Nhục Vinh

18 Tháng Giêng 20218:32 SA(Xem: 3710)

VĂN HÓA ONLINE - NHÂN VĂN NHÂN VẬT SỰ KIỆN - THỨ HAI 18 JAN 2021

Ý kiến-Bài vở vui lòng gởi về:  lykientrucvh@gmail.com (VănHóa Online-California)

 

Nhục Vinh

image009
Phạm Quốc Bảo
Lời tác giả: Hôm Thứ Hai January 11-2021, đọc được lời tuyên bố của ông Arnold Schwarzenegger do Hoàng Ngọc Tuấn dịch (xin đọc nguyên văn ở phần chú thích*) , tôi gởi Văn Hóa Online phổ biến lại truyện ngắn này .Trân trọng (PQBảo).


“Nhục vinh vinh nhục đối đầu
cho ta sống trọn trước sau một đời.
Nếu toàn mạc mặt đãi bôi
thì ai trân trọng đắp bồi mãi đây?”

– Ông có phải tên Nam không?

– A..Nhìn khuôn mặt ông, tôi thấy ngờ ngợ.

– Có lẽ cũng phải trên bốn mươi năm rồi, chúng ta chưa gặp lại, nhau..Hưng. Hưng ‘tốc’ đây!

– Ối! Thật không thể ngờ.

– Tôi già đến độ chẳng nhận ra được sao?

– Gớm! Làm cứ như ‘ông’ lớn hơn tôi nhiều lắm vậy. Có điều, lẽ ra chúng ta đã phải gặp lại nhau trong gần ba chục năm nay rồi chứ! Thế mà..

– Lẽ ra là vậy. Nhưng từ ngày qua đây, tôi cứ chết rí mãi ở một thị trấn nhỏ vùng đông- bắc. Xin lỗi trước: Quả thật, thâm tâm tôi cũng không muốn gặp mặt bất cứ ai là bạn cũ trước Bảy Lăm.

– Nhưng còn bây giờ?

– Về hưu rồi. Con cháu thì vì công ăn việc làm và tâm tình của chúng mà tứ tán khắp nơi. Vợ tôi nhất định đòi về ở dưới Nam Cali này để được gần gũi anh chị em, họ hàng…Anh có gì bận bịu ngay bây giờ không?

– Chẳng có gì gấp cả.

– Thì mình vào cái quán kia, nhâm nhi với nhau một ly cà phê?… Sao, bạn sang năm nào?

– Sau Bẩy Lăm tôi ở tù trên năm năm, ốm xuýt chết một năm rưỡi họ mới thả ra. Rồi gặp may, chỉ vài tháng sau là vượt biển thoát. Sang đây và định cư tại vùng này luôn từ giữa 81 đến giờ.

– Việc làm ăn vẫn ổn chứ?

– Đại khái là sống được: Về hưu trên một năm nay rồi nhưng may mắn là hiện vẫn còn được làm bốn tiếng mỗi ngày, để thêm chút ít chi dụng hằng tháng, và lại có cơ hội hoạt động đều đặn hằng ngày, cho thể xác đỡ lười biếng mà tâm trí bớt phải bấn bíu vẩn vơ.

– Tôi cũng vậy: Làm việc thiện nguyện, tuần mấy ngày và mỗi ngày vài giờ.

– Việc thiện nguyện của cộng đồng à?

– Không. Thiện nguyện chuyên môn cho hãng của Mỹ…Mà này, anh vừa nói đến cộng đồng. ..Nhưng mới gặp lại nhau, tôi đã vội hỏi han vào chi tiết thì hơi kỳ. Tuy nhiên, vì đang nôn nóng trong lòng và cũng cậy vào tình thân cũ từ thời cuối 1950 đầu 1960, tôi có thắc mắc điểm này. Nếu có gì khiến cho anh không vừa lòng lắm, xin bỏ qua cho.

– Được rồi. Chúng mình đã vốn quý trọng cái thuở còn là học trò với nhau. Hơn nữa, về già thì tình bằng hữu tôi lại càng thấy cần thiết hơn bao giờ.

– Thêm nữa: anh sống ngay tại đây lâu rồi thì chắc thông suốt hơn tôi nhiều. Điều tôi muốn hiểu rằng khi đề cập đến bất cứ ai là người có một chút tiếng tăm, trước đây hay hiện giờ, người ta hầu hết đều tỏ ra chỉ muốn bươi móc để chê bai, để bêu rếu. Tại sao vậy?
– Mới chân ướt chân ráo sang bên miền Tây Nam này tái định cư, gặp phải hiện tượng này, anh chắc thấy hơi ngán ngẩm chứ gì?

– E ngại thì đúng hơn.

– Đã từ lâu, bạn hữu sống ở những tiểu bang xa về đây chơi, họ vẫn thường bầy tỏ với tôi cái cảm tưởng đại khái như ‘ông’ cả. Xem ra đúng là có nhiều tiêu cực hơn ở bề mặt sinh hoạt cộng đồng này nói chung. Tuy nhiên, nhân dịp anh hỏi thì tôi cũng muốn trình bầy cho có lớp lang để chúng ta dễ thông hiểu một cách hợp lý và chấp nhận được. Như vầy nhá. Đầu tiên, đây là xứ tự do, chính chúng ta đây ai cũng là những người đều đang vừa sống lại vừa phải học hỏi để tôn trọng và thực thi tự do – dân chủ – nhân quyền ngay trong đời sống hằng ngày của chính mình. Nếu đồng ý về cái căn bản này, chúng ta đương nhiên phải chấp nhận ý kiến của bất cứ ai khác, cho dù những ý kiến ấy trái ngược hẳn lại với chủ kiến của mình.

– Nhưng đối với những ý kiến mà nội dung chỉ có tính cách mạ lỵ thì sao?

– Theo tôi, đại khái có mấy trường hợp thường gặp về những ý kiến có tính cách bêu rếu: Một là họ vốn mang tâm trạng uất ức dồn nén từ quãng đời quá khứ của từng cá nhân một mà nay gặp dịp là họ nói năng vung vãi, cho hả. Hai là xuất phát từ tâm lý muốn ‘làm nổi’, họ phát biểu lung tung nên lộ rõ căn bản thiếu hiểu biết một cách chín chắn của chính cá nhân họ. Ba là những người‘thừa nước đục thả câu’, họ nêu ý kiến vì sẵn có ẩn ý hay bị chi phối bởi một mục đích riêng nào đó, chỉ nhằm gây ‘hoả mù’ dư luận. Khi phân biệt và xếp loại được như vậy là chúng ta dễ dàng bình tĩnh để có nhận định chính xác được ngay(1).

