50 năm, 4 tác giả: Thanh Thương Hoàng, Phạm Quốc Bảo, Trần C. Trí, Bình Thanh

26 Tháng Tư 20258:18 SA(Xem: 438)

VĂN HÓA ONLINE - VĂN HỌC-NGHỆ THUẬT – CHỦ NHẬT 26 APRIL 2025


50 năm, 4 tác giả: Thanh Thương Hoàng, Phạm Quốc Bảo, Trần C. Trí, Bình Thanh


Truyện ngắn của Thanh Thương Hoàng

image003

LTS: Nhà văn Thanh Thương Hoàng từ San Jose gởi đến Văn Hóa Online truyện ngắn “Vũng Lầy”. Truyện này tôi đã đọc từ lâu lắm, nhưng khi mời Nhà văn Thanh Thương Hoàng góp bài nhân dịp 50 năm mùa Tháng Tư Đen, ông nhanh chóng gởi ngay. Ông TTH là một tiểu thuyết gia chuyên về xã hội ở Sài Gòn, ông là cựu Chủ tịch Hội Ký Giả VN từ năm 1969-1973. Tắt phim, ông vào tù rồi được chính phủ Mỹ can thiệp cho qua Mỹ định cư.


Mời quý bạn đọc xem truyện ngắn “Vũng Lầy” của Nhà văn Thanh Thương Hoàng.


Vũng Lầy


Đây là lần thứ hai ông cựu Trung úy Võ Trung Úy, nguyên Đại đội trưởng Đại

đội X thuộc Tiểu đoàn Z trấn giữ mặt trận Long Khánh cho tới ngày chót

được lệnh rút lui, đi Việt Nam. Lần này, không còn lo lắng sợ hãi như lần

trước nữa nên ông đi một mình thăm ông già đang bị bệnh nặng, để bà vợ ở

lại Mỹ. Hơn nữa bà còn phải trông coi cửa hàng ăn không thể giao phó cho

người khác. Không biết cái tên Trung Úy do ông già ông đặt có phải là tiền

định không mà sau mấy năm đeo mãi cái lon Trung úy, khi tới lúc sắp được

lên lon Đại úy thì... đứt phim!

 

Sau khi bệnh trạng ông già có phần thuyên giảm, ông Võ Trung Úy mới có

chút thì giờ đi dạo phố phường. Thành phố Saigon bây giờ đổi khác hơn mấy

năm trước nhiều. Thiên hạ tưng bừng trưng diện ăn chơi đủ mốt đủ kiểu,

chẳng thua kém gì bọn thanh thiếu niên ăn chơi bên nước Mỹ. Bỗng ông Úy

nhận thấy một điều mà lần trước có lẽ ông không để ý tới hoặc chưa

phát triển một cách tiến mau tiến mạnh lên xã hội chủ nghĩa như bây giờ.

 

Đó là giai cấp ăn mày. Trước đây, theo Các Mác, trong xã hội tư bản có

giai cấp công nhân vô sản, nay trên con đuờng phát triển đi lên xã hội chủ

nghĩa, giới ăn mày (còn nghèo hơn những người thuộc giai cấp công nhân vô

sản nhiều) phát triển rất nhanh, rất mạnh từ đầu đường xó chợ tới chốn thôn

quê. Khắp đâu đâu cũng đầy rặc ăn mày nên vô hình trung một giai cấp mới

đã tự phát và hình thành trong xã hội chủ nghĩa: giai cấp ăn mày!

 

Đang đi trên đường Lê Lợi, chỗ gần chợ Bến Thành, cùng với một người bạn,

bỗng có kẻ bất thình lình cầm tay ông Úy níu lại. Giật mình ông Úy dừng

bước và quay nhìn: đó là một gã ăn mày tuổi ngoài trung tuần, râu tóc xồm

xoàm áo quần lếch thếch nhưng không đến nỗi rách rưới. Gã ăn mày không

đợi "thí chủ" hết ngạc nhiên, nói liền: Xin ông bạn Việt kiều giúp cho người

anh em khốn khó vài tờ! Ông Úy giận lắm. Ăn mày gì mà chơi kiểu cha

vậy. Ông giật tay và cất bước trong khi người bạn đi bên tủm tỉm cười: Anh

bạn bình tĩnh! Chuyện này ở đây diễn ra như cơm bữa! Nhưng ít ra chúng

nó cũng phải tỏ vẻ lễ độ! Xin ông bạn Việt kiều bớt nóng, cảm thông bố

thí cho anh em nhờ! Lễ độ hay không, chuyện nhỏ. Tiếng gã ăn mày nổi

lên phía sau, sát bên ông Úy. Thì ra gã vẫn chưa chịu bỏ cuộc. Và theo bước

gã còn một tên ăn mày nữa. Tên này chống nạng gỗ, mặc bộ đồ bộ đội Bắc

Việt mầu xanh lá cây đã bạc phếch, và đầu vẫn đội chiếc nón cối cũ bẩn cũng

như chủ nó. Cả hai trông chưa đến nỗi ốm yếu tới độ sắp chết đói mà

trái lại còn có phần dữ tợn đe dọa.

 

Người bạn đi cùng ông Úy vội kéo nhanh ông bước như chạy, nói: Thôi ông ơi,

tránh hủi chẳng xấu mặt nào, hơi đâu giằng co với bọn nó. Đến công an bọn nó còn c

óc sợ huống chi bọn mình! Giai cấp mới đang lên mà! Về nhà suốt buổi tối ông

Úy bị ám ảnh mãi hình dạng và lời lẽ của gã ăn mày. Bất chợt ông thấy khuôn mặt

gã có vẻ quen quen như gặp đâu nhiều lần. Ông cố lục tìm trong trí nhớ, trong dĩ vãng

mãi mà vẫn không nhận ra con người ăn mày có vẻ quen quen này. Đêm đó ông

Úy trằn trọc không ngủ được. Sáng hôm sau ngồi uống trà với ông già, ông

Úy biết thêm nhiều chuyện về giai cấp ăn mày.

 

Ở miền Bắc, miền Trung nhiều Làng, nhiều Xã kéo cả vào Nam ăn mày.

Bố ăn mày, mẹ ăn mày, con ăn mày. Toàn gia ăn mày. Cả họ ăn mày.

Đời sống của họ đôi khi còn huy hoàng hơn giai cấp công nhân vô sản nhiều.

Người ta không còn có mặc cảm nhục nhã khi phải ngửa tay xin tiền bố thí nữa

mà nhiều lúc còn hãnh diện.

 

Họ xin tiền khách qua đường không cho họ chửi liền. Họ lên án xã hội.

Họ chửi cái xã hội đã biến họ thành nạn nhân, thành những kẻ khốn cùng.

Họ chẳng còn gì để mất kể cả sự sống nên họ hết sợ. Khuôn mặt gã ăn mày

hôm trước cứ ám ảnh ông Úy mãi đã thôi thúc ông đi tìm gặp lại gã.

 

Ông không mất công tìm kiếm lâu. Hôm nay gã ăn mày không chạy bám theo

khách nữa. Gã cùng gã ăn mày bận bộ đồ bộ đội ngồi trước một Nhà hàng

ăn, vẫn ở cuối đường Lê Lợi gần chợ Bến Thành. Ngoài hai gã ra cũng còn

dăm bẩy đồng nghiệp của gã. Nhưng những người này ngồi hơi xa cửa ra

vào Nhà hàng. Nhà hàng có vẻ có nhiều món đặc sản; nên bà con Việt kiều

đến khá đông.

 

Khi ông Úy tới giáp mặt gã ăn mày mà gã vẫn tỉnh khô coi như chưa hề gặp.

Có lẽ gã quên ông rồi. Ông Úy cất tiếng: Chào người anh em! Gã ăn mày

ngước nhìn: Đồng chí Việt kiều chào tôi hả? Ủa, mới hôm qua gặp nhau quên rồi sao?

Gã mặc bộ đồ bộ đội ngồi bệt dưới đất cạnh gã, nhận ra trước: A! ông anh bữa

qua bọn mình xin tiền đéo cho lại còn nói sỏ đây mà! Hôm nay ông anh nổi máu

từ tâm muốn bố thí cho hai thằng này hả?

 

Lúc đó gã ăn mày mới như chợt nhớ ra à lên một tiếng và nói tiếp:

Thì ra là lão Việt kiều keo kiệt bữa qua. Thế nào người anh em?

Phát cho vài tờ xanh xem nào. Ông Úy lặng lẽ nhìn gã ăn mày vài phút mới

nói: Tôi trông anh quen lắm!

Gã ăn mày phá lên cười: Ha ha! Thì cứ nhận đại là quen đi!

Quen thằng ăn mày có khó khăn gì mà phải mầu mè! Thế đằng ấy trước có đi

lính không? Lính Cộng hòa ấy mà! Tớ là lính thứ thiệt chứ không phải thứ dởm

lợi dụng sắc áo mầu cờ để ăn xin ăn mày đâu nhé!

