Sự thật về cái chết của Tướng Lê Văn Hưng / Đại tá Hồ Ngọc Cẩn

13 Tháng Bảy 201612:48 SA(Xem: 12923)

"BÁO VĂN HÓA-CALIFORNIA" THỨ  TƯ 13  JULY 2016


Sự thật về cái chết của Tướng Lê Văn Hưng  


Bà Lê Văn Hưng nhũ danh Phạm Thị Kim Hoàng  


image090

Từ chàng ra đi lưng khoác chiến y,


và hồn nương bóng quốc kỳ


Nàng ngừng con thoi có khi nhớ chàng.


Có muốn gì đâu! Lệ thắm tơ vàng.


Chàng ngồi trên yên mơ bóng dáng em


mịt mù sau đám khói tên.


Bâng khuâng mắt nhìn tay kiếm.


Không sao dấu đôi lệ hiền….


(Chinh phụ ca - Phạm Duy)


Ngày 21/4/1975, khi Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu từ chức, trao quyền lại cho cụ Trần Văn Hương, tôi còn nhớ rõ lời ông Thiệu nói:


- “Mất một Tổng Thống Nguyễn văn Thiệu, quân đội còn Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu, đồng bào còn một chiến sĩ Nguyễn Văn Thiệu. Tôi nguyện sẽ chiến đấu kế bên anh em chiến sĩ”.


Lời tuyên bố của ông Thiệu đã gây cho tôi sự xúc động. Thế rồi lời tuyên bố ấy cũng đã bay theo gió, khi số lớn cấp chỉ huy trực tiếp điều hành guồng máy quốc gia đã vỗ cánh chim bay sang ngoại quốc, tìm nơi ẩn trốn an lành, bỏ mặc quê nhà, dân tộc và quân đội đang chết đuối trong cuồng phong súng đạn tơi bời, Thiếu Tướng Nam, Hưng, Hai, Vỹ, Phú. Nhắc đến đây tôi không ngăn nổi tiếng nấc nghẹn ngào!...


Ôi tiếng súng nổ rền vang trên khắp lãnh thổ. Mùa hè năm 1972, nhà văn Phan Nhật Nam đã mệnh danh là mùa hè đỏ lửa. Mùa hè máu. Mùa hè cuối đầy yêu đương. Mùa hè tận cùng vực thẳm. Còn mùa hè 30/4/1975 bi thương thê thảm ngần nào? Chúng ta còn đủ ngôn từ để diễn tả tận cùng nỗi thương tâm kinh hoàng của sinh ly, từ biệt, cuống cuồng ấy không? Tin thất trận từ các Vùng 1,2,3 bay về dồn dập. Có những nơi chưa đánh đã bỏ cho địch tràn vào. Cũng có nơi quyết liều tử chiến. Thảm thương thay, cuộc rút quân hỗn loạn bi đát chưa từng có trong lịch sử và quân sử.


Đài VOA và BBC tuyên bố những tin thất bại nặng nề về phía QLVNCH khiến lòng dân càng thêm khiếp đảm. Những đoàn quân thất trận, tả tơi manh giáp, không người chỉ huy, cuống quýt chạy như đàn vịt bị săn đuổi. Tinh thần binh sĩ rối loạn hoang mang tột độ. Họ thì thào bảo nhau:


- “Tổng Thống Thiệu, Thủ Tướng Khiêm, Đại Tướng Viên đã cao bay xa chạy, còn đánh đấm gì nữa. Ông Tướng này, ông Tỉnh nọ, đã trốn đi ngoại quốc, chúng ta còn đánh làm gì”. Họ còn hỏi nhau:


- “Bao nhiêu năm chúng ta chiến đấu cho tổ quốc, hay chiến đấu cho tập đoàn tham nhũng? Hay cho cá nhân của ai đây?”


Mất người chỉ huy, những quân nhân như rắn không đầu, rối rít, tan rã. Lại có những câu hỏi:


- “Quân không Tướng chỉ huy thì sao?” Có những kẻ chủ tâm dè bỉu, thường chỉ trích chê bai:


- “Có những ông Tướng mà biết đánh giặc cái gì! Chỉ có lính đánh để các ông Tướng hưởng”.


Lời phê bình của những kẻ bất mãn hay những kẻ có tâm địa hạn hẹp, thật chẳng khác nào ếch ngồi đáy giếng. Cho dù có những vị Tướng bê bối, làm cho quân đội bị nhục, thì cũng có những vị Tướng trong sạch đức độ, lỗi lạc, tài ba, đáng cho dân quân khâm phục. Những phần tử bất mãn ấy đã vô tình hay cố ý không thấy việc tối quan hệ của sự hỗ tương, hỗ trợ, giữa các Tướng Lãnh, Sĩ Quan, và Binh Sĩ thật cần thiết cho quân đội và quốc gia như thế nào. Đối với những vị cao minh, hiểu biết giá trị hy sinh của những người tuẫn tiết, tôi trang trọng cúi đầu cảm tạ, tri ân.


Có nhiều người đã nêu lên câu hỏi với tôi:


- “Tại sao Tướng Nam, Tướng Hưng chết làm chi cho uổng? Tại sao các ông Tướng ấy không tiếp tục chiến đấu? Tại sao các ông không trốn sang ngoại quốc?”


Lại có người nghiêm khắc trách tôi:


- “Bà thật dở. Nếu là tôi, tôi quyết liệt can ngăn không để cho các ông ấy chết. Vợ con như thế này, ông Hưng chết đành bỏ vợ con lại sao?”


Ngay cả vài vị phu nhân của các Tướng Lãnh, hoặc còn ở trong tù, hoặc đã an nhàn nơi xứ người, cũng thốt ra những lời chỉ trích tôi. Nghe những lời phê bình ấy, tim tôi đau nhói. Tôi tôn trọng sự nhận xét “theo tầm hiểu biết của họ”.


Tôi ngán ngẩm không trả lời, chỉ mỉm cười lắc đầu. Nhưng hôm nay tôi phải lên tiếng. Lên tiếng để tạ ân những người đang âm thầm chiến đấu ở Việt Nam, để tạ ân những người hùng can đảm đã, đang, và sẽ tiếp tục đánh đuổi Cộng Sản cứu quê hương, để trả lời những người đã nêu lên nhiều câu hỏi đó.


Tôi trân trọng xin những vị nào đã có những lời chỉ trích nên bình tâm suy nghĩ lại, trước khi phán đoán vì… những vị Tướng Lãnh bách chiến bách thắng lại lẽ nào chịu xuôi tay nhục nhã trước nghịch cảnh, trước kẻ thù? Những vị Tướng đã từng xông pha trong mưa đạn, bao lần thử thách với tử thần, với nhiều chiến công từ cấp bậc nhỏ lên tới hàng Tướng Lãnh, đã từng khắc phục gian nguy, xoay ngược thế cờ, chuyển bại thành thắng trên khắp mặt trận, lẽ nào những vị Tướng ấy chỉ nghe hai tiếng “buông súng” rồi giản dị xuôi tay tự sát hay sao?


Viết đến đây tôi mạn phép nêu lên câu hỏi: Thưa toàn thể quý vị sĩ quan QLVNCH. Ngày quý vị nhận lãnh chiếc mũ sĩ quan của trường Võ Bị, quý vị còn nhớ sáu chữ gì trên chiếc mũ ấy không? Sáu chữ mà quý vị trịnh trọng đội lên đầu là: “Tổ Quốc, Danh Dự, Trách Nhiệm”.


Ngày mãn khóa sĩ quan với những lời tuyên thệ, quý vị hẳn nhớ? Cũng như những điều tâm niệm ai lại chẳng thuộc lòng? Những vị bỏ nước ra đi trước binh biến, những vị ở lại bị sắp hàng vào trại tù Cộng Sản, tôi xin tạ lỗi, vì thật tình tôi không dám có lời phê phán nào. Tôi chỉ muốn nói lên tất cả sự thật về cái chết của hai vị Tướng Nguyễn Khoa Nam và Lê Văn Hưng. Hai vị Tướng này đã ba lần từ chối lời mời di tản sang ngoại quốc của viên cố vấn Mỹ, cương quyết ở lại tử chiến, bảo vệ mảnh đất Vùng 4. Viên cố vấn Mỹ hối thúc, đợi chờ không được, sau cùng chán nản và buồn bã bỏ đi.


Trước đó, vào ngày 29/4/1975, lời tuyên bố của Vũ Văn Mẫu và Dương Văn Minh trên đài phát thanh Sài Còn ra lệnh tất cả người Mỹ phải rời Việt Nam trong vòng 24 tiếng đồng hồ, thì chính lúc “kế hoạch hành quân mật của hai Tướng Nam Hưng đã hoàn tất.”


Tướng Nguyễn Hữu Hạnh, người thay thế Tướng Vĩnh Lộc vào những ngày giờ cuối tới tấp điện thoại về Cần Thơ. Ông Hạnh đã dùng tình cảm chiến hữu, dùng nghĩa đàn anh thân thuộc, khẩn khoản yêu cầu Tướng Hưng về hợp tác với Dương Văn Minh và Nguyễn Hữu Hạnh. Thâm tâm có lẽ ông Hạnh lúc đó muốn đò xét thái độ của hai Tướng Vùng 4 như thế nào. Nhiều lần, qua cuộc điện đàm với Tướng Nguyễn Hữu Hạnh, Tướng Hưng đã luôn khẳng định:


- “Không hợp tác với Dương Văn Minh. Không đầu hàng Cộng Sản. Tử chiến đến cùng”.


Khi Tổng Thống Thiệu từ chức, trao quyền lại cho cụ Trần Văn Hương, và rồi vì hoàn cảnh đắm chìm của vận mệnh đất nước, trước nhiều áp lực nên cụ Hương đã trao quyền lại cho Dương Văn Minh, để rồi “ông Tướng hai lần làm đổ nát quê hương, ố hoen lịch sử này, hạ mình ký tên đâng nước Việt Nam cho Cộng Sản.”