– Anh dẫn giải có lý đó. Nhưng rõ rệt là trong một năm sang đây sinh sống, tôi thấy số lượng ý kiến có tính cách bêu rếu vẫn trội hơn hẳn.

– Đúng. Và như thế ít nhất là phía có ý kiến đúng đắn bị ‘lép vế’, không đủ khả năng tạo thế cân bằng cho dư luận, nói chung. Có nghĩa là cái mặt tiêu cực của cộng đồng chúng ta còn nặng nề quá. Có nghĩa là còn quá nhiều những mặc cảm đè nặng trong tâm tư của đa số chúng ta mà chưa giải tỏa được bao nhiêu, để làm nổi bật lên cái viễn kiến đúng đắn, cái hành trình gồm nhiều giai đoạn trong cuộc đấu tranh cho tự do-dân chủ và nhân quyền của chúng ta, của dân tộc Việt ta …

– Ồ. Không ngờ mới được gặp lại nhau mà anh đã khơi đúng được manh mối khúc mắc này. Hẳn là anh đã có suy nghĩ kỹ từ trước rồi.

– Ai cũng có thể suy nghĩ chín chắn được cả, anh ạ. Nhưng tôi cho rằng vấn đề ở đây là suy nghĩ theo chiều hướng nào, với mục đích gì.

– Phải. Thật tình tôi thú vị và muốn được gặp anh lại, càng sớm càng tốt. Vì có một số ấm ức mà cả mấy chục năm nay tôi tự mình chưa thể giải toả nổi.
– Chẳng gặp được nhau thì thôi, chứ đã gặp được rồi thì phải gặp dài dài, không thì trễ mất. Chúng ta đang về già cả rồi, ghi nhớ gì thì cứ cùn nhụt đi mà mau quên lắm!

– Tuần sau, được không?

– Sao không! Trao đổi số phôn đi, rồi thủng thẳng hẹn lại cho chắc ăn.

                                                                              *

– Quán này tương đối sạch sẽ, yên tĩnh. Hai đứa mình ăn sáng với nhau, và thong thả chuyện trò.
– Này, tôi hỏi thật nhá: Sang được đây cả trên ba mươi lăm năm nay rồi mà sao cậu lại trốn biệt luôn vậy? Thỉnh thoảng gặp bạn cũ thời trung học, ai cũng bặt tin của cậu cả. Cứ tưởng là…

– Tôi đã mất hút trên cõi đời này rồi. Phải không?

– Thì đại khái bằng hữu đều nghĩ vậy.

– Anh cứ thử hồi tưởng lại xem: Trưa ba mươi tháng Tư, đang lênh đênh trên biển Đông mênh mông, nghe thấy lệnh đầu hàng ở SàiGòn loan qua làn sóng vang vang, ai nấy đều lặng người đi. Thế rồi tầu cập vào Subic Bay, hải cảng Mỹ thuê dài hạn của Phi Luật Tân, hát bài Quốc ca lần cuối trong nước mắt tức tưởi để hạ lá cờ vàng ba sọc đỏ xuống, mới được bước vào đất đảo của người ta. Cái tâm trạng tủi nhục ấy đã hun hút dính theo tôi từ đó cho đến giờ, không hề nguôi ngoai (2).

– Và cứ thế, cậu sống lẩn khuất mãi trong cái xã hội Mỹ mênh mông này?

– Rồi đến nay, vì hoàn cảnh gia đình, tôi mới bất đắc dĩ dọn về để cư ngụ trong khu vực dân cư tập trung nhất của cộng đồng Mỹ gốc Việt, là đây.

– Còn tôi, tôi ở lại đi tù thì có khác gì cậu đâu. Đó là thời gian một hai năm đầu lặn ngụp trong mặc cảm ô nhục, từ chuyện đói rét triền miên ám ảnh đến những hành hạ của tâm trí hằng ngày…Nhưng may mắn là sau đó thì chính con người của mình nó dần dần tỉnh trí lại, và thực tế cuộc sống tù đầy đã đánh thức nhận định của mình. Tôi mới vỡ nghĩa ra rằng cá nhân mình, gia đình mình và ngoài xã hội suốt hai mươi năm Miền Nam Việt Nam của mình cái gì cũng đều đã phát triển, mặc dù phát triển một cách rất ư là ỳ ạch nhưng rõ rệt là chúng ta đã phát triển một cách tự do hơn hẳn họ, phát triển thành một căn bản văn hóa vững chắc. Mình thua họ chỉ vì ở cái thế chiến lược quốc tế nó xếp đặt với nhau như vậy, nó vượt khỏi sức lực đề kháng của dân miền Nam lúc đó; nhưng xét vào sâu những khiếm khuyết chi tiết hơn nữa thì các chính phủ ở miền Nam V.N. đã không giúp dân chúng hiểu rõ được thực chất của Cộng sản và nhất là bản chất của con người miền Nam mình nói chung xưa nay vốn sẵn không thể dối gạt và tàn nhẫn vô nhân như họ được. Ngoài ra, mình còn thấu hiểu thêm được rằng dân Miền Nam sau 75 mới khốn khó, chứ trên hai muơi năm trước đó dân chúng Miền Bắc đã phải khốn đốn triền miên hơn thế nhiều rồi, trong một cái xã hội bị bưng bít mà người dân thì luôn quằn quại chìm đắm vào bầu môi sinh ô nhiễm đến cùng cực.. Và nếu cái xã hội cứ đang vận hành như bây giờ ở trong nước thì cả dân tộc Việt Nam ta ắt phải chịu khốn nạn mãi, cho đến khi mất luôn đi cái đặc chất của nòi giống Việt!

– Cho nên người ta mới tìm đủ mọi cách rời khỏi nước?

– Đúng.

– Thế mà ra đuợc ngoài này rồi, cộng đồng tị nạn người Việt ta trên ba mươi lăm năm nay đầu óc chả khá gì hơn xưa.