Trước tớ là đơ dèm củ bắp. Tớ bị thương trong trận đánh cuối cùng ở Long

Khánh. Quay sang gã ăn mày mặc bộ đồ bộ đội, gã nói tiếp: Thằng này

cũng ở mặt trận Long Khánh nhưng nó là ... VC. Gã bạn tiếp lời ngay: Là bộ

đội, là chiến sĩ đi B giải phóng miền Nam đã để lại chiến trường một cái chân

và một con mắt làm kỷ niệm! Gã ăn mày tiếp lời: Còn tớ thì đi đứt một

khúc ruột và cánh tay trái. Đấy, nó cụt tới tận vai đấy! Gã vén ống tay áo

cho ông Úy coi chỗ cánh tay cụt. Ông Úy không nhịn được tiếng thở dài.

 

Ông hỏi: Thế bạn trước ở đơn vị nào? Gã ăn mày trả lời liền: Quên cha nó

rồi! Bỗng gã bất ngờ nổi quạu: Thôi ông nội! Có bố thí đồng nào thì bố thí

đi, chứ cứ đứng cà kê dê ngỗng mãi, còn để người ta kiếm ăn chớ! Trong

khi ông Úy hậm hực bỏ đi còn nghe tiếng gã ăn mày bận bộ đồ bộ đội chửi

với theo: Cái ngữ này đồ Việt kiều rởm, vờ vĩnh nhận vơ bạn bè để mai

mốt gạ xin nhập bọn đây! Mẹ đời đa sự! Sau câu nói gã nhổ bọt đánh toẹt

một cái. Rồi gã vụt đứng dậy chống nạng chạy theo một bà – vận bộ đồ trông có

vẻ Việt kiều từ trong nhà hàng bước ra – Bà ơi, xin bà thông cảm ... Nhờ ơn

đảng chúng tôi mới trở thành những kẻ khốn cùng!

 

Mấy hôm sau ông Võ Trung Úy tình cờ gặp một bạn cũ từ Mỹ về. Anh này

trước cùng đơn vị với ông mang cấp bậc Thiếu úy Trung đội trưởng. Hai

người gặp lại nhau một đôi lần ở Mỹ, vì mỗi người sống một Tiểu Bang. Sau

câu chuyện hàn huyên, người bạn nói: Niên trưởng còn nhớ thằng Lâm

nhắng trong đơn vị mình không? Ông Úy vỗ trán mãi mới nhớ ra: Ồ, có

phải cái thằng lính ba gai luôn chuồn đi chơi gái nhưng đánh giặc rất chì phải

không? Đúng rồi đó! Nó bị thương nặng ở mặt trận Long Khánh những

ngày cuối cùng. Tưởng chết té ra nó vẫn chì, vẫn còn sống nhăn tới ngày

hôm nay. Tôi có xin được một số tiền của anh em cựu quân nhân đem về

cho nó. Mấy ngày hôm nay tôi lần theo địa chỉ nó gửi thư sang Mỹ mà tìm

mãi không ra. Nó nói ở đâu? Trong một nghĩa địa cũ vùng Ngã Ba

chuồng chó. Người ngợm nó ra sao? Có ảnh đây. Ông cựu Thiếu úy móc

trong ví ra một tấm hình cũ kỹ mờ nhạt. Nhìn ảnh ông Úy kêu ầm lên:

Đúng rồi! Thì ra cái thằng Lâm nhắng là nó. Ta đến chỗ nó hành nghề;

ngay đi! Thì ra niên trưởng đã gặp nó? Nó bây giờ làm nghề gì? Cứ đến

gặp sẽ biết.

 

Buổi tối hôm đó tại một quán nhậu bình dân ở một khu xóm ngoại ô tồi tàn

có ba người khách vừa ăn uống vừa chuyện trò rôm rả. Đó là hai ông Việt

kiều: ông cựu Trung úy Đại đội trưởng, ông cựu Thiếu úy Trung đội trưởng

và ông cựu lính cộng hòa đơ dèm củ bắp; đang hành nghề ăn xin ăn mày.

Ông cựu Trung úy hỏi: Bây giờ có khoản tiền ngoại viện rồi cậu có tính làm

lại cuộc đời không? Làm lại thế nào? Lâm nhắng hỏi. Ông cựu Thiếu úy

đáp: Tức là thôi nghề ăn xin ăn mày này mần nghề khác lương thiện hơn.

Bỗng Lâm nhắng đặt mạnh ly bia đang uống xuống bàn, trợn mắt nói: Hành

nghề ăn mày ăn xin đâu có gì xấu xa. Phải nói đó là những con người lương

thiện! Ăn mày ăn xin còn hơn ăn cắp ăn trộm đục khóet của công, ăn thịt

người sống lẫn người chết! Chúng tôi bị dồn tới bước đường cùng mới phải

ngửa tay xin ăn thiên hạ. Còn bọn chúng nó là bọn bất lương buôn dân bán

nước! Thử hỏi như vậy ai đáng trọng hơn ai, ai đáng khinh hơn ai!

 

Nhưng tôi thấy hành nghề này vất vả quá, bấp bênh quá, sống ngày nào biết ngày

ấy! Ông cựu Trung úy nói. Lâm nhắng bỗng cất tiếng cười lớn: Ha, ha!

Thưa niên trưởng! Ngài cũng thừa biết bọn tôi hành nghề này là chửi cha chúng nó.

Chúng nó đã lãnh đạo đất nước tiến mau tiến mạnh lên xã hội chủ nghĩa bằng

cách làm cho cả triệu người trở thành bần cùng hết kế sinh nhai phải đi ăn

xin ăn mày. Đây là một sự lên án nặng nề bọn cầm quyền mà chúng tôi là những

nhân chứng sống! Chế độ này còn tồn tại thì chúng tôi còn tiếp tục đi ăn xin

ăn mày cho tới khi cả nước trở thành ăn xin ăn mày. Và bây giờ hình như cả

nước đang bước vào con đường này rồi đấy!

 

Chúng tôi chẳng có mặc cảm gì hết. Đừng phiền trách chúng tôi! Và cũng

đừng diễn trò đạo đức giả với chúng tôi! Trong lúc ba người đang bức bối vì

vấn đề đặt ra thì gã ăn mày bận bộ đồ bộ đội chống nạng bước vào. Mùi

hôi hám từ cơ thể gã tỏa ra làm hai ông Việt kiều nhăn mặt. Lâm nhắng

nói: Ngồi xuống đây em, uống bia nhé! Đồ nhậu đó cứ tự nhiên. Quay lại

phía hai chiến hữu cũ, gã nói tiếp: Thằng này là bộ đội chính cống từ miền

Bắc vào giải phóng miền Nam. Bọn nó đụng với đơn vị mình ở mặt trận Long

Khánh những ngày sau cùng đấy, hà hà bố khỉ! Sao hai người lại gặp

nhau, quen nhau? Ông Úy hỏi. Thì gặp nhau trong cùng chí lớn là đi ăn xin

ăn mày, khách đồng điệu mà! Thế là quen nhau rồi thân nhau. Trước đó tôi

với nó đã đập lộn một trận vì cái trò Nam Bắc phân tranh đấy. Thấy câu

chuyện vui vui có vẻ hấp dẫn, ông Úy cười nói: Cậu có thể kể bọn tôi nghe

việc đập lộn vì cái trò Nam Bắc phân tranh được không? Được chớ!

Uống ngụm bia, có lẽ để nhấp dọng, Lâm nhắng bắt đầu kể;

 

Sau một thời gian tập sự hành hiệp giang hồ trong Cái Bang (1), trở thành

đệ tử chính cống của lão giáo chủ Hồng Thất Công, tôi phải ra tay đánh đông

dẹp bắc mãi mới trở thành Cái Bang bốn túi chiếm cứ được vùng đắc địa

(chỗ niên trưởng gặp bữa trước đó). Sở dĩ gọi là vùng đắc địa vì đó là nơi

bọn Việt kiều, bọn cán lớn cán nhỏ và dân áp phe hay lui tới ăn nhậu. Đối với

bọn họ vài ngàn bạc bỏ ra bố thí có nhằm nhò gì, còn hơn là cứ để bọn Cái

Bang theo sau lải nhải nói năng sỏ siên, kể cả dọa dẫm. Vì chỗ đất béo bở

vậy nên có nhiều ruồi bu, mật ít ruồi nhiều mà! Thế là phải mở những cuộc

tranh hùng thanh toán nhau giữa đồng nghiệp, tuy không đẫm máu nhưng

cũng sứt đầu mẻ trán mãi tôi mới làm trùm lãnh địa này. Thằng bộ đội này,

Lâm nhắng chỉ vào gã cựu bộ đội đang nhồm nhoàm nhai một cái đùi gà, nó

mò tới quyết ăn thua đủ với tôi. Tôi là độc thủ đại hiệp, còn nó mới thuộc

típ độc cước đại hiệp, tướng một giò thêm độc nhãn địch sao nổi lại tướng

hai giò đầy đủ lưỡng nhãn.

