"BÁO VĂN HÓA-CALIFORNIA" THỨ HAI 11 JAN 2016
Giáo Sư Bùi Duy Tâm tiếp phái đoàn CSVN tại tư gia ở San Francisco
Hoàng Hải Thủy
Khoảng năm 1991, 1992, một buổi tối trong căn gác lửng vo ve tiếng muỗi, tôi nằm nghe qua
cái radio rêu rã đoạn tin về một ông Việt kiều tên là Bùi Duy Tâm. Ông Việt kiều này có liên lạc tình cảm chi đó với Nữ văn sĩ Dương Thu Hương ở Hà Nội.
Trước khi nghe đoạn tin, tôi mù tịt về những hoạt động sau năm 1975 của Bác sĩ Bùi Duy
Tâm. Tôi không biết sau Tháng Tư 1975, ông Sài Gòn hay ông chạy thoát ra
nước ngoài, nên thoạt nghe tin, tôi nghĩ: “Ông Bùi Duy Tâm này là ông nào đó trùng tên, đâu phải là ông Bác sĩ Bùi Duy Tâm mình được quen?” Tôi cứ tưởng Bác sĩ Bùi Duy Tâm là người hiền lành, tôi không ngờ ông là người quá xá. Ông khôngchỉ là người “quá xá” thường, ông là
tay“quá xá mấu.” Ông quậy phải nói là “tới bến,” là “quá cỡ thợ mộc.”
Năm 1967 tôi có nhiều buổi chiều đến rượt bóng bàn trong Nhà Khánh Tiết của Vận Động Trường Cộng Hoà. Quí vị đọc đoạn bài viết dưới đây sẽ thấy những năm từ 1965 Bác sĩ Bùi Duy Tâm có những hoạt động xã hội, ông chủ trương Câu Lạc Bộ Gió Khơi, ông xin Toà Đại Sứ Tây Đức cho Gió Khơi 10 chiếc bàn chơi bóng bàn tuyệt đẹp, ông đặt 10 bàn này trong Phòng Khánh Tiết Vận Động Trường Cộng Hoà cho các em đến chơi, đã miễn phí còn được cấp banh Nittakku, ông giữ sân Vận Động được nhờ mỗi chiều nấu một nồi nước trà cho các em uống. Một lần gặp Bác sĩ Tâm ở chỗ chơi Ping Pong này, tôi nghe ông nói:
— Tôi thương các em nhỏ. Các em bố đi lính, nhiều em bố tử trận, mẹ vất vả chợ trời, vỉa kè kiếm sống. Có người phải đi bán bar. Các em vất vưởng. Đói ăn, không ai dậy dỗ, các em không có trò gì để chơi cả.
Té ra ông Bùi Duy Tâm dzu dzương Sông Đà với bà Văn sĩ Dương Thu Hương Hà Nội là ông Bác sĩ Bùi Duy Tâm Gió Khơi Sài Gòn những năm 1965 tôi được quen biết.
Tháng Năm 2011, ông Bùi Duy Tâm ở San Francisco tiếp một phái đoàn Bắc Việt Cộng tại nhà ông. Mời quí vị đọc 2 bài về chuyện ấy:
Bùi Duy Tâm và Tôi
Người viết: Nguyễn Đồng Danh, Tháng Sáu 11, 2011 trênBlog “bahaidao.”
Năm 1964 ông Bùi Duy Tâm từ Mỹ trở về Sài gòn, sau khi hoàn tất học vị Tiến sĩ Y khoa
và Tiến sĩ Sinh hoá (Biochemistry). Đầu tiên ông Tâm dạy tại Đại học Y khoaSài gòn, sau đó ông ra Huế làm Khoa trưởng Đại học Y khoa Huế cho đến cuối năm 1972.
Ông rời Huế về Sài gòn để làm Khoa trưởng Đại học Y khoa Minh Đức.
Dạo đó tôi làm Hiệu trưởng một trường trung học tại Sài gòn, nên nói về nghề nghiệp, thì tôi với ông là … đồng nghiệp.
Vào năm 1972 ông Tâm mở một Trung tâm huấn luyện Bóng bàn dành cho thiếu nhi trong tòa
nhà khánh tiết tại Vận Động Trường Cộng Hòa Sài gòn. Tòa Đại Sứ Tây Đức viện
trợ 10 bàn đúng tiêu chuẩn quốc tế. Các em thiếu nhi đến tập dượt không phải trả tiền muớn bàn, mà còn được cấp banh, và nước uống. Ông Tâm xin Bộ Thanh Niên biệt phái danh thủ Mai Văn Hòa và Vũ Đình Nhạc đến chỉ bảo, huấn luyện cho các em.