– Đầu óc muốn khá ra thì cũng phải nỗ lực tích cực dài hạn để mà học hỏi, rồi cũng phải tự mình dám can đảm biến đổi lấy mình, theo chiều hướng muốn mình phải đoàng hoàng hơn, muốn mình được hiểu biết đúng đắn hơn, trong bối cảnh tiến bộ chung của thế giới ngoài này chứ.

– Với mục tiêu như thế thì tôi thấy từ mốc điểm Ba mươi tháng Tư 75 tới giờ là gần bốn mươi năm rồi, đầu óc chúng ta chả tiến bộ được bao nhiêu.

– Rời khỏi đất nước với hai bàn tay trắng và mọi điều kiện sống trong hoàn cảnh tái định cư, chúng ta đều phải bắt đầu lại từ số không. Như vậy theo anh, ta phải làm gì trước tiên?

– Dĩ nhiên là phải đâm đầu vào kiếm sống trước đã!

– Hẳn vậy. Và cho đến ngày nay, cơm ăn áo mặc đã thư thả rồi, vấn đề cư trú tạm ổn rồi thì.. thì làm gì nữa?

– Chắc anh muốn nói ‘phú chi’ rồi mới đến ‘giáo chi’?

– Xin lỗi bạn, tôi thường suy xét từ thực tế: Đói rã họng thì việc cụ thể trước hết là phải kiếm được gì bỏ vào bụng cái đã. Sau đó rồi mới thong thả nhìn ngó chung quanh, học hỏi và suy nghĩ, tự xét.Theo tôi dự liệu, muốn có một đời sống vật chất tạm ổn thì đòi hỏi nỗ lực và thời hạn nhiều lắm là một thập niên, nhưng còn muốn đổi mới được cả tư tưởng và quan niệm cho phù hợp với bước tiến của xã hội mới thì việc đầu tiên là phải dần dần tự gột rửa những mặc cảm của thân phận mình trước đã rồi sau đó là tái lập viễn kiến, hoạch định đường hướng cho các thế hệ mai sau… Như vậy tối thiểu cần tới gấp nhiều lần hơn thế nữa về mức kiên trì và thời gian. Anh nghĩ sao?

– Về vận hành đổi mới thì vật chất bao giờ cũng là mở đầu và dễ biến chuyển hơn nhiều so với những gì trừu tượng, thuộc về lãnh vực tư tưởng, ý niệm và quan niệm.

– Và thực tế vận hành này cũng là phù hợp với nhu cầu mỗi lúc một rõ ra, của đời sống chúng ta ở ngoài này, trong gần bốn mươi năm chúng ta thành lập cộng đồng gốc Việt ở đây. Rồi trên dự trình tiến bộ thì chỉ khi có sự hiện diện lớn mạnh của những cộng đồng gốc Việt ngoài nước để hỗ trợ và tác động hữu hiệu thì dân Việt trong nước lúc ấy mới vững lòng hừng chí mà trực tiếp vùng lên, đánh dấu một vận hội mới, tạo cơ hội và thúc đẩy tòan thể chúng ta tích cực tìm ra được con đường trường tồn mới cho dân tộc trong tương lai.

– Nói như vậy tức là anh mặc nhiên đồng ý chấp nhận cứ để cái trò chỉ thích mạ lỵ người khác như đang diễn ra ở cộng đồng này, hiện nay?

– Theo tôi nghĩ, cậu nên phân biệt cho rõ: Đấy là mấy hiện tượng thiếu tự trọng, thiếu hiểu biết, chỉ đưa đến tác dụng bêu rếu cộng đồng. Nhưng mấy hiện tượng ấy lại rất cần thể hiện ra cho hết đi, cho hả hơi đi. Còn bên cạnh đó là những hoạt động tích cực xây dựng của cộng đồng.

– Chứng cớ ở đâu mà anh có thể khẳng quyết là vậy?

– Cộng đồng nào mà chả bao gồm cả những yếu tố tích cực lẫn tiêu cực. Có điều dân cư của cộng đồng ấy có biết tự tìm cách phát triển những yếu tố tích cực (chẳng hạn như đầu óc cởi mở, khoan dung, cầu tiến), đồng thời cũng phải nỗ lực làm thui chột đi những yếu tố tiêu cực (chẳng hạn như thái độ thiếu hiểu biết, quan niệm cực đoan quá khích) của cộng đồng mình, hay không. Và cụ thể nhất là cậu có biết được cộng đồng di dân nào ở lịch sử xã hội Mỹ này mà trên ba mươi lăm năm lại xây dựng và phát triển mọi mặt được nhanh chóng như cộng đồng gốc Việt mình hiện nay chăng?

– Ồ…Về điểm này, trong nhất thời tôi phải đồng ý với anh.
– Cộng đồng nào mà chẳng thường xuyên xẩy ra những lộn xộn, trở ngại,. Anh chỉ ra cho tôi đi! Vấn đề là chúng ta có dám thẳng thắn vạch trần ra được những sai sót ấy, một cách chi tiết ngọn nguồn, để mà tự tìm được phương cách điều chỉnh và sửa chữa. Hay là chúng ta chỉ chủ tâm kể lể để chê trách dè bỉu, thậm chí để hạ nhục người khác mà thôi?

– Rồi. Bây giờ lấy sự kiện cụ thể, như lần bầu cử bán kỳ(3), thứ Ba, ngày mùng 2 tháng 11 năm nay (2010) đây, cá nhân anh nghĩ sao?

– Chắc cậu muốn nói rằng có nhiều ứng viên gốc Việt, nhiều hẳn hơn trước đây, nhưng số lượng đắc cử lại quá khiêm nhường?
– Là vậy.

– Nhận xét tổng quát, và trong nhất thời, của cá nhân tôi thì đầu tiên là chưa bao giờ lại nhiều ứng viên trẻ, hầu hết thuộc thế hệ một rưỡi và hai của cộng đồng gốc Việt, đến như vậy. Tức là nhân cuộc bầu cử bán kỳ năm nay, hai thế hệ này rõ rệt là bầy tỏ được sự tự tin và muốn chứng tỏ sức mạnh của họ trên bước đường xông xáo vào sinh hoạt chính trị chính dòng của xã hội Mỹ. Hai nữa, mặc dù tỷ lệ đi bầu của dân cư gốc Việt vẫn còn khiêm nhường nhưng hầu hết cử tri gốc Việt đã thêm nhiều người có tư thế độc lập, tỏ ra khá sáng suốt và nghiêm chỉnh khi quyết định bằng lá phiếu của họ. Đây là hai điểm đáng mừng.