 

Qua mấy hiệp nó đánh không lại tôi, nó thua nó bèn dùng chưởng miệng

(nghề của bè đảng nó mà!) chửi tôi là lính ngụy, là thế nọ thế kia. Tôi chửi lại

Nó quân Bắc kỳ bẻo, đểu cáng. Rồi nó cứ luôn rình rập phá đám tôi hoài.

Nổi hung tôi định giở trò đấm đá thì nó bỏ chạy. Thấy mình nguôi nguôi nó lại

sáp lại chọc phá đám, không để yên cho mình làm ăn. Bọn ăn mày ở đây ai cũng căm

ghét quân Bắc kỳ cục. Chúng nó đổ tại bị bọn này giải phóng (phỏng giái)

nên mới phải đi ăn mày.

 

Một hôm tôi hỏi nó: Tao thua tao phải đi ăn mày. Mày thắng tại sao mày

cũng đi ăn mày? Nó đốp chát liền: Tao với mày cả hai thằng đều thua nên

mới trở thành ăn mày. Tao mất cái chân, mày mất cái tay coi như huề.

Chúng nó mới là kẻ thắng!

 

Chúng nó là ai? Tôi hỏi. Là bọn đồ tể hiện đang ngồi ngất ngưởng những

chỗ cao nhất nước hưởng thụ xương máu bọn tao đó! Nói xong nó bỗng òa

khóc như con nít. Tới đây Lâm nhắng ngừng nói quay nhìn gã cựu bộ đội ăn

mày xem phản ứng. Thấy gã vẫn thản nhiên ăn uống như không có chuyện

gì xẩy ra. Có lẽ lâu lắm rồi gã mới được ăn uống một bữa khoái khẩu hả hê

như vậy. Lâm nhắng vui vẻ tiếp tục kể: Phỏng giái miền Nam xong, nó

cũng được đảng giải phóng cho xuất ngũ về quê. Ngày trở về. anh bước

lê … trên quãng đường đê... (Lâm nhắng nói như hát). Về tới làng xưa xóm

cũ thì bố mẹ đều chết hết, còn cô vợ yêu quý nay đã trở thành bà Xã đội

trưởng. Thế là mất tất cả. Hận đời hận tình, nó bỏ vào Nam. Chẳng có nghề

ngỗng gì anh chàng trở thành đệ tử của Lão tổ Cái Bang Hồng Thất Công.

 

Một hôm ngồi mãi không thấy ai thẩy cho nó một đồng trong khi đó bà con

Việt kiều biết tôi là lính cũ cho tiền ào ào, nó chửi đổng: Địt mẹ, cùng là kẻ

thua cả mà vẫn còn trò phe phái, ngụy bênh ngụy, ngụy giúp ngụy. Còn

thằng này lỡ làm lính bắc kỳ cộng sản thì tẩy chay thì bỏ mặc. Kỳ thị đến thế

là cùng! Thế mà luôn mồm bầu ơi thương lấy bí cùng... Nhưng rồi chính các

đồng chí của nó cũng tẩy chay, cũng kỳ thị, cũng bỏ mặc và còn hắt hủi nó

nữa. Bữa đó có mấy trự có vẻ là quan to tới ăn uống. Khi các quan ra về

thằng ăn mày cựu bộ đội Bắc kỳ chạy theo tả oán xin xỏ. Chẳng những

không được bố thí nó còn bị các quan mắng như tát nước vào mặt là quân

phá hoại, tiêu cực, bôi bác, bêu riếu chế độ, nên tóm cổ quẳng vào trại cải

tạo! Thế là nó nổi giận chẳng còn nể nang sợ hãi gì nữa. Nó văng tục chửi

thẳng vào mặt các quan, nào là bọn phản bội; nào là quân chó má uống

máu ăn thịt chiến sĩ đồng bào; nào là …; hãy trả lại chúng tao những cánh tay,

những cái chân và cả triệu người chết.... Thế là nó bị mấy thằng bảo vệ đi

theo các quan tẩn cho một trận thừa sống thiếu chết. Nó bò lê bò càng trên

hè phố mà miệng vẫn không ngừng chửi bới nguyền rủa. Tôi thương nó bắt

đầu từ đấy.

 

Trở về Mỹ cả tháng mà ông cựu Trung úy Võ Trung Úy vẫn còn băn khoăn

trăn trở về hai gã ăn mày từng là lính của hai chế độ. Đúng họ là

những kẻ thua cuộc và mãi vẫn còn thua. Và bây giờ làm sao họ đòi lại được

những cánh tay, những cái chân, những con mắt đã để lại chiến trường

để biến họ thành con người như ngày hôm nay? Ông cựu Trung úy Võ Trung

Úy bất chợt nghĩ tới bốn chữ Tổ Quốc Ghi Công. Tổ quốc nào ghi công

những người cựu chiến binh ăn mày này?

 

(1) Giới ăn mày

 

Thanh Thương Hoàng


**


Sách mới của Nhà văn Phạm Quốc Bảo:

image005

“Cuốn Lên Bức Mành”


image007Trang bìa sách “Cuốn Lên Bức Mành”


image009Bìa sau sách “Cuốn Lên Bức Mành” và lời Bạt của Tô Đăng Khoa.


image011LL tác giả: 714.651.9720


***


Truyện ngắn của Trần C. Trí

image013

LTS: Qua một vài lần sơ giao qua các buổi sinh hoạt Văn học Nghệ thuật ở Little Saigon, tôi biết được Nhà văn Trần C. Trí. Không chỉ là nhà văn, ông còn có hơn 15 năm kinh nghiệm giảng dạy tiếng Tây Ban Nha, tiếng Pháp, tiếng Việt và ngôn ngữ học các thứ tiếng gốc La-Tinh tại một số trường Đại Học Nam California. Ông có bằng MA và PhD về ngôn ngữ học các thứ tiếng gốc La-Tinh tại University of California, Los Angeles.


Riết rồi trong mối giao tình văn nghệ lẫn sự quý trọng, tôi ngỏ lời muốn đăng các trước tác của ông trên Văn Hóa Online, ông thoải mái đáp, Okay! Xin lấy trên DA MAU.ORG


Truyện ngắn ‘hàng xóm’ – tựa giản dị, không viết hoa. Đọc một hơi, tôi ưa ngay. Tôi không phải là nhà phê bình văn học, nhưng cảm nhận đầu tiên - nếu không có cái giọng văn hơi hướng ‘rặc’ miền Nam của Trần C. Trí (và những nhà văn, nhà thơ, nhà biên khảo khác trên Da Màu.org) ở hải ngoại, thì e rằng – ngôn ngữ văn chương miền nam Việt Nam trước 1975 đang đi đến chỗ ‘thất truyền’.


50 năm nay, ở trong nước, phong cách ngôn ngữ hiện thực ‘đặc sệt’ của miền Bắc xã hội chủ nghĩa hầu như đã ‘xâm thực’ hoàn toàn vào đời sống xã hội quần chúng, chữ nghĩa của miền Nam bị xếp vào xó. Không tin, các bạn có thể về thăm Việt Nam, đi từ Bắc chí Nam thử quan sát sự giao tiếp trong xã hội như thế nào.


Tiếc thay và cũng mừng thay, hải ngoại có ‘hàng xóm’. (lkt)


hàng xóm


Trần C. Trí ♦ 17.03.2025

https://damau.org/102602/hang-xom

image015

Truyện ngắn Hàng Xóm được đăng dưới bút hiệu Bảo Chấn, trong mục Những Cây Bút Mới của tạp chí Làng Văn số 26, tháng 10, 1986. Truyện được sáng tác vào thời gian tác giả còn đang ở trại tỵ nạn Palawan, Phi Luật Tân. Bức minh hoạ kèm theo là nguyên bản dành cho truyện Hàng Xóm trong số báo này.


Trước năm 1975, cũng như mọi gia đình khác, nhà tôi chẳng bao giờ nghĩ rằng có ngày mình sẽ sống chung với cộng sản trên mảnh đất miền Nam tự do này, đừng nói chi đến chuyện sống kề cận họ trên cùng một con đường và trở thành… hàng xóm của họ. Thế nhưng cảnh ngộ hiện tại, dù hay hay dở, đều ít nhiều là những bất ngờ mà trước đây ta không tài nào biết trước được.