Vị Tướng Lãnh trấn thủ một vùng, tùy hoàn cảnh đất nước, và tình hình chiến sự địa phương, trọn quyền quyết định, xoay chuyển thế cờ, không cần phải tuân lệnh một cách máy móc theo cấp chỉ huy đầu não đã trốn hết, thì còn chờ lịnh ai? Phải tuân lịnh ai? Tóm lại, lúc đó lệnh đầu hàng của Dương Văn Minh và lời kêu gọi của Nguyễn Hữu Hạnh đã không được Tướng Nam và Tướng Hưng đáp ứng.


Viết đến đây, tôi xúc động lạ thường. Tôi nghẹn ngào rơi lệ khi nhớ đến một số sĩ quan binh sĩ đã bật oà khóc lên khi nghe lệnh đầu hàng của Dương Văn Minh. Anh em đã ôm lá cờ tổ quốc, ôm khẩu súng vào lòng nức nở. Có những chi khu trưởng và những đồn trưởng nhất định đã không chịu đầu hàng. Họ đã tử thủ đến viên đạn chót. Và viên đạn chót dành để kết liễu đời mình. Cấp bậc của những anh em ấy không cao, chỉ chỉ huy khu nhỏ, hay một đồn lẻ loi, nhưng tinh thần tranh đấu của anh em cao cả và hùng thế đấy.


Trong khi Sài Gòn bỏ ngỏ đầu hàng thì Cần Thơ vẫn an ninh tuyệt đối. Kế hoạch hành quân đã thảo xong. Vũ khí lương thực đạn dược sẵn sàng. Tất cả đều chuẩn bị cho các cánh quân di chuyển, sẽ đưa về các tuyến chiến đấu. Kế hoạch di quân, phản công, và bắt tay nằm trong lịnh mật quân hành đó. Vùng 4 có nhiều địa thế chiến lược, có thể kéo dài cuộc chiến thêm một thời gian. Bởi lúc đó, cho đến ngày 29 tháng 4 năm 1975, chưa có một đồn nào, dù ở quận lỵ xa xôi hẻo lánh ở Vùng 4 đã lọt vào tay giặc Cộng.


Nhưng, Cần Thơ, sáng ngày 30/4/1974, dân chúng nhốn nháo hoang mang. Đã có một số binh sĩ bỏ ngũ. Tại thị xã, cảnh náo loạn đáng buồn chưa từng có đã xảy ra. Từng nhóm đông đảo bọn ác ôn và thừa nước đục thả câu đã ra tay cướp giật tài sản ở các cơ sở Mỹ, và ở những nhà tư nhân nào đã bỏ trống, bất chấp tiếng súng nổ can thiệp của cảnh sát duy trì an ninh trật tự công cộng. Chúng cướp giật, đập phá, hò hét như lũ điên. Chắc chắn trong số này có bọn Cộng Sản nằm vùng có ý đồ gây rối loạn áp đảo tinh thần binh sĩ.


Lúc ấy Tướng Nam và Tướng Hưng vẫn còn liên lạc với các cánh quân chạm địch. Nhiều cánh quân nồng cốt được đưa về thị xã Cần Thơ để bảo vệ Bộ Chỉ Huy Quân Đoàn, nằm chung quanh vòng đai Alpha. Từ 2 giờ đến 4 giờ chiều ngày 30 tháng 4, giờ đã điểm. Đúng theo kế hoạch lệnh hành quân bắt đầu. Nhưng hỡi ôi, khi liên lạc đến các cấp chỉ huy của các đơn vị thì mới hay họ chưa biết tý gì về kế hoạch, chưa rục rịch chi hết, ngoài việc thay đổi các cuộc bố trí từ sáng đến giờ phút này.


Tìm kiếm Đại Tá an ninh, người mà đã lãnh nhiệm vụ phân phối phóng đồ và lệnh hành quân mật đến các đơn vị, thì mới vỡ lẽ ra vị sĩ quan này đã đưa vợ con tìm đường tẩu thoát sau khi ném tất cả mật lệnh vào tay vị Đại Úy dưới quyền. Ông này cũng đã cuốn gói trốn theo ông Đại Tá đàn anh, cho có thầy, có trò. Các phóng đồ và lệnh hành quân mật cũng đã biến mất.


Thiếu Tướng Nam và Thiếu Tướng Hưng tức uất không sao tả nổi. Tôi không ngăn nổi tiếng nấc nghẹn ngào khi hồi tưởng lại vẻ bối rối của Thiếu Tướng và sự đau khổ thất vọng của Hưng. Những đường gân trán nổi vòng lên, răng cắn chặt, biểu lộ sự đau đớn và chịu đựng kinh hồn. Người đập tay đánh ầm xuống bàn khi thấy kế hoạch sắp xếp thật tinh vi bị kẻ phản bội hèn nhát làm gãy đổ bất ngờ. Hưng ngước mắt nhìn tôi như muốn hỏi:


- “Có đồng ý đem con lánh nạn không?”


Tôi cương quyết từ chối. Tôi không cầu an ích kỷ, tìm sống riêng, bỏ mặc người trong cảnh dầu sôi lửa đỏ. Tôi nhất định ở lại, cùng chịu hoạn nạn, cùng liều chết. Hưng hỏi tôi:


- “Thành công là điều chúng ta mong ước, nhưng rủi thất bại, em định liệu lẽ nào?” Tôi đáp:


- “Thì cùng chết! Các con cũng sẽ thế. Em không muốn một ai trong chúng ta lọt vào tay Cộng Sản”.


Và để khỏi phải sa vào tay giặc Cộng, tôi bình tĩnh thu xếp cho cái chết sắp tới cho mẹ con tôi, đường giải thóat cuối cùng của chúng tôi.


Bốn giờ 45 chiều ngày 30/4/75, Tướng Hưng rời bỏ văn phòng ở Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn 4, về bộ chỉ huy phụ, nơi chúng tôi tạm trú. Hưng không muốn chứng kiến cảnh bàn giao ô nhục sắp tới giữa Thiếu Tướng Nam và tên Thiếu Tá Việt Cộng Hoàng Văn Thạch.


Năm giờ rưỡi chiều ngày 30 tháng 4, khi Hoàng Văn Thạch tiến vào Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn là lúc Hưng gọi máy liên lạc với Tướng Mạch Văn Trường, ra lệnh đưa hai chi đội thiết giáp tới án ngữ ở dinh Tỉnh Trưởng để bảo vệ Bộ Chỉ Huy Sư Đoàn 21 mới về đóng nơi đây. Sau đó Hưng tiếp tục liên lạc với các đơn vị đang tiếp tục chạm súng ở các tiểu khu. Đồng thời Hưng mời Tướng Mạch Văn Trường cùng các đơn vị trưởng ở chung quanh vòng đai thị xã Cần Thơ về họp.


Sáu giờ 30 chiều ngày 30 tháng 4, khi các vị sĩ quan vừa ra đến cổng, có một toán thân hào nhân sĩ quen biết tại Cần Thơ đang chực sẵn. Họ gồm khoảng 10 người. Họ xin gặp Tướng Hưng, với tư cách đại diện dân chúng thị xã, yêu cầu:


- “Chúng tôi biết Thiếu Tướng không bao giờ chịu khuất phục. Nhưng xin Thiếu Tướng đừng phản công. Chỉ một tiếng lệnh của Thiếu Tướng phản công, Việt Cộng sẽ pháo kích mạnh mẽ vào thị xã. Cần Thơ sẽ nát tan, thành bình địa như An Lộc. Dù sao, vận nước đã như thế này rồi, xin Thiếu Tướng hãy vì dân chúng, bảo toàn mạng sống của dân, dẹp bỏ tánh khí khái, can cường…”.


Nghe họ nói, tôi cảm thấy đau lòng lẫn khó chịu. Tôi cũng không ngạc nhiên về lời yêu cầu đó. Bởi mới tuần lễ trước, Việt Cộng đã pháo kích nặng nề vào khu Cầu Đôi, cách Bộ Tư Lệnh không xa, gây thiệt hại cao về nhân mạng và tài sản của đồng bào. Dân chúng Cần Thơ còn khiếp đảm. Hưng như đứng chết lặng trước lời yêu cầu ấy. Một lát sau, Hưng cố gượng nở nụ cười trả lời:


- “Xin các ông yên lòng. Tôi sẽ cố gắng hết sức để tránh gây thiệt hại cho dân chúng”.


Toán người ấy ra về. Hưng quay sang hỏi tôi:


- “Em còn nhớ tấm gương cụ Phan Thanh Giản? Bị mất ba tỉnh miền đông, rồi cũng vì dân chúng mà cụ Phan đã nhún mình nhường thêm ba tỉnh miền tây cho quân Pháp. Cụ Phan không nỡ thấy dân chúng điêu linh và cũng không để mất tiết tháo, không thể bó tay làm nhục quốc sĩ. Cụ Phan Thanh Giản đành nhịn ăn rồi uống thuốc độc quyên sinh”.


Trầm ngâm vài giây, Hưng tiếp:


- “Thà chết chứ đâu thể bó tay trơ mắt nhìn Việt Cộng tràn vào”.


Sáu giờ 45 chiều ngày 30 tháng 4, Tướng Nam điện thoại cho Hưng, hỏi tình hình các nơi. Hưng báo với Tướng Nam về việc đại diện dân chúng thị xã đến yêu cầu thẳng với Hưng. Hưng cũng cho Tướng Nam biết đặc lệnh truyền tin mới nhất sẽ giao cho người tín cẩn phân phối. Tướng Nam cho Hưng hay là ông đã cho thu băng lời kêu gọi dân chúng và lời yêu cầu này sẽ cho đài Cần thơ phát thanh.