Nhà tôi ở đường Triệu Đà. Từ nhà tôi đi bộ đến sân vận động Cộng Hoà chỉ có năm, mười phút, cho nên vào những buổi chiều, tôi thường xách vợt đến đó chơi bóng bàn ké với các em thiếu nhi.
Từ đó tôi có dịp quen biết Giáo sư Tâm, vì thỉnh thoảng sau giờ dạy tại Đại học Y khoa Sai gòn, ông Tâm cũng thường ghé qua để theo dõi sinh hoạt Trung tâm Bóng bàn.
Xảy ra biến cố 30 Tháng 04, Giáo sư Tâm và tôi không hẹn mà gặp nhu trong trại tù cải tạo Trảng Lớn, Tây Ninh. Chúng tôi ở trong L3/T2 tức là Trung đoàn 3 Tiểu đoàn 2. Bên kia hàng rào là Tiểu đoàn 1, có luật sư kiêm ca sĩ Khuất Duy Trác, mỗi chiều thường chỉ huy đội hợp ca Tiểu đoàn hát bè các bài nhạc cách mạng.
Bên này hàng rào, chúng tôi cũng không thiếu nhân tài. Có Võ sư Đặng Thông Phong (Chưởng môn Hapkido ở Việt nam), Gs Vũ Đình Lục (dạy Toán Võ bị Đà lạt), Gs Bùi Duy Tâm (Khoa trưởng Y khoa Minh Đức), Thống đốc Ngân hàng Quốc gia Việt nam Lê Quang Uyển, hoạ sĩ Trịnh Cung Nguyễn văn Tiến, Phan Hải cháu ruột của Phan Mạch (Chủ nhiệm văn phòng Thủ tướng Phạm văn Đồng) và người bạn thân của tôi là giáo sư Phan Đình Hoài (Hoài là cháu ruột của ba ông lớn: Lê Đức Thọ Phan Đình Khải, Mai Chí Thọ Phan Đình Đống và Đinh Đức Thiện Phan Đình Dinh).
Mấy tháng đầu trong tù, chúng tôi chỉ lo đào giếng, cắt tranh lợp nhà, xây cất hội trường và lao động trồng rau xanh. Dự tính đi học 10 ngày rồi về, mà chẳng thấy học hành gì cả.
Một buổi chiều, sau khi cơm nước xong, giáo sư Bùi Duy Tâm rủ tôi đi dạo như thường lệ. Chúng tôi đi giữa các vườn rau xanh. Khi chỉ có hai đứa, Giáo sư Tâm khẽ nói:
— Moa sẽ về trong một hay hai tuần nữa, moa có vài lời khuyên toa: Thứ nhất, hãy tập nhịn ăn. Trưóc kia ăn ba bát cơm thì nay tập ăn hai bát hoặc ít hơn, bên ngoàingười dân cả nước còn đói, huống chi bọn tù như mình.
Thứ hai, hãy tập nhịn nói, vì trong tù đầy rẫy bọn ăng-ten. Càng nói nhiều càng mang hoạvào thân.
Thứ ba, toa hãy ráng giữ gìn sức khoẻ, giữ vững tin thần, chờ ngày về với gia đình.Cóthể toa sẽ phải học tập trong hai, ba năm hay lâu hơn nữa. Hãy giữ vệ sinh để
tránh bệnh tật. Ở đây mắc bệnh thì chỉ có chết.
Tôi ngạc nhiên về những thông báo của anh, làm sao anh biết anh sẽ về, làm sao anh biết tôi sẽ học tập trong vài ba năm?
Giáo sư Tâm cho tôi biết trước ngày mất miền Nam, anhcó làm một dự án xin nước Pháptài trợ và trang bị một phòng thí nghiệm ykhoa, một thư viện cho Đại học Minh Đức và Pháp đã chấp thuận. Bây giờ “Cách mạng” cần anh về để làm thủ tục nhậnlãnh các quà tặng này. Giáo sư Tâm cũng cho biết trong gia đình anh có một người thân làm lớn trong chính quyền mới, người này nói cho anh biết chính sách và thời gian cải tạo “ngụy quân ngụy quyền” và cũng chính người thân này đã “đứng tên” giùm nhà cửa, xe ô tô của anh trước khi anh đi trình diện học tập.
Quả thật, đúng hai tuần sau, Giáo sư Tâm xách hành trang cá nhân lên trình diện Tiểu đoàn. Anh chỉ kịp dúi cho tôi một bao thuốc Tây gồm thuốc cảm, thuốc ho và kiết lỵ là những thứ thuốc tối cần cho người tù cải tạo.