Vào những ngày cuối cùng của tháng Tư lịch sử ấy, chúng tôi là một trong những gia đình may mắn nhất, thoát khỏi Nha Trang trên một chiếc C-130 để vào Sài Gòn, nhờ ông dượng làm trung tá Tiếp Vận Năm giúp đỡ, sau đó chờ người cậu em má tôi làm cảnh sát trưởng Quận 5 xin vé máy bay di tản qua Mỹ. Nhưng trời chẳng chiều lòng người, tấm vé máy bay ghi đặc danh sách năm mươi mấy người trong đại gia đình tôi chỉ là tờ giấy ghi số của một chuyến bay không bao giờ cất cánh! Rồi sau một tháng sống trong sợ hãi, hoang mang ở Sài Gòn thất thủ, gia đình tôi lại dắt díu nhau về lại Nha Trang, giữa một rừng cờ máu lạnh lùng, đầy đe doạ.


Căn nhà của gia đình tôi trong cư xá sĩ quan đã bị người khác vào chiếm để ở. Trước đó, ba tôi có cất một căn biệt thự nho nhỏ sát bên nhà ông ngoại tôi, định để dọn về ở khi hưu trí. Nhưng ông thấy tuổi hưu còn xa nên quyết định cho Mỹ mướn vài năm để, theo ông nói, lấy lại tiền xây nhà. Nhưng cũng chính vì cho Mỹ mướn mà căn nhà đó đã bị Việt cộng tịch thu. Ba tôi đã làm không biết bao nhiêu lá đơn để đòi lại nhà, nhưng cơ quan này lại đẩy cho cơ quan kia, để rồi cuối cùng bọn cán bộ nhà nước đưa ra luận điệu như thế này: “Cách mạng tiếp thu căn nhà từ trong tay người Mỹ chứ không phải từ chính ông.” Nếu chỉ có vậy thôi thì cũng đành, đằng này nhà đã không trả mà mỗi năm bọn thuế vụ của sở nhà đất vẫn bắt ba tôi đóng thuế đều đều. Chúng nói, nếu ba tôi không đóng thuế thì căn nhà đó sẽ thuộc hẳn về nhà nước. Tất nhiên là có đóng thuế đã chắc gì lấy lại được nhà, nhưng dẫu sao cũng còn chút hy vọng mong manh nên ba tôi vẫn bóp bụng đóng thuế hằng năm. Cho tới nay đã là năm thứ mười một rồi, thuế vẫn đóng nhưng nhà vẫn chưa, hoặc vẫn sẽ không bao giờ được trả lại.


Cũng may là nhà ông ngoại tôi ở kế bên rất rộng nên gia đình tôi và cả các dì tôi có thể về đó tá túc. Mất nhà đã tức, mà căn nhà đó lại sờ sờ ngay trước mặt nên càng gai mắt hơn. Kẻ đầu tiên dọn vào là một tên trưởng ty công an, Việt cộng nòi. Cả nhà tôi ai nấy đều ngán ngẩm, e chẳng sống được lâu với kẻ thù ngay bên cạnh. Tên trưởng ty này có hai đứa con trai, nghe nói đã du học ở bảo Gia Lợi về, rất học đòi thói ăn chơi Âu Tây. Chúng lôi ở đâu về một cái máy thu băng để ngày ngày nghe nhạc. Phòng của hai anh em chúng có hai cái cửa sổ trông qua nhà ông ngoại tôi nên quanh năm suốt tháng chúng cứ đóng rịt cửa lại, chắc sợ nhà tôi dòm ngó. Chúng chơi đủ loại băng nhạc “phản động” do ông già của chúng tịch thu được, nào nhạc vàng, nhạc kích động ngoại quốc, máy mở oang oang suốt ngày. Thời đó, ai mà nghe những loại nhạc ấy đều bị bắt chứ đâu đã được các quán cà-phê phát rộng rãi như những năm về sau này. Nhờ vậy, tôi có dịp tha hồ nghe nhạc ké. Anh em nhà chúng, cũng như hai vợ chồng bố mẹ chúng, tuyệt nhiên chẳng giao du với ai chung quanh họ. Vì vậy, suốt mấy năm trời, hai bên chúng tôi chẳng ai thèm biết đến ai. Thấm thoát, đã đến ngày tên Việt cộng già đó về hưu. Hắn tậu một căn nhà khá tiện nghi ở Xóm Mới, chắc là do từ vàng bạc ăn hối lộ trong suốt mấy mươi năm phục vụ “bác” và “đảng” của hắn. Căn nhà của ba tôi mà hắn đang ở, nhà nước chỉ cho hắn sử dụng lúc còn tại chức mà thôi. Khi hắn dọn đi, một cặp vợ chồng công an khác lại dọn tới. Chính cặp vợ chồng này sẽ trở thành “hàng xóm” thật sự của nhà tôi.


Vừa đến được mấy bữa, chị vợ đã sang nhà tôi chơi ngay. Chị ta khẽ khàng chào cả nhà, đoạn hướng về má tôi, chị vào đề ngay:


“Thưa bác, chồng em biểu em qua thăm hai bác. Chồng em giáo dục em, ‘Anh em xa không bằng láng giềng gần’, cho nên em mong được qua lại với hai bác từ rày trở đi, để khi tối lửa tắt đèn mình có thể giúp đỡ nhau.”


Mới đầu, nghe chị ta kêu tôi bằng bác và xưng em, tôi thấy cũng không có gì lạ vì nhìn bề ngoài, chị ta cũng khá đứng tuổi. Nhưng sau này hỏi ra mới biết là chị mới ba mươi hai tuổi, hơn chị cả của tôi ở bên Mỹ có một tuổi mà thôi. Trời đất! Ba mươi hai tuổi mà già quéo! Đến nỗi ban đầu tôi phải gọi chị ta bằng dì, và cho tới bây giờ tôi vẫn không đổi được cách xưng hô ấy. Con người chị ta là điển hình của một chị bộ đội cái. Tóc chị dài không ra dài, ngắn không ra ngắn, loà xoà trên một gương mặt sạm nắng, đen đủi. Tay chân chị xù xì, to bè bè, chắc trong thời kỳ chống Mỹ… phá nước, hại dân, chị đã đi dân công nhiều lắm. Trông chị không khác gì mấy nàng liên tử trước năm Bảy Lăm chuyên đi ở đợ cho mấy ông lớn miền Nam để lấy tin tức cho “cách mạng”. Mà thật vậy, chị ta vốn là dân Bình Định, trước đây hoạt động nằm vùng ở nội thành Nha Trang, đã từng sống kiếp cơm thầy cơm cô, và đã lê chân hết nhà tù này sang nhà tù khác để phục vụ sự nghiệp “giải phóng miền Nam”. Người chồng hiện tại của chị cũng là dân miền Nam tập kết ra Bắc, có vợ rồi ly dị. Sau ngày “đại thắng”, trai anh hùng gặp gái thuyền quyên bèn gá nghĩa châu trần, ăn ở với nhau được hai mụn con gái. Ông chồng lớn tuổi hơn chị ta khá nhiều. Ông ta làm phó ty công an đặc trách về mặt hình sự, đặc biệt là tội vượt biên. Khi biết được điều này, tôi khoái chí tuyên bố với cả nhà:


“Vậy là từ bây giờ mình có quyền vượt biên dài dài! Hễ bị bắt là ổng sẽ ra lệnh thả mình ra ngay.”


Bà chị kế của tôi liếc xéo tôi một cái:


“Hứ! Cho mầy lời đó hả? Mầy cứ thử đi rồi bị bắt coi ổng có thả mầy hay không cho biết!”


Má tôi chậm rãi góp lời:


“Bộ con chưa hiểu cộng sản là gì hay sao mà nói kỳ vậy? Cha mẹ họ, họ còn đấu tố không nương tay, huống chi mình là người dưng nước lã, mà ba con lại là ‘nguỵ’ một trăm phần trăm. Con không nhớ là bà vợ cứ theo hỏi má hoài, tại sao ba là đại uý mà không đi ‘học tập’ sao?”


Tưởng nói chơi cho vui, ai dè bị công kích dữ quá, tôi tiu nghỉu nín thinh. Nhưng xét cho kỹ thì chị Ba, chị vợ ông công an ấy, cũng không đến nỗi tệ, ấy là đứng trên bình diện con người với con người mà nói. Dĩ nhiên là chắc vợ chồng chị cũng đã suy tính kỹ lưỡng trước khi “thiết lập” mối “quan hệ ngoại giao” với nhà tôi. Đành rằng họ là kẻ thắng cuộc và chúng tôi thuộc phe chiến bại, nhưng biết đâu họ là những người biết kiêng dè. Họ có thể nghĩ rằng, nếu không biết ăn ở với xóm giềng, lỡ có kẻ nổi khùng đang đêm ném qua nhà họ một trái lựu đạn rồi tính làm sao?