Nhưng mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên. Thêm một lần nữa, sự gây đổ đau lòng. Đài Cần Thơ bị nội ứng trước đó, khoảng một giờ, viên giám đốc đài bị uy hiếp, thay vì phát thanh cuốn băng của Thiếu Tướng Nam trước, chúng thay cuốn băng có lời kêu gọi của Thiếu Tá Cộng Sản Hoàng Văn Thạch.


Khoảng mười phút sau, đài mới phát thanh cuốn băng của Tướng Nam. Muộn màng rồi. Không còn níu kéo được sự tin tưởng nơi dân chúng và binh sĩ được nữa. Hàng ngũ các đơn vị đã thưa thớt lại càng thêm thưa thớt.


Bây giờ 7 giờ 30 tối ngày 30 tháng 4, Hưng gọi tôi lên văn phòng làm việc. Đây là giờ phút nghiêm trọng nhất, không có ai hiện diện hết. Sau khi kể cho tôi nghe hết sự đổ vỡ từ trưa đến giờ phút đó, Hưng nhấn mạnh:


- “Hoàng, em đã hiểu sự thất bại do các nguyên nhân sau đây: Vị Đại Tá không tuân lệnh, nên giờ chót không điều động quân về các vị trí chiến lược, trù liệu theo kế hoạch. Việc níu kéo sự tin tưởng của dân chúng và binh sĩ không thành. Lời kêu gọi trễ tràng của Tướng Nam không có tiếng vang. Cũng như lời yêu cầu của dân chúng thị xã Cần Thơ”.


Quắc đôi mắt sáng, Hưng nhìn tôi dằn giọng:


- “Em phải sống ở lại nuôi con”. Tôi hoảng hốt:


- “Kìa mình, sao mình đổi ý?”


- “Con chúng ta vô tội, anh không nỡ giết con.”


- “Nhưng không thể để con sống với Cộng Sản. Em sẽ thay mình làm chuyện đó. Chỉ cần chích thuốc ngủ cực mạnh cho con. Chờ em một chút, chúng ta cùng chết một lúc”.


- “Không thể được. Cha mẹ không thể giết con. Anh van mình. Chịu nhục, cố sống. Ở lại thay anh, nuôi con trở thành người công chính. Phú quý vinh hoa địa vị hãy đề phòng, những thứ đó dễ làm mờ ám lương tri. Nhớ, giang san tổ quốc là trọng đại hơn hết. Gắng chịu cúi lòn, nhục nhã để nuôi con và cũng nuôi luôn ý chí để có ngày còn phục hận cho đất nước chúng ta”.


- “Nếu vì con, mình thương con, sao mình không đi ngoại quốc?”


Hưng đanh mặt lại, nghiêm khắc nhìn tôi trách móc:


- “Em là vợ anh. Em có thể nói được câu ấy sao?”


Biết mình vụng về, lỡ lời xúc phạm đến người, tôi vội vàng tạ lỗi:


- “Xin mình tha thứ. Chẳng qua vì quá thương mình nên em mới nói thế”.


Giọng Hưng thật nghiêm trang mà cũng thật trầm tĩnh:


- “Nghe anh nói đây. Người ta trốn chạy được. Chớ anh không gao giờ trốn chạy. Mấy ngàn binh sĩ dưới tay, hồi nào sinh tử có nhau, giờ bỏ mặc họ tìm sống riêng mình sao? Anh cũng không đầu hàng. Bây giờ thì rút cũng không kịp nữa, vì vào mật khu mà không có nguồn tiếp liệu vũ khí, đạn dược, lương thực thì không cầm cự được lâu. Đã muộn rồi. Việt Cộng đang kéo vào đừng để anh không dằn được nổ súng vào đầu chúng, thì gây thiệt hại cho dân chúng và anh em binh sĩ. Anh không muốn thấy bóng dáng một tên Việt Cộng nào”.


Tôi phát run lên hỏi:


- “Nhưng mình ơi, còn em? em phải làm gì trong lúc này?”


Nắm chặt tay tôi, Hưng nói:


- “Vợ chồng tình nghĩa bao nhiêu lâu, anh hiểu em và em hiểu anh. Em tuy chỉ là con cá nhỏ nhưng biết mang ý chí kình ngư. Gắng chịu nhục. Dù phải chịu trăm ngàn sự nhục nhã để nuôi con, để phục hận cho quê hương. Cải trang, cải dạng, len lỏi mà sống. Anh tin em. Vì anh, vì con, vì nợ nước, tình nhà, em có thể chịu đựng nổi! Nghe lời anh đi. Anh van mình, anh van mình”.


Tôi không sao từ chối được trước ánh mắt van nài, trước những lời tha thiết ấy:


- “Vâng, em xin nghe lời mình”. Hưng sợ tôi đổi ý, tiếp lời thúc giục:


- “Em hứa với anh đi. Hứa một lời đi”.


- “Em xin hứa. Em xin hứa mình ơi. Nhưng xin cho em hai điều kiện. Nếu Cộng Sản bắt em phải sống xa con, nếu giặc Cộng làm nhục em, lúc ấy em có quyền tự sát theo mình chứ?”


Hưng suy nghĩ giây lâu, gật đầu đồng ý, và ra lệnh cho tôi:


- “Em mời má và đem các con lên lầu gặp anh”.


Tôi quay đi. Ánh mắt bỗng chợt đập vào lá cờ vẫn dựng ở góc phòng. Tôi vội vàng đem cờ đến bên người. Tôi nói:


- “Bao nhiêu năm chiến đấu để bảo vệ tổ quốc. Bây giờ mình hãy giữ nó”.


Chúng tôi nhìn nhau cảm thông. Hưng ôm lá cờ, áp vào mặt, đôi mắt Hưng chợt ướt. Sau cùng Hưng cũng rán đứng lên hối tôi:


- “Mau mời má và mấy đứa nhỏ lên”.


Khi mẹ tôi và các con lên văn phòng, Hưng nói rõ cho mẹ tôi hiểu vì sao người phải chết và tôi phải sống.


Vâng lệnh Hưng, tôi mời tất cả sĩ quan binh sĩ còn tụ họp dưới nhà lên văn phòng. Mọi người đứng xếp hàng nghiêm trang và vô cùng cảm động. Giờ phút từ biệt sanh ly giữa những người từng bao ngày sống chết bên nhau. Hưng dõng dạc nói:


- “Tôi không bỏ các anh và đưa vợ con trốn sang ngoại quốc. Như các anh đã biết, cuộc hành quân chưa chi đã bị gẫy đổ nửa chừng. Tôi không phản công vào phút chót là vì dân chúng. Tôi không muốn Việt Cộng pháo kích bừa bãi, biến Cần Thơ thành An Lộc thứ hai. Tôi cũng không chịu nhục đầu hàng. Các anh đã từng cộng tác với tôi, những lúc các anh lầm lỗi, tôi rầy la. Rầy la không có nghĩa là ghét bỏ. Rầy la để mến thương nhau, để xây dựng nhau. Mặc dầu đất nước ta bị bán đứng, bị dâng cho Cộng Sản, nhưng các anh không trực tiếp chịu tội với quốc dân. Chính những người trực tiếp nắm vận mệnh các anh, mới chính là những kẻ trọng tội. Xin các anh tha thứ cho tôi những lỗi lầm, nếu có. Tôi bằng lòng chọn cái chết. Tướng mà không giữ được nước, không bảo vệ được thành, thì phải chết theo thành, theo nước, chớ không thể bỏ dân, bỏ nước, trốn chạy, cầu an. Tôi chết rồi, các anh hãy về với gia đình, vợ con. Nhớ rõ lời tôi căn dặn: Đừng bao giờ để bị Cộng Sản tập trung các anh, dù tập trung dưới bất cứ hình thức nào. Tôi có lời chào vĩnh biệt các anh”.


Tướng Hưng đưa tay chào và bắt tay từng người một. Mọi người đều khóc. Đến bên Thiếu Tá Phương, Trung Úy Nghĩa, Hưng gởi gấm:


- “Xin giúp đỡ giùm vợ con tôi. Vĩnh biệt tất cả”.


Mọi người đều đứng yên không ai nói lên được lời nào. Mẹ tôi nhào lại ôm chầm lấy người, xin được chết theo. Hưng an ủi mẹ tôi. Yêu cầu mẹ tôi cố gắng chăm lo cho cháu ngoại. Hưng ra lệnh cho tất cả mọi người phải ra ngoài.


Không ai chịu đi. Hưng phải xô từng người ra cửa. Tôi van xin:


- “Mình cho em ở lại chứng kiến mình chết”.


Người từ chối. Nghĩa hoảng sợ bỏ chạy. Hưng quay vào văn phòng đóng chật cửa lại. Tôi gọi giật Nghĩa:


- “Nghĩa trở lại với tôi”.


Tôi bảo Giêng tìm dao nạy cửa. Giêng bỏ chạy như bay. Nghĩa trở lên, đứng trước cửa chờ đợi. Có tiếng súng nổ. Tiếng nổ nghe chát chúa. Tôi đưa tay xem đồng hồ: 8 giờ 45 phút tối ngày 30 tháng 4 năm 1975. Ngày kết liễu cuộc đời của chúng tôi. Lê Văn Hưng, anh đã chết. Giêng run run lấy dao nạy cửa. Cửa bật ra. Nghĩa lách mình nhường tôi chạy vào phòng trước. Hưng ngả người nằm trên, nửa người nằm dưới, hai cánh tay dang ra, cong lên và giật mạnh, toàn thân run rẩy từng cơn. Đôi mắt Hưng mở to căm hờn. Miệng Hưng há ra, đôi môi mấp máy. Tôi ôm chầm lấy Hưng hỏi:


- “Mình, mình ơi! Mình còn lời gì dặn dò em nữa không?”


Hưng không còn trả lời được tiếng nào. Nghĩa gào lên nức nở:


- “Thiếu Tướng! Trời ơi, Thiếu Tướng!”