– Nhưng sao đa số lại thất cử?(4)

– Theo tôi, thất cử là do sự chuẩn bị chưa đúng mức cần và đủ của họ về tư thế, về bề dày hoạt động cụ thể hữu hiệu trong quá khứ cho nhu cầu của dân cư ở địa hạt bầu cử. Họ còn yếu kém về sự hiểu biết chính xác các thành phần cử tri của họ, về tính chuyên nghiệp hoạt động chính trị trong xã hội Mỹ; họ thủ đắc những trò ‘ma giáo’ nhiều hơn là đường lối tranh cử một cách đường hoàng mà khôn ngoan. Nói chung, chính đa số chúng ta còn chưa cởi mở đủ, để thi hành đúng, về nếp sinh hoạt dân chủ của xã hội này.

– Cộng đồng ta thất bại rõ…

– Xin phép. Cách phát biểu kiểu chọc giận của cậu vừa không đưa ra những luận cứ rõ rệt mà lại vừa khiến cho người nghe dễ hiểu lầm là cậu chỉ muốn khơi khơi chỉ trích một cách bá vơ. Tôi phải nói thẳng như vậy, vì tôi biết cậu không để bụng giận gì tôi.

– Đúng rồi. Nhưng ý của cậu thì sao?

– Tôi cho rằng các cụ ta xưa nay nói rất đúng, trong trường hợp này: Thất bại là mẹ thành công. Cộng đồng của chúng ta đang trong giai đoạn tập dượt để thực sự tham gia vào dòng chính. Có nghĩa là yếu kém của các ứng viên lẫn của cử tri gốc Việt lộ ra ở lần bầu cử bán kỳ này nếu đuợc xem như những bài học, thì chúng ta phải chịu khó phân tích để biết thật rõ đến ngọn nguồn những thiếu sót của chính mình mà tìm cách điều chỉnh và chuẩn bị kỹ lưỡng hơn nữa. Nếu đuợc như vậy, tôi nghĩ trong mùa bầu cử chính vào hai năm nữa, kết quả sẽ phải khá hơn.

                                                                                    *

– Cảm ơn sự thông cảm mà bạn kiên nhẫn để nói chuyện với tôi. Nhưng có lẽ bạn cũng thấy rằng cách phát biểu của tôi có chiều hướng như muốn dè bỉu người khác, phải không?

– Có vẻ như vậy.

– Nhờ những lời dẫn giải chân thành vừa qua của bạn, tôi tự xét thấy là bản thân tôi xưa nay quen ôm nặng một nỗi ấm ức nên khi đưa ra những nhận xét đều ra vẻ gay gắt mà ‘vơ đũa cả nắm’. Bạn có thể giúp tôi bằng cách thẳng thắn phân tích thêm vào sâu hơn chút nữa chăng?

– Tôi cho là cậu thực sự còn bị ám ảnh quá nặng nề bởi cái hận ô nhục từ sự kiện Ba Mươi Tháng Tư Bẩy Lăm, khi cùng với những người đồng cảnh ngộ hát lên bản Quốc Ca trong lúc hạ xuống lá cờ vàng ba sọc đỏ trên chiếc tầu di tản năm xưa.

– Ờ..

– Thời điểm Ba Mươi Tháng Tư, tất cả chúng ta đều mang mối hận ô nhục đó cả. Có điều, mỗi hoàn cảnh mỗi khác.

– Thế mà xem ra bạn đã dẹp bỏ được rồi đấy?

– Thành thật mà nói, nếu thực sự được như cậu vừa nhận xét thì tôi hết sức mừng… Có điều, tôi nhìn lại lịch sử dân tộc mình thì thấy rằng trên mười thế kỷ dân tộc ta bị người phương Bắc liên tiếp đô hộ, thế mà sau đó với các nhà Ngô-Đinh-Tiền Lê -Hậu Lý- Trần…,các triều đại này đã xác lập được nền tự chủ kéo dài cho đến gần mười thế kỷ kế tiếp, là nhờ ở đâu? Cậu có nghĩ ra không ? Còn theo tôi thì nhờ ở rất nhiều yếu tố quật cường của dân Việt chúng ta từ thuở ấy.

Chẳng hạn như suốt thời kỳ ấy, đã có liên tục không biết bao nhiêu những cuộc vùng dậy đòi độc lập của Hai Bà Trưng, Bà Triệu, Phùng Hưng Bố Cái Đại Vương, Lý Bôn, Lý Phật Tử, Triệu Quang Phục Dạ Trạch Vương, Mai Hắc Đế, Khúc Thừa Dụ, Khúc Hạo và Khúc Thừa Mỹ.(5) Những cuộc vùng dậy này là một diễn trình tập dượt, biết bao nhiêu tiền nhân đã phải nhảy vào chỗ chết để mong tìm ra đường sống còn, để nỗ lực vượt thắng cái nỗi nhục bị đô hộ mà hướng tới niềm vinh dự khi thành tựu được nền độc lập tự chủ của dân tộc.