Hơn nữa, qua lại với nhà tôi, chị Ba được dịp dòm ngó và tha hồ… học đòi. Chị ta ưa qua nhà tôi vào bữa cơm, ngó một cách không giấu diếm thẳng vào mâm cơm coi chúng tôi ăn món gì. Bữa nào chỉ có toàn rau muống luộc, tôi cảm thấy thật nhẹ nhõm trước cặp mắt soi mói của chị ta; còn khi trên mâm có miếng thịt miếng cá, tôi thấy khó chịu không ít. Nhưng phải công bình mà nói, chị ta tò mò như vậy không phải để… tố nhà tôi, mà là để nhân đó coi thử nếp sống của chúng tôi cho thoả tính hiếu kỳ của mình mà thôi. Chị ta tôn thờ chị Hiền của tôi như thần tượng; nhất nhất kiểu tóc, kiểu áo quần gì của chị Hiền, chị đều bắt chước, mà bắt chước một cách rất vụng về. Có hôm chị qua nhà tôi trong một bộ cánh mới toanh, mái tóc uốn quăn tít thò lò. Cái áo mousseline đỏ choé tương phản thật tội nghiệp với làn da đen nhẻm của chị. Móng tay, móng chân của chị cũng được sơn phết cẩn thận; màu đỏ bầm nổi bật trên những ngón tay nhăn nheo như những con bọ màu đỏ bò trên một chiếc lá úa. Chị Ba hãnh diện hỏi chị tôi:


“Hiền, mầy thấy tao ăn bận như vầy có được không?”


Tuy lớn hơn chị Hiền tôi có năm tuổi, chị Ba vẫn nghiễm nhiên coi mình ngang hàng với ba má tôi, và như vậy chị em tôi chỉ vào hàng con cháu của chị thôi.


Chị Hiền lập nghiêm, cố nín cười:


“Đẹp chớ dì! Dì lựa vải ở đâu mà khéo quá vậy?”


Chị Ba không đợi ai mời, ngồi vật xuống ghế, ra vẻ mệt mỏi:


“Ối, tuần trước tao đi kiếm bắt mỏi cẳng ở chợ Đầm mới được đó. Họ nói đây là thứ xơ-lin xơ-leo gì đó ‘nhập khẩu’ từ tuốt bên Nhựt lận!”


Hùng, thằng em tôi, giả bộ ngắm nghía cái áo một hồi rồi “phát biểu”:


“Chà, vải của tụi đế quốc hình như hơi mỏng đa!”


Má tôi vội mắng át nó cho chị Ba đỡ ngượng:


“Đồ quỷ! Mầy thì biết gì. Bây giờ là mùa hè, bận vậy đi làm cho mát, phải không chị Ba?”


Chị Ba rút vai, le lưỡi:


“Dạ, em hổng dám ăn mặc như vầy đi làm đâu bác ơi! Ở sở họ phê bình chết. Em định để đi phố chơi mới bận.”


Khi chị Ba đã ra về rồi, cả nhà tôi lăn ra cười. Má tôi lầu bầu:


“Ăn với mặc! Ngó giống như Hà Bá!”


Hễ thấy ai ăn mặc kệch cỡm là má tôi đều nói giống Hà Bá. Tôi cũng không hiểu Hà Bá có ăn vận loè loẹt thật hay không! Có điều tôi thấy chị Ba đáng thương hơn đáng ghét. Chị thật thà như đếm, ấy là nói về mặt ngôn ngữ, cử chỉ của chị ở nhà, chứ một “công an cái” như chị khi thi hành nhiệm vụ thì không thể nào thật thà được. Bằng không thì làm sao mà kềm kẹp nhân dân được! Nhưng hình như vào tới nhà tôi, chị ba đã cởi bỏ cái lốt công an ra để hiện nguyên hình là một chị nhà quê ít học. Bây giờ, đường đường là phu nhân của một tay phó ty mà một tuần hai buổi tối chị vẫn phải đạp xe đi học bổ túc văn hoá lớp Bảy. Chị thường tâm sự với tôi:


“Mầy biết không, già rồi chớ tao cũng phải cố đi học cho có thêm một chút văn hoá để phục vụ cách mạng, chớ nhiệt tình mà cộng với ngu dốt thì chỉ là phá hoại mà thôi! Lê Nin cũng có nói: ‘Không có sách thì không có tri thức; không có tri thức thì không có chủ nghĩa cộng sản.’ Tao cũng bận bịu ghê lắm, đi làm về mệt quá mà cũng phải tranh thủ khẩn trương đi học để tiếp thu thêm được chừng nào hay chừng đó.”


Chị Ba nói một hơi, trích dẫn tùm lum, dùng “từ cách mạng” chan chát, leo lẻo như vẹt vậy. Hẳn bác và đảng cũng không mong muốn gì hơn là có những đảng viên lặp lại nằm lòng những điều sáo rỗng như chị. Cũng như mọi con cháu bác hồ, chị Ba rất thích nói chữ. Năm ngoái, chị sanh đứa con thứ ba, cũng lại con gái, trong khi vợ chồng chị đang ao ước một đứa con trai. Vừa cứng cáp một chút, chị đã ẵm con bé mới sanh qua nhà chúng tôi, buồn rầu nói:


“Vỡ kế hoạch rồi bác ơi! Phen này là em bị kiểm điểm phê bình là cái chắc!”


Chị ngó đứa con còn đỏ hỏn trên tay, chép miệng tiếp:


“Đáng lẽ đâu có cái con này! Em đã vận dụng hết những phương pháp kế hoạch hoá gia đình mà cán bộ y tế đã truyền đạt cho em, ngờ đâu lại có cái sự cố đột xuất như vầy!”


Má tôi an ủi:


“Thôi thì cũng đã lỡ rồi. Đã sanh con ra thì phải rán mà nuôi chớ chị đừng nói vậy không nên đâu. Con nào cũng là con. Chị không nhớ ông bà mình nói sao? ‘Trai mà chi, gái mà chi? Con nào có nghĩa có nghì là hơn.’”


Chị Ba than thở:


“Khổ một cái là nhà nước đã vận động mỗi nhà chỉ nên có từ một đến hai đứa con. Nếu đã lỡ mà có được một đứa con trai thì chịu phê bình em cũng cam lòng. Dè đâu lại lòi ra thêm một thị mẹt nữa! Sai chính sách, trật đường lối, em còn mặt mũi nào mà lãnh đạo ai nữa!”


Của đáng tội, chị Ba cũng rất quan tâm tới người khác. Thấy tôi có cô bạn gái khi làm xa, mỗi lần về nhà đều ghé tôi chơi, hễ vắng cô ít lâu là chị Ba lại hỏi:


“Dũng à, sao người yêu của mầy lâu rồi không thấy tới chơi?”


Tôi thẹn đỏ mặt:


“Dì Ba kỳ quá! Trong này không ai xài chữ ‘người yêu’ hết, ngoại trừ trong sách báo mà thôi.”


Chị Ba tỉnh bơ hỏi tiếp:


“Sao? Chừng nào tụi bây mới xây dựng với nhau đây? Tao coi con nhỏ đó cũng nết na hiền lành đó chớ.”


Tôi làm bộ thở dài:


“Xây với dựng gì hả dì? Dì thấy đó, cháu thất nghiệp, làm nhà báo, báo đời ba má cháu. Thanh niên mà vậy thì nhục lắm, sung sướng nỗi gì mà còn nghĩ tới chuyện vợ con nữa.”


Chị Ba nghiêm trang giảng giải:


“Thằng Dũng mầy suy nghĩ vậy là sai rồi. Dì đồng ý là gia đình cháu có nhiều cái kẹt, nhưng đâu phải vì vậy mà mầy không chịu lấy vợ! Theo tao thì mầy cứ lấy vợ đi, rồi tự nhiên mầy sẽ tháo vát ra mà lo nuôi vợ nuôi con hà!”


Tôi nhăn mũi:


“Tháo vát? Ờ, mà phải, có vợ rồi chắc cháu sẽ phải ‘tháo’ đồ ở nhà ra mà ‘vác’ ra chợ trời bán kiếm tiền quá!”


Chị Ba cười hắc hắc. Được một cái là chị không hay mếch lòng, mặc dù mỗi người trong nhà tôi đều rình có dịp là nói xỏ nói xiên nhà nước với chị. Nói cho cùng, chúng tôi cũng thừa hiểu rằng chị Ba cũng chỉ là nạn nhân của cộng sản mà thôi. Có khác với chúng tôi chăng là ở chỗ chị không ý thức được thân phận tôi đòi của mình, cứ cung cúc phục vụ chúng nên được nhà nước ưu đãi. Vợ chồng chị có hẳn một bác sĩ riêng. Hễ họ hơi se mình là khỏi phải đi đâu, cứ ở nhà chờ là bác sĩ sẽ tới. Thật khó có thể tưởng tượng được, giữa một xã hội lầm than như vầy mà vẫn có những kẻ được hưởng những đặc quyền kiểu đó. Tối tối, nhà ai cũng tắt điện tối om, trong khi nhà chị Ba vẫn sáng trưng như ban ngày. Nhưng chị Ba không lấy điều đó làm tự hào. Phải công nhận rằng chị ăn nói, suy nghĩ theo một kiểu rập khuôn, nhưng không phải lúc nào cũng vậy. Chị biết nhà tôi đã nộp hồ sơ xin giấy xuất cảnh để qua đoàn tụ với chị tôi bên Mỹ. Lẽ ra, cũng như bao nhiêu người cộng sản khác, chị phải ganh ghét mới đúng. Đằng này, chị lại cho chuyện đó là hợp lý, rằng gia đình tôi là “nguỵ” nên không cách nào khác hơn là phải ra đi. Điều đó là hoàn toàn “lô-gích”, phù hợp với “quy luật phát triển của sự việc”, chị Ba thường bảo vậy.