Giêng chạy vào phụ Nghĩa đỡ lưng và chân, tôi đỡ đầu Hưng, đặt nằm ngay ngắn trên giường. Máu tim nhuộm thắm áo trận, ướt đỏ cả tấm drap trắng. Tôi đưa tay vuốt mắt cho người. Nghĩa vẫn gào khóc:


- “Thiếu Tướng! Thiếu Tướng ơi!”


Tôi bảo Giêng:


- “Nói Hòa đưa Hải, Hà, Quốc lên nhìn xác ba lần cuối. Dặn Phương cho Khiết, Hoàng giữ ở cầu thang, bất cứ giá nào chũng phải ngăn chận Việt Cộng”.


Tôi đi tìm đầu đạn và đuôi đạn. Còn khẩu súng, lạ lùng thay không biết khẩu súng ở đâu. Đến lúc tắm rửa người, thay drap dấy máu, tôi mới hiểu. Trước khi hồn lià xác, với ý chí cuối cùng, người còn bình tĩnh nhét khẩu súng, dấu dưới nệm. Có lẽ người sợ tôi quá xúc động, quên lời hứa, tự sát theo. Bé Hải lúc ấy năm tuổi, ôm hai chân ba, khóc than, kể lể thảm thiết. Bé Hà hai tuổi, thơ ngây ôm chai sữa, lên nằm trên bụng ba, bé mở tròn đôi mắt to, ngạc nhiên không thấy ba đưa tay bế bé như mọi khi.


Nghĩa điện thoại khắp nơi tìm Thiếu Tướng Nam, không thấy trả lời. Tôi vội vã mở đặc lịnh truyền tin, lên máy gọi liên lạc với Thiếu Tướng. Lúc ra máy, chỉnh tần số, tôi chỉ nghe những giọng nói rặc mùi Cộng Sản trên các tần số thuộc đơn vị của chúng ta. Lũ Việt cộng, ngày 30 tháng 4, tràn vào nhà. Phương cương quyết chận chúng ở cầu thang. Chín giờ rưỡi, 30 tháng 4, chuông điện thoại reo vang: - “Alô, Alô, ai đây?”


- “Dạ thưa chị đó à? Hồ Ngọc Cẩn đây”. Tôi bàng hoàng:


- “Anh Cẩn! Có chuyện chi cần không?”


Tôi cố gắng giữ giọng nói cho bình thường, để Cẩn không nhận biết sự việc xảy ra. Trong điện thoại, về phía Cẩn, tôi có nghe tiếng súng lớn nhỏ thi nhau nổ ầm ầm. Cẩn hỏi:


- “Thiếu Tướng đâu chị? Cho tôi gặp ông một chút”. Tôi lúng túng vài giây:


- “Ông đang điều động quân ngoài kia”.


- “Chị chạy ra trình Thiếu Tướng, tôi cần gặp. Trung Úy Nghĩa đâu chị?”


- “Nghĩa đang ở bên cạnh Thiếu Tướng. Cẩn chờ một chút nhé”.


Tôi áp chặt ống điện thoại vào ngực. Mím môi, nhìn xác Hưng rồi nhìn sang Nghĩa tôi hỏi:


- “Đại Tá Cẩn đòi gặp Thiếu Tướng, làm sao bây giờ Nghĩa?” Nghĩa lúng túng:


- “Cô nói Thiếu Tướng chết rồi”.


- “Không thể nói như vậy được. Đại Tá Cẩn đang cự chiến với Việt Cộng”.


Trí óc tôi chợt lóe sáng phi thường. Tôi muốn Cẩn chiến đấu anh hùng. Sống anh hùng. Chết anh hùng. Tôi đưa máy lên giọng quyết liệt:


- “Thiếu Tướng không thể vào được. Cẩn cần gì cứ nói. Tình hình ở Chương Thiện ra sao? Anh còn đủ sức chiến đấu không? Tinh thần binh sĩ thế nào? Địch ra sao?”


- “Tụi nó dần tụi tui quá. Tinh thần anh em vẫn cao. Chị hỏi Thiếu Tướng còn giữ y lịnh không?”


- “Cẩn vui lòng chờ chút”.


Tôi lại áp chặt ống điện thoại vào ngực. Cắn chặt môi suy nghĩ. Tôi hiểu lời Cẩn hỏi. Trong tích tắc tôi biết khó cứu vãn tình thế. Nhưng tôi muốn Hồ Ngọc Cẩn phải luôn hiên ngang hào hùng. Tôi quyết định:


- “Alô. Cẩn nghe đây: Lịnh Thiếu Tướng. Ông hỏi Cẩn có sẵn sàng tử chiến?”


Cẩn đáp thật nhanh:


- “Lúc nào cũng sẵn sàng, chớ chị!”


- “Tốt lắm, vậy thì y lịnh”.


- “Dạ, cám ơn chị”.


Tôi buông máy gục xuống bên xác Hưng. Nước mắt trào ra, tôi kêu nho nhỏ:


- “Vĩnh biệt Cẩn. Vĩnh biệt Cẩn!”


“Anh Cẩn ơi, hồn linh anh có phảng phất đâu đay, khi tôi ngồi viết lại những dòng này, nước mắt rơi trên giấy. Anh có biết cho rằng trả lời điện thoại với anh rồi, tôi đau khổ tột cùng không? Tha thứ cho tôi!”. Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn đã chiến đấu đến viên đạn cuối cùng, anh đã hiên ngang hào hùng đến giờ phút chót của cuộc đời. Hiểu rõ Hưng, hiểu rõ tôi, bên kia thế giới không thù hận, chắc anh hiểu rõ tâm trạng của tôi lúc bấy giờ, hẳn anh tha thứ cho tôi?


Kính thưa toàn thể quý vị thuộc thân bằng quyến thuộc của Đại Tá Cẩn. Kính thưa quý vị đã đọc những giòng chữ này. Xin quý vị chớ trách tôi sao dám quyết định. Ngộ biến tùng quyền. Tướng Hưng đã chết. Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam chưa liên lạc được. Vợ người lính nghĩa quân trưởng đồn, khi Việt Cộng tấn công, chồng chị bị tử thương, chị đã thay chồng phản công ác liệt. Tôi không thể để một người như Hồ Ngọc Cẩn đưa tay đầu hàng, hạ mình trước Việt Cộng vào dinh tỉnh trưởng Chương Thiện.


Mười một giờ đêm ngày 30 tháng 4, 1975. Điện thoại lại reo. Lần này, chính giọng của Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam:


- “Alô, chị Hưng!” Tôi vừa khóc, vừa đáp lời Thiếu Tướng:


- “Thưa Thiếu Tướng…” Giọng Tướng Nam buồn bã u uất:


- “Tôi biết rồi, chị Hưng, tôi chia buồn với chị, nghe chị Hưng”. Tôi vẫn nức nở:


- “Thiếu Tướng nghĩ sao về kế hoạch đã gãy đổ?”


- “Hưng đã nói với chị nghe hết rồi hả? Đành vậy thôi. Không phải lỗi chúng ta hèn nhát hay bỏ cuộc. Sự sụp đổ không cứu vãn được vì lệnh hành quân không được Đại Tá… thi hành, phóng đồ và lệnh không tới tay các đơn vị trưởng, lời yêu cầu của dân chúng, lời kêu gọi của tôi quá muộn màng, không hiệu quả, khó cứu vãn nổi tình hình”.


Nói đến đây, Thiếu Tướng Nam hỏi tôi:


- “Chị biết vụ đài phát thanh bị nội ứng chứ?”


- “Thưa biết. Hưng cũng bảo tôi như Thiếu Tướng đã vậy. Bây giờ Thiếu Tướng định liệu lẽ nào, có định phản công không?”


- “Chị quên còn dân chúng sao? Cộng Sản coi rẻ mạng dân, còn mình thì… Đàng chị thế nào?”


- “Thưa Thiếu Tướng, chúng nó đã tràn đầy dưới nhà. Có vài tên định nhào lên, nhưng bị Giêng cương quyết đuổi xuống. Hiện chúng đang thu dọn tài sản”.


- “Còn mấy chú đâu hết?”


- “Chỉ có Nghĩa và vài ba người lính ở lại. Còn tất cả đã bỏ đi hết. Hưng đã chết rồi, tôi không màng đến tài sản. Miễn là chúng đừng đụng đến xác Hưng”


- “Chị tẩm liệm Hưng chưa?”


- “Thưa chưa. Vừa tắm rửa, thay quần áo xong thì Thiếu Tướng gọi tới”.


- “Chị nên tẩm liệm Hưng ngay đi. Tôi sợ không còn kịp. chúng nó sẽ không để yên”.


- “Thiếu Tướng còn dạy thêm điều gì không? Chẳng lẽ Thiếu Tướng chịu đầu hàng thật sao?”


Người thở dài trong máy. Người nói những lời mà đến chết tôi cũng sẽ không quên:


- “Số phận Việt Nam khốn nạn thế đó, chị Hưng ơi! Tôi và Hưng đã sắp đặt tỉ mỉ, hoàn tất kế hoạch xong xuôi, còn bị phản bội giờ chót”. Người chép miệng thở dài:


- “Thôi chị Hưng ơi”. Bỗng giọng người trầm xuống, ngậm ngùi:


- “Hưng chết rồi, chắc tôi cũng chết! Chúng tôi làm Tướng mà không giữ được nước thì phải chết theo nước”.


Giọng người bình tĩnh và rắn rỏi:


- “Cố gắng can đảm lên nhé chị Hưng. Chị phải sống vì mấy đứa nhỏ. Đêm nay có gì nguy cấp, nhớ gọi tôi. Nếu gọi không được, dặn Nghĩa gọi Thụy, lấy mật mã mới”.


- “Dạ, cám ơn Thiếu Tướng”.