Ba năm sau, tôi được tạm tha trở về thành phố mang tên Hồ tặc. Tôi gặp lại Giáo sư Tâm đi dạy Đại học Nha Y Dược. Anh mặc áo sơ mi trắng, bỏ bên ngoài chiếc quần tây màu cứt ngựa. Anh cỡi xe đạp đến trường, vai mang xắc-cốt, trông không khác gì một anh Cán Ngố miền Bắc xã hội chủ nghĩa.
Mấy năm sau, khi đã định cư ở Úc, tôi nghe nhiều tin giật gân về Giáo sư Tâm. Anh đã định cư ở Hoa kỳ. Anh leo lên núi Mont Blanc cao hơn 4800 mét, anh là người Việt nam đầu tiên lên Bắc cực (có giấy chứng nhận của Cơ quan Quản lý Bắc cực). Anh ra vào Việt nam nhiều lần để môi giới bán giúp Việt nam kho đạn Long Bình. Rồi Giáo sư Tâm đi biển Đồ Sơn chơi với nữ văn sĩ Dương Thu Hương và bà Hương đã thu băng những lời “hàn huyên”của ông Tâm. Chính nhờ những cuốn băng này mà bà Dương Thu Hương không bị CSViệt nam “thủ tiêu”.
Đến đây tôi xin mời độc giả xem trích đoạn bài văn do chính bà Dương Thu Hươngviết:
“Trời đã giúp tôi thành công. Trong chuyến đi chơi Sông Đà với các ông Bùi Duy Tâm và Bùi Duy Tâm, tôi đã mất 3 cuốn băng ghi toàn những chuyện ba hoa, hươu vượn. Nhưng vào đoạn chót của cuốn băng thứ 4 ông Tâm đã thú nhận: “Anh đã cho Dương Thông rất nhiều tiền.”(DươngThông là Trung tướng Công an).
Sau chuyến đi đó chừng vài ngày, họ bắt tôi. Trong thờigian ấy tôi đã kịp sao băng ghiâm ra vài bản, gửi ra 3 nước: Pháp, Tiệp và Mỹ.
Do sự can thiệp của chính phủ Pháp, đặc biệt là bà Daniel Mitterand và phong trào nhân quyền thế giới, ngày 20/11 họ buộc phải thả tôi ra, sau gần 8 tháng giam giữ không xét xử. Lúc đó ông Bùi Thiện Ngộ là Bộ trưởng Bộ Nội vụ. Ông Ngộ cử Thiếu tá Sơn tới gặp tôi :
— Theo đúng pháp luật thì chị có quyền kiện Nhà nước. Nhưng Bộ trưởng muốn tìm mộtkhả năng mềm dẻo hơn có lợi cho cả 2 bên.
Tôi cười. Tôi hiểu cái sự kiện tụng ở xứ sở này rasao. Tôi yêu cầu cuộc thanh toán vớiDương Thông. Bộ Nội vụ chấp thuận.
Vào mùa Xuân năm 1992, đại diện của Bộ Nội vụ làông Bùi Quốc Huy (tức Năm Huy) – Tổng Cục trưởng Tổng Cục An ninh, tiếp tôi có sựtham gia của Đại tá Nguyễn Công
Nhuận, người ký lệnh bắt và phụ trách nhóm người tra hỏi tôi trong nhà giam.
Trong cuộc gặp này, tôi nói :
— Tôi biết tôi đang chơi trò trứng chọi đá. Bởi thế, lúc nào tôi cũng chuẩn bị cho cái chết của tôi. Tuy nhiên, tôi lại không ưa chết một mình. Nên tôi cũng trù liệuđể sau cái chết của tôi, ít nhất cũng phải có dăm bảy đứa khác phải chết theo để tiếp tục chiến đấu dưới âm phủ, nếu không dưới đó rất buồn. Tôi có vũ khí của tôi. Trong tay tôi có 2 cuộn băng ghi âm.
Cuộn thứ nhất liên quan tới một trong những kẻ tạo dựng ra Nhà nướcCSVN này, sư tổ của những người như ông. Nó tố cáo nhân cách một trong các bậc lương đống của triều đình chỉ là loài đểu giả, tâm tính hiểm ác, vô luân.