Chẳng hạn như nước Việt ta thuở ấy hiện diện song song với chữ viết và tiếng nói của người Trung Hoa bó buộc dân ta phải sử dụng, trong khi tiếng Việt vẫn còn được dân ta ăn nói thường ngày và phổ cập rộng khắp trong dân gian bằng những ca dao-tục ngữ và truyện cổ tích, bằng mọi hình thái của văn chương truyền khẩu như hát ru, hát rong, hát xẩm, các điệu hò, quan họ, ca kịch…Vì thế đến thời độc lập sau này, nhờ vào cái vốn tiếng Việt sẵn có ấy, thì cái nếp quật cường kia mới đủ sức thúc đẩy giới trí thức chịu khó sáng tác ra chữ Nôm (hình thành từ gốc là chữ viết Trung Hoa). Rồi khi mấy vị linh mục ngoại quốc đến truyền đạo Ky Tô giáo họ đã dựa vào mẫu tự La Tinh mà phiên âm ra tiếng Việt để viết thành kinh thánh Việt ngữ đầu tiên cho lớp giáo dân tân tòng đọc, từ độ thế kỷ thứ 15, 16. Cái sáng tác mới mẻ này của mấy ông cố đạo đã phù hợp với chiều hướng phát triển chung của dân Việt ta hồi ấy. Chính nhờ thế mà chữ Việt viết theo mẫu tự La tinh ấy được dân ta tự động phổ biến mà cứ thế loan truyền, cứ thế mà biến đổi, điều chỉnh và phát triển mãi: Khi người Pháp sang xâm chiếm nước ta vào giữa thế kỷ 19, họ thiết lập nền tảng đô hộ mới, thì dĩ nhiên là họ đã đưa ra rất nhiều những điều khắt khe trù dập; nhưng trong đó lại có cả sự kiện bãi bỏ các kỳ thi Nho học và chính thức hoá cho việc sử dụng chữ Việt viết theo mẫu tự La tinh ở khắp nước, vào cuối thế kỷ19 đầu thế kỷ 20. Loại chữ viết này lúc ấy mới có dịp thuận tiện (thuận tiện là do chính dân ta muốn sử dụng) mà trở thành chữ Quốc ngữ áp dụng rộng khắp và liên tục phát triển cho đến tận bây giờ. Theo tôi nhận xét: Ông cha chúng ta thuở ấy nếu đầu óc không sáng suốt mà cứ bo bo quá khích thì đã chắc gì chúng ta ngày nay có thể sử dụng phổ biến được lọai chữ Quốc ngữ viết và đọc theo mẫu tự La tinh!

Tóm lại, như trên là những điểm chính yếu và căn bản nhất mà tôi có thể thổ lộ ra đây với cậu. Và lẽ dĩ nhiên còn nhiều điều khác nữa, nhưng trong nhất thời chúng ta chưa soi rọi đủ để mà thấy hết được… Tuy nhiên, tôi mong cậu hiểu rằng muốn lấy lại được độc lập khi hội đủ điều kiện thì trên một ngàn năm bị Bắc thuộc, tổ tiên chúng ta đã phải kiên trì nuôi dưỡng mầm tự chủ và luôn phát triển cho bằng được, bằng đủ mọi cách, để liên tục tạo thành cái nếp sống văn hoá riêng biệt của dân tộc. Nghĩa là ông cha tổ tiên ta đã nghiền ngẫm, nghiền nát nỗi nhục hận bị đô hộ cho nó tiêu hoá đi trong nỗ lực xây dựng cái nền móng tự chủ, nghĩa là chính các ngài đã chủ động vùng đứng dậy bao nhiêu lần để kiên trì tìm đến vinh quang khi giành giật lại được hình thức độc lập dân tộc. Nghĩa là nhờ vào cái nhục ngụp lặn mãi cả trên một nghìn năm Bắc thuộc đó, tổ tiên chúng ta mới kiếm ra đuợc cái vinh độc lập cho dân tộc. Theo tôi, như vậy là các cụ đã vốn sẵn tự chủ, không để nỗi nhục dìm mình xuống đất đen, mà biết biến cái nhục thành niềm vinh quang cho dân tộc được trường tồn một cách xứng đáng. Tôi cho,Việt tức là vượt. Ít nhất lịch sử dân tộc Việt ta đã thủ đắc được tính chất cốt lõi ấy.

                                                                                    *

– Thế nhưng bây giờ?

– Bây giờ, trong bước tiến bộ chung của nhân loại, dân tộc ta với biến cố Tháng Tư 1975 dù muốn hay không thì cũng đã bắt buộc phải bước sang một thế sống còn mới. Nhờ vào những điều kiện mới được sống ở ngoài này, ‘hít thở’ trong một môi sinh cởi mở tự do nhất của loài người hiện nay, nên chúng ta có thể dễ khách quan “ôn cố” để “tri tân” hơn.

– Chẳng hạn?
– Chẳng hạn chúng ta nhìn lại hoàn cảnh của thế giới vào những thập niên đầu thế kỷ 20, cuộc cọ sát của luồng tư tưởng thăng tiến, và nhờ mức tiến bộ của kinh tế- khoa học- kỹ thuật áp dụng vào xã hội loài người mà hai cuộc thế chiến I và II đã loại bỏ đi cái chủ trương ‘duy dân tộc’ (đứng đầu là Đức và Nhật), và đồng thời lại đẻ ra hai khối tư bản-cộng sản đua nhau thi thố để phân thắng bại. Đến đầu thập niên 1990, phe tư bản tồn tại được, nhờ vào cốt lõi vấn đề là luôn luôn biết điều chỉnh việc thực thi ý niệm tự do-dân chủ thăng tiến một cách cụ thể vào hoàn cảnh xã hội.
– Còn hoàn cảnh đất nước và dân tộc mình?
– Vị trí địa dư của nước Việt ta từ xưa đến nay vẫn là nơi chốn tranh chấp ảnh hưởng của quốc tế: Lãnh địa lẫn dân số thì nhỏ bé ít oi nên suốt dòng lịch sử cứ chiến tranh liên miên, dứt ngoại xâm lại nội chiến, hiếm khi được an bình để tập luyện quen thành cái nếp kiến thiết xây dựng, tự lực tự cường. Đấy, cứ xem như từ đầu thế kỷ 20 trở đi, hết là thuộc địa của Pháp thì lại bị du vào cuộc nội chiến vì chủ thuyết ngoại lai, cho đến bây giờ cái đuôi rơi rớt lại của ảo tưởng chủ nghĩa vẫn còn phá ruỗng đi cả cái xã hội trong nước…Trong hoàn cảnh hiện nay của dân tộc, chúng ta lại bắt buộc phải nỗ lực tìm cho ra đựơc những khả năng sống còn mới cho dòng giống Việt. Chúng ta có nối gót tổ tiên, bằng cách thực hiện được nội dung ý nghĩa ‘vượt thoát’ hay không, là vấn đề của chung chúng ta hiện nay.- Mỗi người trong chúng ta, mỗi tập thể, mỗi cộng đồng gốcViệt đều có thể nhìn ra và thủ đắc được những khả năng mới ấy..nhưng mở đầu vẫn phải là tự xét, tự nhận rõ ra chính mình đã.

– Bạn nói mông lung quá, làm tôi hoang mang, mất định hướng…

– Xin lỗi. Tôi chia xẻ với cậu, chẳng qua chỉ có thể đề cập được một đôi điều ‘nhìn ngắm’ của riêng mình.