Nói chuyện với Thiếu Tướng xong, tôi bước ra lan can nhìn xuống. Dưới sân, sĩ quan và lính tráng đã đi hết. Trừ có Nghĩa còn ở lại. Cổng rào bỏ ngỏ. Gió thổi đong đưa cánh cửa rít lên những tiếng kẽo kẹt bi ai. Mảnh trăng cuối tuần 19 tháng 3 âm lịch chênh chếch soi, vẻ ảm đạm thê lương như xót thương cho số phận Việt Nam Cộng Hòa, cho trò đời bể dâu hưng phế.


Viết đến đây, tôi nhớ lại từng lời của Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam, của Đại Tá Tỉnh Trưởng tỉnh Chương thiện Hồ Ngọc Cẩn. Trọn đời tôi, làm sao tôi có thể quên giọng nói gấp rút của anh Cẩn, giọng trầm buồn của Tướng Nam.


Bảy giờ sáng ngày 1 tháng 5, năm 1975. Vừa tụng dứt đoạn kinh Sám Tỉnh Thế trong nghi thức cầu siêu cho Hưng, tôi nghe có tiếng nấc sau lưng. Quay lại, chính là Trung Tá Tùng, bác sĩ trưởng Quân Y Viện Phan Thanh Giản, Cần Thơ. Ông đến thăm Hưng lần cuối. Ông cho biết phải trở lại Quân Y Viện ngay vì Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam đã tự sát, xác còn nằm tại Quân Y Viện. Tướng Nam đã bắn vào thái dương, lúc 6 giờ sáng ngày 1 tháng 5, 1975. Cho đến chết, mắt Tướng Nam vẫn mở trừng trừng, uất hận, miệng người há hốc, đớn đau. Sau cuộc điện đàm với người, tôi đã linh cảm, biết trước chuyện gì sẽ xảy ra. Nhưng khi nghe bác sĩ Tùng báo tin, tôi xúc động vô cùng, tôi quỳ xuống, hướng về Quân Y Viện, nơi Tướng Nam còn nằm đó, cầu nguyện:


- Xin Thiếu Tướng tha thứ. Tôi không dám bỏ xác Hưng để đến vuốt mắt Thiếu Tướng và lo việc tẩm liệm cho Thiếu Tướng. Bây giờ linh hồn của Thiếu Tướng đã gặp Hưng, xin linh thiêng phò hộ cho mẹ con tôi thoát khỏi tay Cộng Sản. Xin thương xót cho quê hương, cho dân tộc chúng ta. Xin thương xót cho toàn thể anh em binh sĩ.


Trung Úy Nghĩa thay tôi đến viếng xác người. Trung Úy Thành, vị ân nhân can đảm đặc biệt, đến với tôi trong giờ phút nguy nan đó. Thành đã mời được Trung Tá Bia đến tẩm liệm cho Hưng. Những vị ân nhân trong cơn biến loạn ấy, trọn đời tôi xin ghi khắc ơn sâu. Tám giờ sáng ngày 1 tháng 5, 1975, các sĩ quan quân đoàn, mặc thường phục, đến viếng xác Hưng. Mầu nhiệm thay, khi gặp lại những cộng sự viên cũ, trong thoáng chốc, mắt Hưng hé mở, nhìn lên. Và từ trong đôi mắt người chết, có hai giòng lệ chảy. Mặt người chợt đỏ bừng lên.


Người khóc cho quê hương đất nước bắt đầu đắm chìm trong điêu linh. Người khóc cho đám tàn quân khốn khổ. Cho lúc đến chết, hai Tướng Nam và Hưng chỉ phân tách nguyên nhân thất bại, làm hỏng kế hoạch của hai người. Chớ không ai lên tiếng nặng lời trách móc vị Đại Tá kia. Xin quý vị hiểu rõ giùm tôi. Tôi tôn trọng danh dự của hai ông, vợ con và gia đình hai ông. Trong hoàn cảnh căng thẳng của đất nước, khi lòng người mất niềm tin, hai ông cũng như nhiều người khác, thật sự đáng thương hơn đáng trách. Không hiểu hai ông có đi thoát, hay bị bắt ở lại.


Vận nước ngàn cân treo sợi tóc, một vài người dù đánh đổi cả vận mệnh cũng không nâng đỡ nổi tòa nhà Việt Nam đang sụp đổ tang thương. Nhưng, một ngày chúng ta còn mang trong người dòng máu của dân tộc Lạc Hồng, còn hít thở được khí trời, là một ngày chúng ta còn nợ nần quê hương. Đó là món nợ thiêng liêng và cao quý mà ngôn từ loài người chưa thể diễn tả được sát nghĩa, và thật đúng ý. Sao chúng ta không noi gương oanh liệt của tổ tiên, của cha ông, nối tiếp ý chí bất khuất của tiền nhân, để trang trải món nợ ân tình đó? Sao chúng ta cứ lo chê bai, công kích, hãm hại, đạp chà nhau, để rồi vô tình làm lợi cho bọn cướp nước Cộng Sản?


Đọc những gì tôi kể ở đoạn trên, những vị từng hỏi hay mỉa mai tôi, đã hiểu tất cả sự thật vì sao Tướng Nam và Tướng Hưng đã phải tự sát để bảo tồn tiết tháo. Không ai đem việc thành bại luận anh hùng. Cũng chớ bao giờ lấy tâm địa tiểu nhân để đo lòng người quân tử. Chúng ta, những người còn sống, những người Việt Nam ở trong nước hay lưu vong khắp bốn phương trời, chúng ta phải tự nêu lên câu hỏi: Chúng ta đã làm được gì cho đừng hổ thẹn với những người đã nằm xuống?


Họ đã nằm xuống không phải là vì họ hèn nhát! Họ đã nằm xuống là vì muốn bảo toàn sáu chữ mà họ từng mang trên đầu: Tổ Quốc, Danh Dự, Trách Nhiệm. Nếu chưa làm được gì cho quê hương, xin hãy thận trọng lời phê phán vô ý thức. Đừng vô tình thành tàn nhẫn sỉ nhục những người dám chết cho tổ quốc./


image090

Death of
 General Le Van Hung


 


From: knguyen@emr.ca (kim nguyen)


"The Final Day of My Husband's Life" April 30, 1975


By Pham Thi Kim Hoang (General Hung's wife) Translation by Tran Thi My Ngoc and Larry Engelmann



My husband was stationed in the Delta in Can Tho in the spring of 1975 where he was vice commander for Military Region IV (MR IV) under General Nguyen Khoa Nam.


In March, when the North Vietnamese Army attacked Ban Me Thuot, I was in Bien Hoa My husband contacted me during the battle and he told me to move to MR IV. He said the Communists would march on to MR III[Which included Saigon] from Ban Me Thuot and he did not think that MR III would be able to resist them. It was because of that I moved to MR IV with my husband.


My husband knew all along that the American government would abandon us. He knew it. He had no faith in them.


I had our two small children with me at Bien Hoa at that timeï And my husband told me that I had to hurry and move to MR IV because the National Road 4 linking Saigon with the Delta would be cut soon because Saigon and Bien Hoa would be lost to the communists for sureï


So on the 2nd of April 1975, I left for Can Tho by car. I stayed in a house near the corps commanders headquarters in MR IV.


After the fall of Ban Me Thuot, General Pham Van Phu(Commander of MR II where Ban Me Thout was located) was isolated and he could accomplish anything. And the same is true for General Ngo Quang Truong in MR I(the area including the northernmost provinces of South Vietnam and the cities of Danang and Hue). He could not do anything at all. As for General Nguyen Van Toan in MR III(the area around Saigon) and Cao Van Vien, the chairman of the Joint General Staff, my husband had no faith in them and he did not trust them. One need only to look at Toan's character and his military life experience and one just can't have any faith in a man like that or have any hope in that person.


My husband knew that Saigon would fall because after the loss of the other two regions, MR I and MR II, because there was no able leadership left in the military. Seeing who was in charge in Saigon, he concluded that Saigon could not hold out. So, military and political survival meant retreating to the MR IV region and establishing an enclave there, but even that could not hold out for long all aloneï


To tell you the truth and be fair, in 1975, the number of people in the South who were really honest and who were ready to fight against the North Vietnamese was negligible and very few of the country's leaders could be trusted. There were some members of the Hoa HaAË), for example, who came to my husband and expressed their willingness to fight against the communists. They asked my husband to provide them with arms and ammunition. My husband, however, was unsure of their reliability and he suspected there might be treachery by this group once he gave them supplies.


Then, on April 21, 1975, President Nguyen Van Thieu resigned and handed over the government to Mr. Tran Van Huong. I remember still the worlds of Mr. Thieuï "Losing a President Thieu, the military still has a three-star General Thieuï The people still have a soldier, Nguyen Van Thieuï I pledge to fight side by side with my brothers, the soldiers."


Thieu's announcement moved me very much. But then his wordes became meaningless when the high-ranking commanders, who directly ran the working machinery of the government and the military, ran away to seek safety for themselves and their families and friends and at the same time abandoned their own countrymen just as wewere being caught up the final bloody hurricane of the war.


News of the loss of MR I, II and III arrived in Can Thoï We learned that there were places where no fight took place, important places abandoned to the enemyï Yet there were also a few places where intense and determined fights were waged to the last man. But too often the losing troops ran for their lives like a colony of ducks being hunted. The army became confused and demoralized. President Thieu, Prime Minister Tran Thien Khiem, General Cao Van Vien, ran like scared rabbits and left the country to others. So, who was left to fight? The soldiers who remained watched their commanders fleeï Who was left to lead them? The soldiers began to whisper among themselves, "For all of these years we have been fighting for our country or have we been fighting for a horde of corrupt individuals?."


Without the commanding generals, the troops were like a snake without a head, all broken up and in disarray. And there was this question: "If the soldiers have no commanders, then what will happen?" The soldiers started asking, "What do the generals know about fighting in battles? It is the soldiers who fight and the generals who reap the benefits." Those comments came from unhappy and dissatisfied elements and they were from the point of view of observers who were like frogs sitting in the bottom of a well -- they could see only a very small part of the developing situation.