Chị nói với hai anh em tôi:


“Thằng Dũng, thằng Hùng rán kiếm chuyện gì đó làm đỡ trong khi chờ đợi giấy tờ. Đừng có dại dột nghe lời kẻ xấu xúi bậy đi vượt biên, lỡ bị tụi nó bắt thì khổ.”


“Tụi nó” ở đây là chị với chồng chị chớ ai trồng khoai đất này nữa?!! Vô tình mà chị lại đứng về phía chúng tôi để nói điều đó. Dường như trong thâm tâm, chị cũng nhận thấy rằng gia đình tôi là như vậy đó, không thể nào và không bao giờ sống mãi với cộng sản được, hay có sống chung thì cũng là cảnh đồng sàng dị mộng mà thôi. Cũng như vợ chồng nhà chị, không có con đường nào khác hơn là cứ con đường cách mạng rộng thênh thang tám… tấc mà thẳng tiến! Phía chúng tôi thì hầu như không khi nào dám tuyên truyền cho chị nghe về đời sống sung sướng trước “giải phóng”, mà chỉ lựa lời nhẹ nhàng chỉ trích xã hội đương thời. Chị Ba thì lại không hề có một lời nào phê bình lối sống “tiểu tư sản” nhàn nhã của nhà tôi, vì có lẽ chính chị cũng thấy nói ra thì khó nghe quá chăng?


Nhà chị Ba cũng nuôi heo như hầu hết những gia đình cán bộ khác, để góp phần “cải thiện” bữa ăn, chị phân bua như vậy. Tới kỳ bán heo, chị chạy qua nhà tôi, kể lể:


“Bữa nay cả nhà em mới được ‘ăn tươi’ một bữa bác à! Tội nghiệp, mấy đứa nhỏ nhà em tụi nó thèm miếng thịt miếng cá lắm.”


Tụi tôi lén rỉ tai nhau:


“Chết cha! Vậy thì chừng nào bả ‘nuốt sống’ đây không biết!”


Tức cười một điều là chị Ba không chịu bán heo cho nhà nước theo giá “thoả thuận” mà lại xé rào đem bán cho lái heo tư nhân. Chuyện này chị cũng không giấu má tôi. Kể xong, chị thở dài:


“Em cũng biết như vậy là sai, nhưng bác nghĩ coi, nếu mình bán heo với giá chính thức để lấy tiền mua đồ ăn giá chợ đen thì làm sao chịu cho thấu?”


Chị Ba cũng thảo ăn lắm, có miếng ngon gì chị cũng thường hay chia xẻ với nhà tôi. Chị Hiền than thở:


“Ăn miếng ăn của Việt cộng sao khó nuốt quá trời!”


Ba tôi điềm đạm nói:


“Không lẽ người ta đã cho, mình lại không nhận coi sao được. Thôi thì mình cứ sống với nhau bằng tình người là hay hơn hết. Rồi mình có món gì thì đáp lễ lại cho vui vẻ đôi đàng. Chị Ba có cảm tình với nhà mình thật đó, chớ nghĩ cho cùng, chơi với mình chị ta có lợi gì đâu? Bây giờ ai có phận nấy, mình không thể thành cộng sản, mà họ cũng không thể nào thành tư sản được. Sống thuận thảo, tôn trọng lẫn nhau được như vầy cũng là quý lắm rồi. Mình có muốn chống đối họ cũng chẳng đi đến đâu.”


Thằng Hùng lầu bầu:


“Nhưng con không muốn thoả hiệp với cộng sản!”


Tôi nạt nó:


“Có ai bắt mầy vô chung chính phủ với họ đâu mà thoả hiệp với không thoả hiệp! Mầy cũng thấy đó, bả có muốn qua nhà mình thì bả qua chớ nhà mình có ai qua nhà bả làm chi đâu.”


Nói vậy chứ tôi cũng có dịp qua nhà chị Ba một lần rồi. Đâu như lần đó cái lavabo của nhà chị bị nghẹt, sửa hoài không được, chị bèn ngó qua cửa sổ, kêu tôi:


“Dũng, mầy qua coi giùm tao cái la-xơ-bô làm sao mà nó nghẹt cứng ngắc hà!”


Tôi miễn cưỡng khoác vội cái áo lên người, bước qua nhà chị. Nhà là nhà của ba tôi, đất là của ông ngoại tôi cho, mà giờ đây tôi lại rụt rè bước vào như tá điền vào nhà chánh tổng xin khất nợ vậy. Ở bên nhà tôi, bốn năm người sống tùm húm với nhau trong hai gian phòng chật chội đầy những đồ đạc; còn bên này, phòng nào ra phòng nấy, nền lát gạch bông, đủ thứ tiện nghi. Hèn chi hồi xưa tụi Mỹ thích quá, ba tôi đòi lại hoài mà họ không muốn trả. Ngày xưa, ngôi nhà cao ráo, sạch sẽ là thế, mà ngày nay nó nhớp nhúa kinh khủng. Vách tường lam nham đầy những vết tay bẩn của lũ nhỏ, mấy cánh cửa bằng gỗ quý đánh vernis đều xỉn đen một vòng quanh lỗ khoá.


Bước vào buồng tắm, tôi suýt té xỉu vì quang cảnh ngoạn mục bên trong. Ôi thôi, dây dọc dây ngang chị Ba giăng từ bên này qua bên kia, phơi đầy quần áo đủ màu, rực rỡ như cảnh đoàn xiếc nhân dân trung ương! Cái “la-xơ-bô” của chị Ba đóng một lớp ghét dầy cả tấc. Cái gương soi mặt lốm đốm những vết nổ của lớp thuỷ tráng phía sau. Nhìn vào đó, tôi thấy một gương mặt thẫn thờ, lồi lõm méo mó. Tôi thở dài, loay hoay sửa cái bồn rửa mặt. Xong xuôi, tôi chắp tay sau lưng, lững thững đi dọc theo hành lang, ghé mắt nhìn vào gian phòng có cửa sổ thông qua nhà tôi. Khi xưa, lúc nhà đang xây, ba tôi đã tuyên bố là căn phòng này sẽ dành cho tôi. Bây giờ, nó ra làm sao rồi? Ở không hết, chị Ba lấy phòng này này làm nơi chứa “chất đốt”, nói nôm na là củi, để xen lẫn với đủ thứ đồ lặt vặt, màng nhện giăng tứ phía. Tôi lại thở dài, lầm lũi đi về nhà, quên cả chào chị Ba. Trời nắng chang chang mà sao lòng tôi thấy lạnh lẽo quá chừng.


“Nhà bếp” của gia đình tôi là một lối đi hẹp chạy dài theo vách nhà tôi với vách nhà chị Ba, bề ngang chỉ đủ một người đi lọt. Anh em tôi kiếm ba thứ vải dù, ni-lông bậy bạ che phía trên cho đỡ phần nào mưa nắng. Bên nhà chị Ba còn có một cái cửa sổ khác trổ sang “nhà bếp” bên tôi, là nơi mà thỉnh thoảng chị Ba lại hé cánh cửa ra giấm giúi cho má tôi miếng thịt nạc hay con cá tươi, và cũng là chỗ mà bà đưa qua đáp lễ chén chè, miếng bánh. Có hôm, chợt nhìn qua khe cửa, thấy má tôi đang đứng lúi húi nấu ăn, mồ hôi mồ kê chảy ròng ròng giữa một vùng khói khét lẹt, chị Ba tặc lưỡi:


“Bác cũng cực quá há! Nhà bên đó vườn tược rộng rãi vậy mà không có được một cái nhà bếp.”


Giọng chị đượm vẻ thông cảm và hết sức chân thành. Trong lòng tôi có một cảm xúc lẫn lộn, buồn vui khó tả. Trước hết, đó là sự mủi lòng, xen với một cảm giác dễ chịu khi được người khác hiểu được nỗi khó khăn của mình. Nhưng bên cạnh đó là lòng tự ái nổi lên. Phải, không tự ái sao được khi người tỏ ra thương hại đó, nói xin lỗi, lại là một bà Việt cộng ngày xưa đi ở đợ để nằm vùng, hồi đó xin xách dép chưa chắc mình đã cho. Tôi nghĩ thầm: “Chắc bà cũng thừa hiểu, sở dĩ nhà tôi chịu cảnh như vầy cũng là do cái đảng… cướp của bà đó chớ không ai vào đây đâu! Vậy mà bây giờ…” Tôi quay mặt đi, nén tiếng thở dài, cố nhớ tới lời ba tôi khuyên: “Mình cứ sống với nhau bằng tình người là hay hơn hết.”