– Bạn nhìn thấy những gì?

– Thực ra tôi nhìn thấy khá nhiều điều. Nhưng vẫn còn rất nhiều chỗ cần phải được từ tốn suy nghĩ sâu rộng để bổ túc một cách lớp lang lại.

– Bạn cứ nói ra đi. Chắc chắn là rất có ích, mà ít nhất là đủ khiến cho tôi lên tinh thần trước đã.

– Tôi chỉ muốn thổ lộ: Sau vài năm đầu tâm tư còn bối rối ở trong tù, tôi dần dần tỉnh trí và nhận rõ ra rằng về mọi phương diện, từ căn bản học thức- hiểu biết lẫn nếp sinh hoạt- làm việc thì bọn tù miền Nam của mình đều hơn xa hẳn đội ngũ những người cai quản mình. Nghĩa là tóm lại họ đúng lẽ ra nên học hỏi ở chúng ta, hơn là chúng ta phải học hỏi ở họ. Cái thực tế nó trái khoáy vậy đấy! Thế mà trong hòan cảnh lúc ấy, họ đã ‘cả vú lấp miệng em’ áp đặt những cái nếp sống đã rẫy đầy sai lạc từ căn bản của họ cho bọn tù chúng tôi. Nói một cách rõ ràng: họ và mình là hai xã hội sống và theo đuổi hai hệ thống giá trị khác biệt hẳn nhau. Thế mà họ cứ đinh ninh rằng họ cần phải ‘hướng dẫn’và ‘dạy dỗ’ chúng tôi rập theo một khuôn mẫu ‘tuyệt đối hoàn thiện’ mà họ đang nhắm mắt làm theo. Họ chẳng hiểu là cái khuôn mẫu tuyệt đối hoàn thiện đó chỉ có trong ảo tưởng, mà thực chất họ chỉ là tự dối trá và lừa đảo người khác để tạo thành một cái nếp phổ biến trong xã hội đã bị họ độc đoán cai trị: Hằng ngày chứng minh hiển hiện ra trước mắt là cả họ (lớp người cai tù) lẫn bọn mình ở tù đều đói khổ như nhau, đều quay quắt như nhau, trong cái hũ nút, bị chơi trò bánh vẽ! Nghĩa là cả hai cùng bị lừa như nhau, cả hai đều đáng được cứu vớt như nhau!..Nhưng mà ai lại có khả năng cứu vớt được chúng ta? Xin thưa: Lịch sử dân tộc, nhất là sử Việt cận và hiện đại đã rành rành cho thấy rõ rằng những người có thể cứu vớt ấy không thể là ai khác, ngoài chính chúng ta. Chúng ta đây chính là anh, tôi và cả họ nữa! Chính chúng ta có biết phải tự cứu xét lại mình chưa? Để chính chúng ta phải học hỏi và thực thi những gì cần và đủ mà tự chủ, để mà tự cứu lấy mình sống còn!

– Kỳ lạ nhỉ…

– Thế đấy! Và cứ thế, tôi nhẩn nha cứu xét lại: Xã hội miền Nam dưới chế độ VNCH trước 75 đương nhiên là có quá nhiều thứ sai lạc của một xã hội đang nỗ lực gột rửa những nếp sống phong kiến- quân chủ, nhưng ngược lại,trong khi phải chịu đựng chống đỡ một cuộc chiến tự vệ mà còn biết gia sức xây dựng cho được cái căn bản của một xã hội bước đầu chập chững theo chiều hướng dân chủ-tự do, với bốn hệ thống phát triển sao cho phổ cập khắp miền Nam Việt Nam thời bấy giờ: Giáo dục công tư phổ thông từ cấp vườn trẻ mẫu giáo lên đến đại học; y tế quốc dân từ y- nha- dược tá lên tới y-nha-dược sĩ các cấp, từ thị thành về tới nông thôn; quản trị hành chánh từ thư ký lên đến cấp trưởng các ngành sinh hoạt trong xã hội, từ quản trị phường khóm lên đến tỉnh thành, được huấn luyện và thi hành đâu vào đó; và cuối cùng là cái nếp đạo đức sống và giao tế của người dân dù cư trú ở bất cứ một nơi chốn nào, thành thị hay nông thôn, miền cao hay miền xuôi lẫn đảo và lãnh hải,trong đất nước miền Nam Việt Nam.
Trong khi đó ở miền Bắc, cũng hai mươi năm ấy, họ đã thiết lập một hệ thống xã hội khác hẳn, từ độc tài đảng trị với cả một hệ thống tuyên truyền bưng bít: Kháng chiến chống ngoại xâm Mỹ-Ngụy, khiến dân chúng cứ thế mà sống khốn cùng trong cái lý tưởng ảo ấy mà phổ cập cái tâm lý hai mặt tồn tại lừa đảo lẫn nhau một cách bệnh hoạn thành nếp, thành một xã hội con người sống trong đó chỉ như con vật phản xạ vô điều kiện. Hơn ai hết, họ cần phải có đủ điều kiện và cơ may để tự mình thức tỉnh mà tự cứu lấy mình.

– Cậu nghĩ vậy sao?

– Thì thế! Ra sống ở ngoài này gần ba mươi năm nay, tôi rút ra được kinh nghiệm là thế hệ di tản thứ nhất của nguời gốc Việt đã nỗ lực xây dựng một cộng đồng lớn mạnh đến như ngày nay thì đầu tiên, chúng ta phải biết hãnh diện vào những thành quả mà chúng ta đã đạt được.Ngay cả đến cái nỗ lực cứu trợ thân nhân và đồng bào khốn khó trong nước suốt ba mươi lăm năm nay đều phát xuất từ tính chất nhân đạo mà chúng ta lâu nay lại vẫn thường ‘gấu ó’ với nhau nhưng lại rõ rệt không ai dám hành động một cách dứt khoát một chiều được. Bởi chúng ta luôn sống trong tình người..