When my husband heard that President Thieu had resigned and said he would stay in the country, he knew right away that Thieu would flee from the country, no matter what he said. And Thieu did. My husband also knew that the whole Thieu administration would flee from the country and they did. But my husband made the decision to remain in his country. And he did.


How did my husband know these things? How could he predict? He could do so by looking at the past activities of these people and looking at their record. Everything was there -- the answers were all there already. They lacked character.


When President Tran Van Huong resigned and as General Duong Van Minh took control of the government, my husband knew that there would be no peace settlement and that there would not be any last- minute agreement between the North and the South. There were rumors of what General Minh might do to stop the advance of the North Vietnamese Armyï There were rumors that he would arrest all of the generals in the armyï But my husband was not afraid of General Minh or the rumors like this.


Despite the chaotic situation in Saigon and in the nearby regions, MR IV was relatively calm. And the reason for its calmness was because of the calmness generated by the leaders of the region --leaders like General Nguyen Khoa Nam and my husband.


As the leaders of the region, they decided not to flee, not to run awayï And therefore, the personnel under their command did not want to flee either. There was, of course, a small number who did try to escape and ran awayï This is always trueï


You need to know also that as soon as the central highlands were lost to the communists, I myself made the decision that I would not leave the country. My husband never asked me to leave and never told me to leaveï And I decided for myself even before then, that I would not leave because I knew that my husband would never leave the country. And I made up my mind to stay and die, if that should be our fate, together.


On the 29th of April on the radio Prime Minister Vu Van Mau and President Duong Van Minh broadcast on the Voice of Saigon ordering all Americans to leave Vietnam within 24 hours. It was at that time that the secret plan for military operations by Generals Nam and my husband were finalized.


In those last hours of the Saigon regime, General Nguyen Huu Hanh, the replacement for General Vinh Loc (Chairman of the Joint General Staff) during the last day, made countless phone calls to Can Thoï He tried to persuade my husband to cooperate with General Minh and to surrender. He stressed the concepts of military brotherhood and comradeship.


But my husband suspected that he was merely examining the attitudes of the two commanders of MR IV. Many times during his telephone conversations with General Hanh, my husband was decisive and said that he would not cooperate with Minh and he would not surrender to the communists and he would fight to the death.


On April 30th, General Duong Van Minh surrendered the country to the Communists unconditionally. Remember that General Duong Van Minh twice destroyed(Minh headed the coup against President Ngo Dinh Diem in 1963 and ordered the murder of Diem and his brother) the country and had stained its history and lowered himself down to sign his name to a treacherous document that offered his country to the enemyï I heard Duong Van Minh's unconditional surrender speech to the North over the radioï When Duong Van Minh declared his surrender of South Vietnam to the Communists a number of soldiers just left the military and went homeï


But I remember now still the large number of officers and soldiers who broke into tears when they heard the surrender announcement from General Minh. They embraced the flag and they kept their weapons and they cried.


Prior to the surrender my husband and General Nam, made contigency plans. They decided to stay in MR IV and fight. And even should Saigon fall, they and their troops would withdraw into the secret hidden areas in the jungles() of the Delta region.


The plan to withdraw into the jungle areas was made before General Minh surrendered. However, they were kept secret and only a very few people knew about it. My husband and General Nam still carried out their duties and continued to make plans for regular military exercises and operations. The plan to retreat into the hidden areas was made and ready to be executed at the proper moment. My husband and General Nam never thought they would receive any military aid from the US Government. And so in order to carry out their plans they never planned on it and they never even considered it.


General Nam and General Hung were three times offered a chance to evacuate by their American advisor. And they refused each of the three times. They decided not to abandon their men and their country but to stay and defend it to the death. Their American advisor continued to prod them, but finally he left in desperation and in sadness.


The plan for a secret operation in the Delta was now readyï Weapons, ammunition and food were prepared. All was readied for the troops to be directed and redeployed in new zones. The plan of moving the troops was code named Operation LINKING HANDS.


Military Region IV had good strategic points and an army there could continue the fight alone for a long timeï By the 29th of April there was not a single stronghold in any remote part of that countryside or any town that had yet fallen into the hands of the NVA or the VC.


But in Can Tho, in the early morning of April 30, 1975, people were in a confused and frightened stateï What led to the collapse of morale in Can Tho was that there was an infiltrator from the Communists in the radio station and instead of broadcasting the order of General Nam, that everybody was supposed to stay put and fight, they broadcast the message from General Minh telling everyone to surrender and to lay down their arms. So people became disoriented and didn't know what to do and many became pessimistic. Some of the military people deserted. Right in the town the saddest scene of chaos took placeï Some criminal elements seized the uncertain occasion to loot the properties of the American offices and buildings and disregarded the warnings shots of the police who tried to maintain order and safetyï The civilians fled. Some people were paralyzed by fear and they sobbed and screamed and other people looted and destroyed like a bunch of madmen.


There must have been a number of fifth column people in the crowd who tried to create disorder and to terrorize the people and to destroy the morale of the soldiers.


The plans for Operation LINKING HANDS were kept secret and only a few close staff members of my husband and General Nam were aware of them. The other people under their command were not told of the plan because there existed at that time an atmosphere of mistrust among the officers and others in the military.


The withdrawal was planned to begin at noon on April 30th, 1975. The troops would be withdrawn into the secret hidden areas of the jungle at that timeï However, before that time, my husband gave the orders to begin the troop redeployment to the colonel who was chief of the security officeï The colonel was supposed to relay the orders to the troops but this colonel delegated this direct responsibility to his captain and then took off with his family and fled the country. And so what happened to that captain? Nobody knows? He just disappeared tooï He left. His commander fled the place so naturally he did tooï But we did not know that yet.


The order to begin Operation LINKING HANDS was issued. But then when contacting the commanders of the units in the area, we found out that they did not know anything about the plan. They had not readied their troops as they should have done in the morning. When we tried to locate the colonel who was in charge of distributing maps and orders for the secret redeployment of the troops, we realized that this officer had taken his family and ran away after passing the duty to his captain and the captain had disappeared right on the heels of his commander. And all of the maps and the orders for the Operation LINKING HANDS had disappeared with them.


General Nam and Hung were filled with anger, frustration and disappointment. Their feelings cannot be described adequately with my words. As for myself, I cannot help but cry today when I remember the torn expression and the pain and the disappointment that showed on my husband's face at the moment when he realized that the plan to fight was hopeless. The lines of veins appeared in his forehead and his teeth were clenched. He expressed his deepest and utmost inner pain upon hearing the news of the treachery.


He pounded on his desk. The careful and well-arranged plan was now suddenly foiled because of an act of betrayal and cowardice.


My husband lifted his eyes to look at me and he said, "Victory is what we have always aimed for. But what if we fail? Then what do you want to doû"


I responded, "Then we will all dieï Our children do not want us to be in the hands of the communists either. I will stay with youï I will not abandon you in this moment of disappointment."


And to deflect the possibility of being captured and falling into the hands of the enemy, I methodically and calmly planned for the death of my children -- the final rescue of all of us.


A small number of pessimistic people who who only thought of themselves, and who did not want to fight, were thereï But the others, who were close to my husband and to General Nam, those who were trustworthy, stuck close by and said they would follow the generals' orders.


Let me tell you about this thing first. My husband and General Nam planned all their military operations from their headquarters building. My husband divided this place into two sections. One was where General Nam planned the military events. And the other section my husband designated as the secondary headquarters. It was to this place that my husband called me to tell me of the betrayal by his colonel. And as soon as he heard of the betrayal he developed new plans and discussed them with General Nam.


At 4:45 PM that day my husband left his office at the corps headquarters to return to the headquarters office where we lived temporarily. The reason he returned home on that day was because there was a rumor that the representatives of the communists would come in and sit down with General Nam to demand his surrender and to ask him to sign over the troops and the region. My husband did not agree to this. And he did not want to witness this event and so he returned homeï He did not wish to witness the shameful transfer between 2 star General Nam and the Major Hoang Van Thach of the Viet Cong.


At 5:30 PM my husband radioed to General Mach Van Truong to order him to deploy two units of tanks to protect the Command Office of the 21st Division. After that he contacted other troops that were still fighting in various other nearby areas. At that time, alongside national road number 4 from Cai Lay and My Tho to Long An, there was heavy fighting going on. Along this route, fighting continued until May 2nd, 1975. Very heavy fighting.


My husband called a meeting of his officers for 6:30 that evening. But at 6:30 when all these officers had arrived at the gate there were also ten townspeople already standing there waiting.


They asked to meet with General Hung in the name of representatives of the people of Can Thoï They then made their request. "We know that General Hung will never agree to surrender. But we beg of you not to counterattack. With only your order of counterattacking, the Viet Cong will shell the town. Can Tho then will be destroyed completely, just like the ruins of An Loc[which General Hung had successfully defended in 1972]. Please, for whatever the fate of our country is as such, please General, for the sake of the people and their lives, please put away your daring and proud spirit." They said that it would be better to accept shame and to bear shame than to go on fighting, killing and dying.


Listening to them, I felt both pain and discomfort. I was not surprised at their request because just one week earlier, the Viet Cong had shelled heavily in the area of Can Doi, creating a great loss of life and property. The people of Can Tho were still horrified that the same thing would happen to them.


My husband was expressionless as he listened to their request. It took a long time and he forced a smile and replied, "Please be at easeï I will try my very best to minimize the loss and damage for our peopleï"


When this group left, my husband turned to me and said, "Do you remember the story of Mr. Phan Thanh Giang? When three eastern provinces were lost, he had to bend himself to let go of three more western provinces to the French because of his care for the peopleï He could not bring himself to make the people suffer and he could not let himself lose his proud spirit or his hands in surrender, for this act would bring shame to his country and his soldiers. He then went on a fast and took poison to end his lifeï


"I would rather die than to have my hands tied and watch the invasion of the Vietcong."