Má tôi cũng lấy làm cảm động trước những nghĩa cử của chị Ba. Bà thường nói:


“Vợ chồng đó ăn ở cũng tốt bụng. Để khi nào ‘có gì’ tao sẽ cho họ chạy qua nhà mình núp.”


“Có gì”, theo má tôi, nghĩa là một ngày nào đó quân đội Cộng Hoà sẽ trở lại. Má tôi rất tin tưởng sẽ có ngày đó.


Thằng Hùng, kẻ chống cộng quyết liệt, lại được dịp cằn nhằn:


“Như vậy là má chứa chấp cộng sản chớ gì?”


Má tôi cười:


“Mầy ngu lắm! Má cho họ trốn trong nhà mình để rồi từ từ dụ họ trở về với chánh nghĩa quốc gia mấy hồi!”


Thế nhưng chuyện đời thì chẳng ai biết trước được. Không ngờ có một dịp thằng Hùng lại phải mang ơn kẻ thù không đội trời chung của nó. Số là nhân có một “tuy-dô” vượt biên của người quen chỉ dành cho một người, ba má tôi cho Hùng đi chuyến đó. Địa điểm vượt biên là ở Cam Ranh, nơi có căn cứ quân sự của Mỹ ngày xưa, cách Nha Trang khoảng 60 cây số về hướng nam. Rủi thay, thằng Hùng chưa đi tới đâu cả mà đã bị bắt ngay trên chuyến xe đò đi Cam Ranh. Công an chận xe lại, xét bất ngờ và tóm ngay cu cậu cùng một số người đi chung xe vì dáng điệu khả nghi và lý do vào Cam Ranh không rõ ràng. Trong lúc gia đình tôi ở nhà đang nín thở, hồi hộp chờ đợi tin tức, không biết Hùng đi tới đâu, thì ngày hôm sau, chị Ba hớt hơ hớt hãi chạy qua báo tin dữ:


“Bác ơi, làm sao mà thằng Hùng lại bị bắt trong một nhóm toan tính vượt biên gần Cam Ranh vậy?”


Má tôi rụng rời tay chân, hỏi lại:


“Chị nói sao? Có thật vậy không? Mà làm sao chị biết được?”


Chị Ba nói một thôi một hồi:


“Thì chồng em phụ trách chuyện vượt biên mà. Thằng Hùng nó khai tên tuổi, địa chỉ, nhân viên công an báo cáo với chồng em, ổng mới ngã ngửa ra khi biết đó là thằng Hùng nhà mình!”


“Thằng Hùng nhà mình”, chị Ba nói mấy chữ đó nghe sao mà cảm động đến vậy. Tối hôm đó, ba tôi dẹp tự ái, cắn răng bước qua nhà chị Ba, xin được nói chuyện với chồng chị. Đây là lần đầu tiên ba tôi gặp tận mặt tay công an sừng sỏ này. Ngày xưa, dù gì ông cũng là sĩ quan trong quân lực Việt Nam Cộng Hoà, bây giờ lỡ bước sa cơ phải đành chịu lép vế. “Anh Ba” (mặc dù chúng tôi chưa bao giờ gặp ông để xưng hô như thế) tỏ ra rất thông cảm và hứa với ba tôi sẽ “giải quyết vụ này”. Hai ngày sau, quả nhiên, thằng Hùng được thả ra, thất thểu trở về nhà, trông đến tội nghiệp. Một thời gian dài sau đó, nó đâm ra ít nói hơn trước, mặt mũi lúc nào cũng có vẻ trầm ngâm. Chắc nó nghĩ phải mang ơn “kẻ địch” thì đúng là còn miệng ăn mà hết miệng nói.


Về phần má tôi, bà tỏ ra thân mật hơn với chị Ba sau vụ đó, nhưng tất nhiên là vẫn luôn giữ kẽ.


Trong lúc chuyện trò với chị hàng xóm bất đắc dĩ này, má tôi chỉ toàn nói những câu đưa đẩy cho vui mà thôi. Trong sự giao thiệp với chị Ba, nói chung, cả nhà tôi ai cũng ở vào thế thủ, trong khi chị Ba càng ngày càng tham dự sâu hơn vào sinh hoạt của gia đình chúng tôi. Mỗi lần nhà tôi nhận được giấy báo vô Tân Sơn Nhất lãnh quà do chị lớn của tôi bên Mỹ gởi về (chị đi theo chồng qua diện đoàn tụ gia đình), chị Ba cũng vui lây. Thấy nhà đã nhận được giấy rồi mà mãi chưa có ai đi Sài Gòn, chị sốt ruột nhắc:


“Ủa sao thằng Dũng thằng Hùng đâu mà không không đứa nào chịu đi lãnh đồ cho rồi?”


Thế là thằng Hùng được dịp tả oán:


“Đâu có dễ như vậy hả dì? Kỳ này chị cháu ở bên Mỹ mới đổi địa chỉ nên phải chỉnh lại trong sổ lãnh hàng. Tụi cháu đi lên đi xuống hải quan mấy ngày nay mà vẫn chưa xong. Đó là tụi nó đã hút của cháu hết hai gói ba số 5 rồi!”


Chị Ba khoát tay, ra vẻ chán nản:


“Ờ, tao cũng phải công nhận là bây giờ nhiều chỗ làm ăn còn quan liêu, cửa quyền ghê lắm!”


Chưa đã, thằng Hùng còn đế thêm:


“Tiêu cực nữa chớ dì!”


Được nghe chính Việt cộng tố Việt cộng, tụi tôi cũng hả hê lắm. Kỳ đó lãnh đồ xong, má tôi tặng chị Ba cái vòng mã não màu huyết dụ. Chị mừng hết lớn, săm soi cái vòng hoài. Mà cũng dễ hiểu, chắc từ nhỏ tới giờ, chị có khi nào được đeo những thứ đó đâu.


Chị Ba khoái đồ Mỹ, rõ ràng như vậy. Nhưng có lẽ chị vẫn ghét Mỹ, ghét những người muốn trốn đi Mỹ. Bây giờ, biết tôi đã vượt biên qua trại tỵ nạn rồi, không biết chị có còn qua nhà tôi chơi nữa không? Trần C. Trí


****


Tạp ghi của Bình Thanh Nguyễn


Tiếc Sách


Posted by GLN
Ngày nay, người ta đã quen nhìn vào màn hình máy tính, nên giở một trang sách không còn là một niềm vui nữa: “Chúng tôi không có thời giờ…Chúng tôi không rảnh rỗi…”  Một lý do chính đáng hơn là chúng ta không còn đủ rừng để làm giấy in sách nữa, thế kỷ này, những thành tựu trong lãnh vực kỹ thuật số giúp giải quyết việc lưu trữ, đang dần thay thế các ấn bản và sách đã có một hình tướng khác là ebook và nghe người ta đọc cho nghe, ngoài ra, người ta không còn tha thiết đọc chữ như xưa.  Thay vì phải dùng trí tưởng tượng của mình để được thưởng thức văn chương, người ta đã say mê nghe âm thanh dội vào tai và nhìn ngắm hình ảnh đa chiều đầy hấp lực.  Tôi tiếc nhớ mùi giấy mới thơm tho từ quyển sách in mà các trang còn chờ được rọc; riêng sách cũ lại thoảng một mùi hanh khô cổ kính và như dày hơn một chút, hơi vênh lên vì bao lượt bàn tay lần giở…Một người bạn ngày tôi qua Mỹ, chở lại chỗ tôi nhờ cất giữ giùm mấy thùng sách (toàn là sách Việt ngữ, hẳn nhiên rất quý!)  Bạn nói con cháu của bạn không biết tiếng Việt, bạn mất đi rồi, chúng nó vất hết cả…!  Tôi nghe mà thương thay.  Nhưng cũng đùa lại rằng tôi không bất tử, vậy ai sẽ giữ sách đây?  Cùng nhìn nhau cười: “Thôi, đến đâu hay đến đó!”


Các con tôi cũng không mê đọc sách như cha mẹ chúng. Có thích lắm thì chọn xem sách trên mạng, hoặc nghe giọng người đọc trong lúc lướt những ngón tay làm việc online. Tôi chưa quen đón nhận một tác phẩm văn học bằng cách ấy, nên việc giở từng trang sách vẫn khiến tôi thư thái nhất. 