Đồng thời phải công nhận là các cộng đồng gốc Việt chúng ta đã và đang là sức sống bổ túc cho cộng đồng Việt trong nước, ở những khả năng sống còn mới của dân tộc trong tương lai, như về kiến thức hiểu biết luôn được cập nhật, cũng như về nếp sống tôn trọng những nguyên tắc tự do-dân chủ-nhân quyền, những tiêu chuẩn đạo đức sống cởi mở ra để phù hợp với bước tiến bộ chung của loài người hiện nay.
– Nhưng sao vẫn còn tồn đọng quá nhiều trở ngại thế?
– Đó là cậu muốn đề cập tới phương diện tiêu cực, mà vì tâm tư vẫn còn mắc dính với cái mối nhục hận xưa cũ kia khiến chúng ta chưa thực sự hoàn toàn cởi mở được chính con người của mình để thênh thang nhẹ nhõm tiến về phía trước.
– Và kết quả cuộc bầu cử…
– Trên mười năm nay, mỗi lúc thế hệ một rưỡi và hai của người Việt tỵ nạn chúng ta đã và đang dần dần thay thế chúng ta ở mọi ngành sinh hoạt của cộng đồng. Nhất là nỗ lực gia nhập vào chính dòng của xã hội này, mà đồng thời họ cũng không quên tìm hiểu sâu xa về di sản dân tộc Việt, về những sự kiện lịch sử cận đại là nguyên nhân khiến họ hiện diện đời sống ở tại đây. Cho nên cái thành tựu phần nào giới hạn của kết quả bầu cử bán kỳ vừa qua chỉ là bề mặt thể hiện sự thiếu chuẩn bị cần và đủ của họ. Chính họ cần phải phân tích cho kỹ để mà điều chỉnh kịp thời cho kỳ bầu cử chính vào hai năm sắp tới đây.

– Còn trách nhiệm của lớp già chúng ta vẫn có chứ?

– Sao không! Tuy nhiên lớp già chúng ta cũng đừng khư khư cái kiểu cứ đòi trực tiếp tiếp tục ‘chèo chống’ dùm họ. Họ thực sự chẳng cần mình lắm đâu! Vả chăng phải để họ có làm có hưởng thì có chịu, giá trị điều chỉnh của chính họ mới thoả đáng. Bây giờ là thời thế của họ mà!
– Mấy anh già sáu bẩy mươi tuổi trở lên như tụi mình thực sự nên về hưu cả sao?

– Ấy. Lớp già mình thì cứ mở miệng ra là bảo tôi hưu trí rồi. Thế mà thực tế cho thấy, chính tâm lý già lại hay sốt nóng hơn bất cứ lớp tuổi nào khác, cứ thích nhẩy xổ vào việc của người ta đang chăm chú làm, rồi bô bô lên rằng hãy làm gâm gấp lên chứ, đến khi không còn tôi nữa thì lấy ai ra đây để mà ‘chỉ bảo’ cho mấy anh mấy chị! Gớm. Mấy người già vẫn không thực sự biết và sống như đúng với cái tuổi tác của mình, cứ cố chơi trò ‘độc đoán’, khó mà cởi bỏ đi được lắm.
– Thế ta chọn thái độ đứng ngoài à?

– Ta tuổi già rồi ví như con dao phay, sử dụng cách gì cũng đuợc. Miễn là làm sao trong giới hạn sức khoẻ và vị thế của mình cho phép, và còn phải tùy theo chuyên môn của mình mà trợ giúp. Điểm quan trọng là mình có thực sự biết người ta cần ở mình cái gì và mình có thể làm được gì. Hay ít nhất thì mấy người già như chúng ta chả cần ‘gồng’ lên làm gì cho mệt, cứ sống khỏe mạnh mà an nhiên thanh thản, cũng đủ là một tấm gương cần và đủ rồi đấy!  *

– Cũng như câu chuyện tâm sự ngày hôm nay, bạn trợ giúp cho tôi khá sâu xa.
– Bạn ơi. Tụi mình thân thiết cũ gặp nhau, vui vầy chia xẻ với nhau là chính, nói chi chuyện giúp đỡ. May mà cậu còn thẳng thắn tâm sự, tôi đỡ khổ, chứ không lại mang tiếng ‘dạy đời’. Sướng ích gì!

– Tình thật: Bạn ‘mở mắt’ cho tôi mấy điểm quan trọng lắm…

– Cậu có còn nhớ không: Hồi xưa cùng học, cậu thường xuyên chỉ cho tôi môn toán đấy sao?

– Thuở đó tôi giỏi Toán nhất lớp. Không biết sao mà bây giờ tôi lại bị u mê ám chướng hơn cậu xa thế nhỉ!

– Riêng cá nhân thì tôi thấy, có lẽ nhờ mấy chục năm nay cuộc sống cứ dồn mãi mình vào chân tường, tôi cứ phải cố công suy tư mà vỡ nghĩa ra được vài phần.

– Hiểu được như cậu, tôi thấy sống đời nhẹ nhõm hẳn.

– Ấy, đúng thế. Cân nặng cơ thể của bọn già chúng ta bắt buộc phải ‘nhẹ nhõm’ hơn hồi xuân trẻ chứ!

– Ha. Ha. Phải vậy, phải vậy!

– Đùa với cậu một câu, cho giảm căng thẳng đấy thôi.

– Nhưng cậu đùa thế mà vẫn ý nhị: Ở cái tuổi này, muốn sống thoải mái, theo tôi, phải luôn tự sửa mình. Cụ thể mà nói về cơ thể chúng ta thì bắt buộc phải ăn ít đi, ăn thành nhiều bữa nhỏ, tập thể dục hít thở thường ngày và ngủ say nhiều hơn trước. Có vậy may ra mới khá được. Nói tóm lại, dù đã lớn tuổi nhưng trên bước đường thăng tiến, hãy sống thoải mái, thưởng thức trọn vẹn từng hoàn cảnh sống của mình.

– Và cuối cùng, vẫn là phải biết đùa cợt nữa đấy, cậu ạ.


Phạm Quốc Bảo.
(Trích từ cuốn Nhục Vinh,  xuất bản vào tháng Bảy, 2012).

Chú thích:

 (1) Xin đọc thêm Bài viết không có tựa của Joyce Anne Nguyen đã đăng trong BNS QUÁNVĂN số 156 ra ngày thứ Tư 10 tháng11.2010, trên NVOnline ; www.người-việt.com.