Because the people came forward to make that request and said they were the representatives of the local population of Can Tho, my husband could not refuse them. They made the request on behalf of the people themselves and not on behalf of the communists. They made the request as the people, so my husband did not want to hurt them and so he decided to honor their request.


At 6:45 PM General Nam called my husband to check the situation in various places. My husband told Nam of what the representatives of the people of Can Tho had requested. Hung also let Nam know that the newest secret order would be given to a trusted person to be distributed.


General Nam said to Hung that he had recorded a message to the people of Can Tho and the message would be broadcast by the radio channel in Can Thoï One more time there was a failure. The channel of Can Tho was taken over one hour before by the infiltrators. The director was threatened into broadcasting the message to the people of the Vietcong Major Hoang Co Thach instead of General Nam's message. They broadcast Thach's message first and ten minutes later they broadcast Nam's. But it was too lateï It was impossible to regain the trust of the civilians and the soldiers then. More men deserted.


My husband had one major worryï He worried about the safety of me and of our children. And he asked me what I wanted to do about all of this. Deep in my heart I had made the decision that if my husband and his troops were to withdraw into the secret hidden places in the jungle, then my children and I would not go with him.


I had made a decision also I would kill myself and my children so that my husband would not carry this burden, this worry, that would divide his attention away from fighting. The reason I wanted to do that was because I knew that during the time the troops were moving to the jungles, no doubt, fighting with the communist forces would take place, therefore as soon as the troops were to be deployed to the places that were set up and began the march and the withdrawal, then at that time I would take my life and my children's lives, and this way my husband would not be distracted from his responsibility and his duty to defend the country.


I did not want us to be an added burden on him and on his


I am a Catholic. And I know that Catholicism forbids taking one's life, but you must know, that there are exceptions to the ruleï For example, to kill oneself for one's country, and for one's military forces, that is acceptable. I did not change my mind. I did not change the decision of killing myself and my children, but what happened was at that time, when the plans for the withdrawal into the jungle collapsed, my husband thought of killing himself. I wanted to die with him. The children and I wanted to die together with him. At the beginning I did not tell him of my plan of killing myself and the children, but at that time, when the plans for withdrawal collapsed and my husband talked of killing himself, we discussed a plan of dying together as a familyï But my husband disagreed with my decision. He did not want me to do that. To tell the truth, in the beginning, my husband agreed with my plan that the whole family would die together. I would inject the children with sleep medication and then I would inject myself with the same medication, and my husband would then shoot himself. But when the time came, my husband changed his mind and he did not want me to die nor the children. But he wanted to go ahead with his own plan to dieï


At 7:00 PM my husband called me up to his officeï We were aloneï He recounted for me all the failures since the afternoon and up to that minuteï Then, looking at me with his fiery eyes he told me slowly and gravely that he was going to kill himself. And he said, "You have to live to raise our children." I panicked. "Oh, my husband! Why did you change your mind?"


He said, "Our children are innocent. I could never bring myself to kill them."


"But we could not let them live with the communists. I will do it for youï All I need to do is to give them a very strong dose of sleeping drugs. Wait for meï We will all die at the same moment," I begged him.


"Impossible! Parents cannot kill their children. I beg you, Hoang, please try to bear this shameï Try to live and replace me to raise our children into good peopleï Try hard to live, even if you have to bow and to bear a heavy burden of shameï"


"If this is for the children, for your love of the children, then why can't we leave for a foreign country like the others?" I asked him.


He narrowed his eyes and with a severe look at me said, "You are my wifeï How could you utter those words?"


Knowing that I was clumsy with my words and had said the wrong things that disturbed him, I hastily repressed my excuses. "Please forgive me, my husband. It's only because I love you so much that I said these words."


His voice was so calm and so serious. "Listen to meï People can run away but I will never run wayï There are thousands of soldiers under my command and we have lived and died together. How can I at this minute abandon them and seek life for myself? And I will not surrender. At this moment, it is too late to withdraw into the secret places because we do not have the supply of weapons, ammunition and food, therefore, we will not be able to withstand the enemy for long. It is too lateï The Vietcong are coming. Don't let me lose my determination. Continuing to fight now will only bring trouble and loss not only to our family but to soldiers and civilians alsoï But I don't want to see the sight of any communists."


I shakily asked. "But what about meû What should I doû"


Holding tightly to my hands he said, "Our marriage has been full of love and respect and that makes us understand each other. Please try to tolerate this, even though you will have to bear many shameful and disheartening things. Go in disguise, change yourself so you can stay aliveï I trust youï For myself, for our children, for the love of the country, you must bear it. Listen to meï I beg youï I beg you!"


I could say nothing before his gaze and his bittersweet words.


"Yes, my husband, I will listen to you," I promised him.


But he was afraid that I would change my mind, so he continued to press on. "Promise me! Promise me that you'll do it!"


"I will, I promise. I promise to you, my loveï But please let me have two conditions. If the communists make me live away from the children and if they rape meï Then do I have the right to take my own lifeû"


My husband thought for a moment and then nodded his head in agreement.


He stood and embraced me and wept. Finally he said, "Hurry up and ask your mother and the children to come into see meï"


When my mother and the children came into his office, he said goodbye to them and kissed the children. He explained to my mother why he had to die and why I had to liveï Then obeying his command, I invited all of the officers and soldiers who were still present for their meeting to go into his officeï Everyone lined up and waited for the new orders.


The atmosphere was so solemn and yet so moving. This was the moment of saying farewell between the living and the dying of people who had fought closely together for so many years. My husband said that there were no new orders to go to the hidden places to fight back. The fighting was finished for now. He said, instead, "I do not abandon all of you to take my wife and children to run away overseas. As you all know, the operation failed midway, and I did not counterattack because of the peopleï Now I cannot bear the shame of surrender. You all have cooperated with me and when you did something wrong I told youï But when I scolded you, it is not because I hated youï I scolded you because I wanted us to come and to help one another.


"Even though our country is being sold out, being offered to the communists today, you are not to be blamed. It is those who directly held the fate of the country in their hands who are to bear the blameï Please forgive me my mistakes if I have made anyï


"I accept death. A commander who cannot protect his country, his position, then should die at his position for his country. He cannot abandon the people and the country and seek safety for himself. When I die, go back to your families, your wives and your children.


"And remember clearly this, my final warning: You must not let the communists put you in a concentration camp under some deceptive pretense.


"Goodbye, my brothers."


General Hung saluted and shook hands with his men one by oneï When he came near Major Phuong and Captain Nghia, he said, "Please help my wife and children. Goodbye."


Everyone stood still. Nobody was able to say a word.


My mother rushed over to him and asked to die with him. My husband comforted her and asked her to look after her grandchildren. He then ordered everyone to leaveï No one wanted to moveï He had to push them out one by oneï


I then pleaded with him, "My love, please let me stay to witness your death." But he refused. Captain Nghia ran awayï My husband returned to his office and locked the door.


I heard a loud shot from the other side of the door. A terribly loud shot. It startled meï


It was 8:45 pm, April 30, 1975. It was the final day of Vietnam. The final day of my husband's lifeï Someone said, "General Le Van Hung was dead!" I thought, "Oh, my husband, you are no more!"


When I entered the room my husband lay across the bed. His warms were open wide and he was still trembling hard, his whole body shook in waves and convulsions. His eyes were wide open and filled with anger. His mouth was open and his lips were moving. I threw myself at him and embraced him. I knelt beside the bed and put my ear to his mouth while asking, "My love, my loveï Do you have anything else to say to meï"


But he could no longer answer meï I held him in my arms and he died thereï


General Nam was unaware of my husband's suicide. When I tried to call him on the radio I could not get hold of him because the frequencies were jammed by the communists who were broadcasting.


I don't know exactly where General Nam was at that timeï I just did not know. But I tried to call him on the radio and I tried to locate a frequency where I could connect with him. He was probably a mile or so away from where I was at that timeï And my husband did not tell me or did not leave a message for me to contact General Nam and to tell him of his death. But I just wanted to tell General Nam, I just wanted him to know. My husband did not talk to General Nam about killing himself because at that time, on the 30th, during the day, there were some contacts between them but later in the day they lost contact with each other and he couldn't communicate with General Nam. And besides, my husband did not commit suicide until the Communists invaded the town of Can Thoï


At about 1:00 AM the phone rang again. This time it was General Nam.


"Hello, sister Hung?" he said.


I cried when I heard his voiceï


"General Nam!"


Nam's voice was filled with sorrow. "I heard the news of what happened," he said. "I share with you the sorrow. My condolences, sister Hung."


I continued to sob.


I asked General Nam what he planned to doï


I heard him sigh on the telephone. And then he said to me words that I will never forget until the day I dieï


"The fate of this war is so miserable. Sister Hung, your husband and I planned everything so well, even to the most minute details, and in the last moment we were betrayed.


"That's it, Sister Hung."


Then his voice went down and was again full of sorrow.


"Hung is dead. I guess I will die, tooï We are commanders and if we cannot protect our country, then we have to die with it."


Then his voice came back to its former calmness and strength.


"Try to be brave, sister Hung. You have to live because of your kids. If there is anything urgent or dangerous then call meï"


"Thank you, General," I said. \ After my talk with General Nam, I stepped out onto the balcony and looked to the courtyard below. The officers and soldiers were all goneï The gate was open. The wind moved the doors making a noise that was sad and tragic. I just stood there and cried for a long timeï


The next morning at 7:00 I had just finished my prayer for my husband's soul when I heard a sob behind meï Turning around, I saw Lt. Col. Tung, the chief of staff of the military hospital in Can Thoï He had come to visit my husband one last timeï He told me that he had to return to the hospital right away because General Nam had just committed suicide. His body was still in the hospital. General Nam ended his life by shooting himself in the temple at 6:00 AM, May 1st, 1975.