Ở Mỹ, cộng đồng Việt Nam vào những thập niên 1980 – 1990 vừa yên chỗ sau cơn sóng gió ngoài biển khơi, đã tưởng nhớ đến quê nhà qua việc tìm đọc sách tiếng Việt… Con đường thông thương bị đứt đoạn.  Người Việt hải ngoại bắt đầu sáng tác, cho phai lãng nỗi buồn ly hương lẫn thương tổn trên bước đường đào thoát… Công việc ấn loát những năm tháng ấy hẳn rất khó khăn, cho nên hôm nay nhìn những cuốn sách in bên này, tôi cảm thấy đau lòng.  Có cuốn in chữ nhỏ hơn con kiến kim… có cuốn phần lớn các hàng chữ khi mờ khi tỏ… có cuốn giở vài trang đã bung gáy ra hết… Chưa kể tới lỗi chính tả thường nhiều một cách đáng ái ngại… Tôi thương cho người Việt của tôi, trong lúc buộc phải chia lìa đất nước, những thứ bị bỏ lại luôn là sách vở. Hiếm có người ra đi bằng đường vượt biên giới mang theo sách đọc. An thân rồi mới nghĩ đến văn chương nghệ thuật. Ai thì cũng thế thôi.


Tôi có dịp viếng thăm một tiểu thư viện trong một bảo tàng địa phương nơi tôi ở.  Các kệ tủ sắp xếp sách ngăn nắp, thứ tự, không phủ chút bụi, mặc dù có thể biết những quyển sách kia đa số nằm yên vị từ ngày chúng được đặt kế bên nhau. Người ta trân trọng chúng vì đó là biểu tượng tri thức của người Việt Nam ly hương.  Hơn nữa, còn là những gì sót lại của cả một nền văn học từ một quốc gia giờ đã thay đổi chính thể. Dù thế nào đi nữa, tâm hồn của những Việt kiều phải lưu vong vì biến cố ngày 30 tháng Tư năm 1975, đã gửi vào những trang sách nọ một niềm bi thống khôn cùng. Cộng thêm vào đó, còn có những hoài niệm văn chương lưu luyến mãi trong lòng chúng ta… "Hằng năm cứ vào cuối thu, lá ngoài đường rụng nhiều và trên không có những đám mây bàng bạc, lòng tôi lại nao nức những kỷ niệm năm xưa của buổi tựu trường.”… (“Tôi Đi Học,” trích “Quê Mẹ,” Thanh Tịnh) Thành thử, dẫu được viết ra, hay khi được in trở lại, các sáng tác phẩm ấy đều là chứng tích của thời đại mà tác giả họ đang sống trong đó. Thời của Tự Lực Văn Đoàn… thời của các văn thi sĩ miền Nam VN từ 1954-1975… thời của các Việt kiều tứ xứ… Xứng đáng được lưu truyền gìn giữ biết bao. Thế mà vì vài nguyên nhân nào không rõ, những ấn phẩm chứa đựng những mảnh tài hoa của VN phải chịu chung một hình thức ấn loát qua loa sơ sài nọ. Cầm trên tay từng cuốn sách kiểu ấy, tôi buồn quá mức!

Sách in trong nước trông có vẻ khá hơn. Ấn phẩm vẫn đặt nhiều dụng công. Tuy không thể khâu tay như trước nhưng kỹ thuật đóng gáy sách cũng ít gây khó chịu cho người đọc, vì không bị tách lìa từng trang. Riêng phần nội dung đóng khung trong một kiểu, việc xuất bản hầu hết nằm trong sự kiểm soát của Trung Ương (Trực thuộc bộ Văn Hóa và Thông Tin Hà Nội) nên không thể đáp ứng được nhu cầu người đọc. Tất nhiên, vì chế độ cai trị không cho phép người dân đọc các tác phẩm văn học nào trước 1975, thuộc về một nền văn hóa bị gọi là “Kẻ Thù Của Nhân Dân,” thành thử có nhiều danh tác bị cấm ấn hành (Thỉnh thoảng, trong một giai đoạn ngắn cách nhau vài ba năm, bất ngờ các tựa sách cũ được tái bản một cách kỳ diệu ở Sài Gòn, thì nhanh như chớp, chúng được mua hết ngay!)


Qua gần 50 năm, đã tiêu tán hết cả rồi, một nền thi văn có thể xem như đại diện tâm tình dân tộc ở miền Nam Việt Nam suốt hai thập niên trước 1975. Người ta giờ có thể vẫn còn nhớ nhung một đoản văn trong một truyện ngắn nào đó (của Dương Nghiễm Mậu, Doãn Quốc Sĩ, Bình Nguyên Lộc, Trùng Dương, Võ Phiến, Võ Hồng, Nguyễn Đình Toàn…)  Hoặc một câu thơ đâu đó trong một bài thơ (của Nguyên Sa, Du Tử Lê, Thanh Tâm Tuyền, Cung Trầm Tưởng, Hạc Thành Hoa, Khê Kinh Kha, Trần Dzạ Lữ, Nhã Ca, Vũ Hữu Định…)  Có khi là một trong vài cuốn tiểu thuyết đăng báo mỗi ngày (của Ngọc Linh, Hoàng Hải Thủy, Nguyễn Mạnh Côn, Mai Thảo, Duyên Anh, Từ Kế Tường, Lê Tất Điều…)  Hay chỉ một vài chương trong loạt sách biên khảo (của Giản Chi, Nguyễn Hiến Lê, Vương Hồng Sển, Thu Giang Nguyễn Duy Cần, Kim Định, Lãng Nhân Phùng Tất Đắc, Thanh Lãng…)  Và nguyên cả bộ nguyệt san của một nhóm tác gia (như Văn, Bách Khoa, Sáng Tạo, Văn Học, Tuổi Hoa, Tuổi Ngọc…)  Nỗi nhớ ấy tương tự nhưng mãnh liệt hơn nỗi thèm ăn một món quê hương của người xa xứ, không có gì thay thế nổi, ngay tức khắc. Khuynh hướng mỗi cá nhân khác nhau. Cho nên, đất nước không có được một môi trường để nền văn chương đa dạng phát triển, thật cũng chẳng thiệt thòi đối với người đọc lắm ru?

Một người bạn gửi cho tôi nhiều đường link, lưu giữ các truyện ngắn cùng truyện dài ngày trước, gồm cả các sáng tác về sau này. Nhưng không biết sao mà tôi chẳng tìm ra được một thư mục như ý… Tại tôi, tại người, hay tại “Văn Chương Hữu Mệnh” mà ra cớ sự này? Sự mất mát quá nhiều, đối với riêng tôi. Bỗng dưng tôi nhớ lại Tổng Thư Viện Quốc Gia nằm góc đường Gia Long, quận Nhất, Sài Gòn xưa kia… Với bức phù điêu lớn nhất nước lúc đó, trang trí cho vẻ ngoài của thư viện quốc gia một phong cách hoài cổ và mỹ thuật, nổi bật trong mắt khách qua đường một mầu trắng tinh đầy ẩn dụ… Số phận những sách vở thư tịch quý báu trong ấy đi về đâu?  Mong rằng chúng không bị lôi ra thiêu hủy sau 1975. Nhớ lại tiếc sách mà ngẩn cả người.


“Bây giờ ai còn đọc sách in nữa bạn?  Cái gì cũng có trên mạng Net. Tìm không ra ở link này thì kiếm link khác. Tiện lợi và nhanh chóng, không chiếm chỗ trong nhà, khỏi mất công phủi bụi…”-

Người bạn nói như vậy. Tôi cũng thấy mình lạc điệu. Không khéo trở thành một người lỗi thời. Vả chăng, xu thế đương đại là do khoa học kỹ thuật thống lĩnh.  Còn nhớ thủa con người tiền sử vạch vài nét vẽ nguệch ngoạc trên vách đá, đến thời kỳ nối từng chiếc thẻ tre khắc bằng dao, hoặc dùng các phiến lụa dệt để viết, tiến đến việc lọc bột rồi phơi khô thành giấy, trải mấy ngàn năm… và ngành in mộc bản ra đời… Ký ức nhân loại lưu truyền đến nay thật cũng kỳ công. Vì thế, đọc sách online hiện là việc tất yếu phải xảy đến. Đọc những gì, tùy thuộc vào người lập trình cùng ngôn ngữ thông dụng của họ. Người Việt muốn có một đường link cho các tác phẩm Việt ngữ, cũng phải có các chuyên gia để tâm vào phạm trù văn học mới có thể tạo nên. Cũng cần thực hiện trước khi các văn bản mai một đi.  Chỉ có điều, sông dài trời rộng mênh mông, ai biết thuyền ghé bến nào mà chờ đón?  Rốt lại, tìm một thời đã qua còn lưu giữ cũng khó như tìm một người đồng điệu ngoài đời thật.

San Jose, 08/30/2024
Bình Thanh Nguyễn


LL/ VĂN HÓA ONLINE: lykientrucvh@gmail.com
21 Tháng Mười 2024(Xem: 1464)