(2) Mới nhất đây là tại Nhà Thờ Kiếng (thành phố Garden Grove, Nam Cali.), chiều hôm chủ nhật, 22 tháng Tư. 2012, hàng ngàn người họp mặt như một cách đại diện cho độ 30 ngàn đồng bào tị nạn đầu tiên rời khỏi Việt Nam vào này 30 tháng Tư 1975 ,chính thức bầy tỏ lòng tri ân của họ đối với những chiến sĩ của 30 chiếc tầu chiến của Hải Quân QLVNCH và của chiến hạm USS Kirk thuộc Hạm Đội 7 Hoa Kỳ, đã giúp họ di tản an toàn đến Phi Luật Tân. Đây là lần gặp mặt thứ nhì , buổi họp mặt có tên “ Việtnamese American, The Lucky Few” được tổ chức bởi Federal Asian Pacific American Council Southwest( FAPAC-SW).
(3) Cuộc bầu cử bán kỳ (bầu cử giữa kỳ, midterm election).
 

(4) Số ứng viên gốc Việt trên toàn nước Mỹ độ 31, so với dân số gốc Việt độ trên 2 triệu thì quá ít ; riêng tại địa phương Quận Cam là 19, đắc cử 7 cho đủ mọi chức vụ: Tỷ lệ thành tựu này được gần 30% thì so ra, không phải là ít! Đặc biệt sau lần bầu cử bán kỳ này cộng đồng gốc Việt trên toàn nước Mỹ không còn ghế dân biểu liên bang nữa, dân biểu tiểu bang chỉ còn1 (ông Hubert Võ bên Houston, Texas) so với 2 trước đây; tức là một bước lùi đáng kể.Nhưng được cái là vẫn đạt 3 trên tổng cộng 5 ghế Nghị viên thành phố Westminster, Little Sàigòn. Đấy là chưa bàn sâu vào những yếu tố như đảng phái (Cộng Hoà, Dân Chủ), đoàn thể ,tỷ lệ cử tri gốc Việt độc lập …Những yếu tố này đã thay đổi nhiều so với các lần bầu và ứng cử trước đây.
 (5) Theo Việt Sử Toàn Thư của Phạm Văn Sơn, Thư Lâm Ấn Quán, 15-07-1960, Tủ sách Sử học của Đại Nam tái xuất bản tại hải ngoại: Từ năm 207 trước Tây lịch đến năm 939 sau TL, dân Việt bị phương Bắc đô hộ liên tục bốn năm lần cả thảy.

*
Phát biểu của cựu Thống đốc bang California, Arnold Schwarzenegger (đảng Cộng Hòa) do Hoàng Ngọc-Tuấn, dịch(11-1-2021)

 

Xem ở mục DIỄN ĐÀN



[ Nguồn: https://baotiengdan.com/2021/01/11/phat-bieu-cua-cuu-thong-doc-bang-california-arnold-schwarzenegger-dang-cong-hoa/]
22 Tháng Mười Hai 2015(Xem: 6815)
01 Tháng Bảy 2015(Xem: 10858)
18 Tháng Mười Hai 2014(Xem: 7463)
Tổ chức Bảo vệ Ký giả (CPJ) xếp Việt Nam vào thứ năm trong danh sách các nước cầm tù nhiều nhà báo nhất năm 2014, với 16 người hiện đang bị giam giữ. Đứng đầu danh sách vẫn là Trung Quốc, với 44 người.
26 Tháng Mười Một 2014(Xem: 8580)
Chương trình phát thanh tiếng Việt của đài VOA dự trù thời lượng sẽ dài 15 phút mỗi ngày từ Thứ Hai đến Thứ Sáu trên một kênh của đài truyền thanh quốc gia Việt Nam có tên là 'VOV Giao Thông', phát thanh trên cả nước - theo tiết lộ của ký giả Steve Peacock trên mạng WND
02 Tháng Mười 2014(Xem: 9684)
PARIS, ngày 17.9.2014 (PTTPGQT) - Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế xin hân hạnh giới thiệu Bạn đọc kể từ hôm nay, Lá Thư Trong Tuần – Tuần thứ nhất, trình bày về diễn tiến việc tạo mãi Ngôi Chùa Phật Quang, làm cơ sở sinh hoạt cho Văn Phòng II Viện Hoá Đạo và Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất Hải ngoại tại Hoa Kỳ (GHPGVNTN-HN-HK).
01 Tháng Mười 2014(Xem: 7640)
PARIS, ngày 17.9.2014 (PTTPGQT) - Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế xin hân hạnh giới thiệu Bạn đọc kể từ hôm nay, Lá Thư Trong Tuần – Tuần thứ nhất, trình bày về diễn tiến việc tạo mãi Ngôi Chùa Phật Quang, làm cơ sở sinh hoạt cho Văn Phòng II Viện Hoá Đạo và Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất Hải ngoại tại Hoa Kỳ (GHPGVNTN-HN-HK). Giáo hội đã đặt cọc mua với số tiền 220 nghìn Mỹ kim. Chùa nằm trên đại lộ Beach, cách Bolsa năm phút lái xe. Từ đây đến 10 tuần lễ, Giáo hội phải chồng thêm Một Triệu Mỹ kim để kết thúc việc tạo mãi và có nơi sinh hoạt ngay.
08 Tháng Chín 2014(Xem: 10002)
Trong dòng sinh hoạt truyền thông báo chí của cộng đồng Việt Nam tại Hoa Kỳ, riêng tại Quận Cam trong tháng 7 vừa qua, đạo diễn điện ảnh kiêm Cameraman Trần Nhật Phong vừa cho ra mắt độc giả Quận Cam tuần báo Đen Trắng. Tuần báo khổ 10.5 x 12.5. Bìa 4 mầu. Ông Trần Nhật Phong cho biết ngay từ số báo đầu tiên, ông đã được thân hữu hết lòng ủng hộ và yêu cầu gởi báo đi xa các tiểu bang khác.
02 Tháng Chín 2014(Xem: 8137)
Westminster (Bình Sa)- - Tại hội trường nhà thờ The Church of Jesus Chirst số 10332 Bolsa Ave Thành Phố Westminster, vào lúc 2 giờ chiều Thứ Bảy ngày 30 tháng 8 năm 2014 Thể Dục Khí Công Hoàng Hạc đã long trọng tổ chức Kỷ kỷ niệm 8 năm ngày thành lập TDKCHH. Hằng trăm đồng hương và thành viên TDKCHH tham dự.