After our phone conversation, I had a premonition that it would happen, that he would kill himself. However, when Tung gave the news, I was still shocked. I knelt down facing the military hospital where he lay and I prayed for his soul.


The people of Can Tho knew me and would have pointed me out to the communists so I had to leave Can Tho on May 2nd for Saigon in order to protect myself and my children. I stayed at one major's home, he knew my husband, but I stayed there for only one night and then I had to go find another place to live, because nobody was willing to house me because they were afraid, and I also was afraid for them if they housed me and something happened.


During the next years in Saigon I had to change my residence countless times, I had to change my residence up to the time I left the country, which was in September of 1981. Why were few people willing to help me even though my husband a heroû You have to live in a communist society to know. How could they help meû After all, if they helped me they would be dead. They would be blacklisted by the government, they would be punished. Therefore I had to be on the move all the timeï


The children stayed with me most of the time, but whenever the search by the Communists got too close, I would give them to my mother to care for and until things calmed down and then they would live with me again.


I got little help also because not many people in Saigon knew that I was the wife of General Hung. I hid that fact from everyone. During the period of 1975 to 1981 I had no idea of committing suicide, but if I was captured by the Communists, then I would have to die, I was willing to die in a brave manner and not be tortured nor would I lose face nor would I hurt my husband's honor.


During that time period who could be happyû I could not be happyï Who could ever be happy living under Communist ruleû In the aftermath of the war, in the first few years, my hopes were still high and I was hoping that there would be a coming back, a return, because there was news and rumors of the resistance forces fighting, and I never thought of leaving the country. I was still thinking and hoping that the communist would be booted out of the South. However, as time went on and I recognized that I knew that the situation was not as rosy and advantageous to us, to the South Vietnamese people, I decided that the only way to be able to do something for the country was to leave the country and then go overseas and maybe from the overseas base I would be able to affect the situation. There was no way I could become an activist in Vietnam because they were always following me, like a shadow. They followed me that closeï They followed me day and night.


When my husband was alive he never told me to leave the country nor did he have the idea of leaving the country. But at night, in my dreams, when my husband came back and he told me the communists were near and that I should flee again and so he saved my life so many times.


I left Vietnam finally by boat. I was in a refugee camp with my children for 11 months in the Philippines. Then I came to the United States.


Besides freedom, I wanted to make a life for my children, to raise them and to continue to follow the path of my husband. I tried to do as I promised my husband before he died.


I dream about Vietnam all of the timeï For sureï It is in my mind and it is always with me Yes, I doï I always dream about being back in Vietnam and being chased and being hunted down by the communists. And my children can still remember their father....


image092image093

LE NGUYEN VY


Về vụ xử bắn ĐT Hồ Ngọc Cẩn Tỉnh trưởng tỉnh Chương Thiện tại Cần Thơ


image095image096image098

Đại tá Hồ Ngọc Cẩn và cố vấn Mỹ. Google


Trước lúc bịhành hình, những người cộng sản xử ông hỏi ông có nhận tội không thì ông trả lời như sau:


     "Nếu tôi thắng trong cuộc chiến, tôi sẽ không kết án các anh như các anh kết án tôi.  Tôi cũng không làm nhục các anh như các anh làm nhục tôi.  Tôi cũng không hỏi các anh câu mà các anh hỏi tôi.  Tôi chiến đấu cho tự do của người dân.  Tôi có công mà không có tội.  Không ai có quyền kết tội tôi.  Lịch sử sẽ phê phán xét đoán các anh là giặc đỏ hay tôi là ngụy.  Các anh muốn giết tôi, cứ giết đi.  Xin đừng bịt mắt.  Đả đảo cộng sản.  Việt Nam muôn năm".  

      Đại Tá Cẩn bị giải lên chỗ hành hình, mấy tên khăn rằn hung hăng ghìm súng bao quanh người chiến sĩ. Trước khi bắn người, tên chỉ huy cho phép người được nói. Đại Tá Cẩn trong chiếc áo tù vẫn hiên ngang để lại cho lịch sử lời khẳng khái: "Tôi chỉ có một mình, không mang vũ khí, tôi không đầu hàng, các anh cứ bắn tôi đi.  Nhưng trước khi bắn tôi xin được mặc quân phục và chào lá quốc kỳ của tôi lần cuối". 

     Dĩ nhiên lời yêu cầu không được thỏa mãn.  Đại Tá Cẩn còn muốn nói thêm những lời trối trăn hào hùng nữa, nhưng người đã bị mấy tên khăn rằn nón cối xông lên đè người xuống và bịt miệng lại. Tên chỉ huy ra lệnh hành quyết người anh hùng.  Điều duy nhất mà bọn chúng thỏa mãn cho người là không bịt mắt, để người nhìn thẳng vào những họng súng thù, nhìn lần cuối quốc dân đồng bào.  Rồi người ngạo nghễ ra đi.

15 Tháng Chín 2014(Xem: 7369)
Vào thế kỷ thứ 13 bên Ý có lâu đài danh tiếng giữa cánh đồng trồng nho làm rượu. Bẩy thế kỷ sau, có ông tỷ phú NAPA lấy mẫu lâu đài Amarosa đem về xây cất tại Hoa Kỳ. Công trình bàn thảo 30 năm và mất 15 năm xây cất. Lâu đài 8 tầng với 5 tháp canh vĩ đại theo kiểu thành trì thời trung cổ Âu châu. Vật liệu đem từ Ý qua, các chi tiết mô phỏng theo đúng nguyên bản tại Ý với các hầm rượu, các gian hầm giam giữ tù nhân, các đường hầm và những khu tiếp tân trong lòng đất. Hiện nay đây là điểm thu hút du khách Hoa Kỳ tại vùng NAPA.
14 Tháng Chín 2014(Xem: 12078)
Ở Nam Cali tôi được gặp mấy nhóm thân hữu, toàn những người có tấm lòng son sắt với quê hương và dân tộc. Tôi còn nhớ một chị thổ lộ rằng nghe Trung Cộng kéo giàn khoan vào Biển Đông mà lòng đau quặn, có đi chơi cũng không thấy vui, có đi ăn cũng chẳng thấy ngon.
02 Tháng Chín 2014(Xem: 14985)
* Vừa qua có ý kiến so sánh sự phát triển của ta với Hàn Quốc. Cụ thể là “cách đây bốn, năm mươi năm, Việt Nam và Hàn Quốc có trình độ phát triển tương đương. Sau mấy mươi năm, rà lại tư liệu thấy Hàn Quốc hiện có khoảng 90.000 người sống tại Việt Nam và Việt Nam cũng có 90.000 người sống ở Hàn Quốc. Chỉ khác nhau ở chỗ hầu hết người Hàn Quốc tại Việt Nam làm ông chủ, làm quản lý, còn người Việt Nam ở Hàn Quốc chủ yếu làm thuê”. Ông nghĩ sao về sự so sánh này?
21 Tháng Tám 2014(Xem: 17016)
Văn Hóa Magazine Online nhận được E-mail từ bạn đọc và từ Viet Art Center vietartcenter@aol.com, một thư ngỏ của Ô. Phan Kỳ Nhơn, Chủ tịch Liên Ủy Ban Chống CS & Tay Sai, một của Đức Cha Dominic Mai Thanh Lương, Giám mục Phụ tá Giáo phận Orange và một của Giáo sư John Tsuchida. Để rộng đường dư luận, tòa soạn Văn Hóa đăng nguyên văn ba Thư ngỏ dưới đây:
13 Tháng Tám 2014(Xem: 16164)
“It’s so sad, it’s so sad”(Thật là buồn, thật là buồn), tôi nghe thấy Pat lẩm bẩm nói bâng quơ... Không ai nói năng gì nữa. Cũng chẳng còn hạt nước mắt nào để mà khóc. Tôi ngả đầu vào lưng ghế và nhắm mắt lại,” Tổng thống (TT) Richard Nixon viết để kết thúc cuốn Hồi Ký đài 1,120 trang.
22 Tháng Bảy 2014(Xem: 12030)
Ông Phạm Quang Vinh là nhà ngoại giao chuyên nghiệp với thâm niên hoạt động trên 30 năm Chủ tịch nước Trương Tấn Sang vừa bổ nhiệm ông Phạm Quang Vinh làm đại sứ Việt Nam tại Hoa Kỳ, thay ông Nguyễn Quốc Cường sắp hết nhiệm kỳ.
10 Tháng Bảy 2014(Xem: 19355)
Tôi là Huỳnh Tấn Mẫm, không mang một danh phận nào trong guồng máy công quyền hay một địa vị xã hội, tôi chỉ là một thanh niên – nếu các bạn cho tội dùng từ này – một thanh niên nhiều tuổi, và hơn thế, là một công dân có ý thức trách nhiệm về tình hình đất nước hiện nay. Tôi tiếc là không còn nhiều thời gian và sinh lực như các bạn, để có thể cống hiến một cách xứng đáng và trọn vẹn cho một vận hội mới đang đến với dân tộc.
03 Tháng Bảy 2014(Xem: 12666)
Lần đầu tiên trong lịch sử 236 năm của hải quân Hoa Kỳ, một phụ nữ được đề cử vào vị trí cao thứ 2 trong lực lượng này. Thông tín viên VOA Zlatica Hoke tường thuật rằng bà Michelle Howard được thăng chức hôm thứ ba lên làm đô đốc 4-sao và nhận trọng trách mới là phó trưởng lực lượng hải quân. Bà Howard đã làm nên lịch sử qua sự nghiệp quân đội của mình.
01 Tháng Bảy 2014(Xem: 11657)
Hơn 50 năm sưu tầm, ông Huệ đang sở hữu nhiều tem quý, trong đó có bộ khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.