẹ chết để lại một gia tài mà không có di chúc rõ ràng, thì anh em bắt đầu chia rẽ, kiện cáo nhau, coi nhau như kẻ thù.


Những người từng bị tù về kể lại: nhà tù là nơi giúp con người bộc lộ được hết bản tính đích thật của mình. Rất nhiều người được người đời đánh giá là đạo đức cao, khi bị tù, có người vẫn giữ được y nguyên phẩm chất đó, nhưng khá nhiều người đã biểu lộ rõ rệt bản tính ích kỷ, sẵn sàng làm chuyện bất công. Cũng vậy, nhờ Việt Nam biến thành một nhà tù lớn mà nhiều người đã bộc lộ ra bản chất đích thật của mình, hoặc cao thượng, hoặc tầm thường. Vì thế, để khỏi bị sai lầm khi phán đoán bản chất của một người, hay khi cần phán đoán ai đúng ai sai, chúng ta cần tránh những tiêu chuẩn không chỉnh về mặt logic.


Thật vậy, để phán đoán đúng sai, chúng ta rất dễ sai lầm khi bị chi phối bởi cảm xúc, ấn tượng cá nhân, định kiến xã hội, hoặc dựa vào những tiêu chuẩn hay nguyên tắc không chuẩn. Những tiêu chuẩn này tuy không đáng tin cậy nhưng lại rất phổ biến. Vì thế, tôi nghĩ cũng nên đưa ra đây để mọi người biết mà tránh. Những nguyên tắc suy luận theo xác xuất ở phần đầu, chỉ áp dụng đúng trong đa số trường hợp, chẳng hạn 70-90% thôi. Chúng ta dễ đi vào sai lầm khi chúng ta tuyệt đối hóa những nguyên tắc kể trên. Và những tình huống hay ngụy biện sau đây là những trường hợp rất dễ dẫn chúng ta đến sai lầm.


a. Tình huống vì tình thân: «Vì đó là người thân của tôi, nên tôi phải bênh vực»: Rất nhiều người vì liên hệ thân tình với người có lỗi, mà trở nên rất dễ tin những gì người ấy nói. Và cho dù có biết người ấy nói sai, thì cũng đành phải bất chấp sự thật, bất chấp công lý, mà phải nói sao có lợi cho người thân của mình. Chẳng hạn, vì người ấy mẹ tôi, là bề trên của tôi, là người cùng tổ chức với tôi, v.v... nên tôi tin người ấy, và dù tôi biết người ấy sai, tôi vẫn phải nói người ấy đúng. Nếu không như vậy thì tình thân giữa tôi với họ sẽ mất.


b. Tình huống bị áp lực: «Tôi mà nói thật thì nguy hiểm cho tôi»: Trong một chế độ độc tài, hay trong một tổ chức có tính giáo điều, tôi thường tin những gì tôi được dạy từ hồi nhỏ. Và về sau, cho dù tôi có biết điều đó không đúng, thì tôi cũng ngại nói chính điều tôi nghĩ là đúng, vì như thế sẽ rất bất lợi cho tôi, tôi sẽ bị kết án, nên tôi phải nói giống như mọi người mặc dù tôi biết nói như vậy là không đúng.


c. Ngụy biện cảm tính: «Người ấy dễ thương, nên chắc là nói thật»: Điều sai lầm của nhiều người là không phân biệt giữa dễ thươngtrung thực. Trong xã hội, có những người bản tính không trung thực, nhưng lại tỏ ra thật dễ thương dễ mến để được mọi người yêu thương, tín nhiệm. Chẳng hạn những chàng sở khanh khi tán gái thường ăn nói dễ thương hơn người thật sự yêu thương.


d. Ngụy biện từ thiện chí: «Người ấy đối xử rất tốt với tôi, nên chắc là không có lỗi»: Đây là tiêu chuẩn mà ngay cả những người trí thức cũng mắc phảiVì thế, cần phân biệt: Đối xử tốt với ta trong một số tình huống không có nghĩa người ấy cũng luôn luôn đối xử tốt với mọi người. Việc đối xử tốt ấy không chứng minh được người ấy vô tội trong mọi tình huống.


e. Ngụy biện từ số đông: «Ai cũng tin người ấy, nên tôi chắc rằng người ấy đúng»: Sự đồng thuận xã hội là một chứng cứ tốt, nhưng không phải là bằng chứng có giá trị chắc chắn.


f. Ngụy biện từ quá khứ: «Người ấy từng làm việc tốt, nên lần này chắc không sai»: Tiêu chuẩn này giúp ta ý thức được tính tương đối của những nguyên tắc đã nói ở phần đầu. Những người thường xuyên làm việc tốt không có nghĩa là họ không bao giờ làm việc xấu.


g. Ngụy biện từ địa vị: «Người ấy là người có học, có chức vụ, nên chắc không nói sai»: Trình độ hay địa vị không miễn trừ sai lầm hoặc gian dối.


 4. Kết luận:


Cần tỉnh táo trước những tiêu chuẩn cảm tính như dễ thương, quen biết, địa vị, hay thiện chí, v.v... Những cảm tính ấy dễ khiến ta mất khách quan, mất sáng suốt mà vô tình trở nên thiên vị, thiếu công bằng. Để phán đoán đúng sai một cách hợp lý, ta cần tách biệt cảm xúc khỏi dữ kiện, và dùng tư duy logic, dù là theo xác suất, để tiếp cận sự thật. Tuy nhiên, những nguyên tắc suy luận theo xác xuất không bảo đảm đúng được 100%, chỉ nên tin tưởng từ 90% trở xuống thôi. Trong đời thường, đã có biết bao trường hợp «tình ngay lý gian», mặc dù xác xuất rất nhỏ, chỉ vì người kết án đã tuyệt đối hóa những nguyên tắc suy luận theo xác xuất.


Nguyễn Chính Kết