Cuộn thứ 2, chắc ông cũng đoán được, ghi lại cuộc nói chuyện của ông Bùi Duy Tâm với tôi, trong đó ông Tâm khẳng định là đã cho ông Dương Thông rất nhiều tiền. Đấy hẳn là món thù lao cho việc ông Dương Thông đã 2 lần cứu ông Tâm ra khỏi trại giam, thêm nữa, đón rước ông Tâm đi tới tất cả những lầu cao thềm rộng từ dinh cơ bà Nguyễn Thị Định tới Bộ Tổng Tham mưu, Bộ Quốc phòng, từ nhà riêng các vị chóp bu Nhà nước xuống tới đám quan chức kềcận, để bàn định những đại sự như bán kho vũ khí Long Bình, bán dầu thô và những nguyên liệu khác…
Như vậy tôi có trong tay bằng chứng về người tiền nhiệm của ông, gương mặt tiêu biểu cho quyền lực của chế độ này.
Hai băng ghi âm đó đã được chuyển tới 3 nước: Pháp, Tiệp, Mỹ. Nếu các ông đủ lực xin cứviệc truy tìm. Nhưng tôi không tin điều ấy. Các ông không có tiền. Nhân viên sứ quán Việt Nam ở nước ngoài đơn thuần là bọn buôn lậu, quay cuồng trong cơn lốc cóp nhặt đô la. Ở nước ngoài, các ông bất lực. Còn ở đây, các ông có thể tổ chức tai nạn xe máy để kẹp chết tôi, có thể đầu độc tôi, có thể làm bất cứ một điều gì khác nữa nhưng vào thời điểm tôi chết, chắc chắn phải có kẻ đồng hành. Không tức thời, nhưng sớm hay muộn cũng sẽ có. Và thêm nữa, những người thân của tôi ngoài biên giới sẽ lần lượt công bố các cuốn băng kia.
Cả 2 người đàn ông lặng thinh rồi một người mở chai nước, một người mời tôi ăn nho . Họhỏi tôi về sức khoẻ, con cái, nhà cửa làm như là một cuộc tán gẫu giữa mấyngười hàng xóm. Tuy nhiên, tôi chẳng phải là một đứa bé nên tôi hiểu cái tháiđộ người thường gọi là “đánh trống lảng” ấy . Bất cứ kẻ đạo đức giả nào cũng sợ sự thật. Tất thảy mọi quốc gia, mọi thể chế đều có bọn đạo đức giả. Nhưngchắc chắn, không ở đâu con người buộc phải trở thành đạo đức giả như ở đây, một xứ sở mang xiềng xích của 2 thể chế: Phong kiến và CS.
Trước khi về, tôi nói thêm :
— Xin nhắc lại rằng, tôi đứng trước guồng máy củacác ông chỉ là trứng chọi đá. Nhưng vì đã dấn thân vào cuộc chơi này, tôi bắt buộc phải học lấy vài món nghề của cácông. Vậy, các ông theo rõi tôi, tôi cũng theo rõi lại các ông. Tôi biết ông (Năm Huy) thường uống rượu ở đâu, chơi gái ở đâu. Trong hội Quý Mùi (những người sinh năm 1943) ông vẫn tụ họp với những ai và đem theo loại rượu nào. Thành thực mà nói, trên phương diện này, đôi khi trứng còn mạnh hơn đá.
Các ông rất nhiều tiền, các ông thèm khát sống, thèm uống rượu Tây, thèm chơi gái, thèm xây nhà lầu … Tôi là kẻ phá sản, tôi không uống rượu, không chơi điếm, tôi có thứ sức mạnh mà sư tổ của các ông thường vẫn gọi “sức mạnh của giai cấp vô sản”. Riêng về luận điểm này, tôi thấ Mác đúng. Bởi vì, nói một cách sòng phẳng, với tất cả những thèm muốn ấy các ông sợ chết hơn tôi.
Ngưng trích.
Đọc đoạn văn trên của bà Dương thu Hương, tôi quả thật rất nể Giáo sư Tâm. Từ một người tù cải tạo, anh giao du với Bộ Trưởng Công an VC. Anh dùng đô-la Mỹ để mua chuộc và lèo lái cái đám lãnh tụ Bắc Bộ phủ vào quỹ đạo của anh.
Cũng may nhờ cơ duyên gặp gỡ anh, mà bà Dương thu Hương đã có được những cuộn băng ghi
âm quý giá. Những cuộn băng này đã giúp bà Hương tránh được cái chết
(vì tai nạn giao thông như bà Nông thị Xuân, vợ Hồ) và được định cư tại Pháp quốc.
Ngày xưa trong tù, Giáo sư Tâm khuyên tôi ba điều: “Nhịn ăn, nhịn nói và giữ gìn sức khoẻ.” Ngày nay, tôi chỉ dám nhắc nhở ông Tâm một điều:
“Tên anh là Duy Tâm, xin anh hãy cẩn trọng khi giao du với những con người DuyVật”.
Nguyễn Đồng Danh
(Xem tiếp số báo tới)